30. MỘT CHUYỂN HƯỚNG CÁCH MẠNG KINH TẾ
Ông điền chủ tiếp đãi thầy Thiện Duyên vô cùng nồng hậu và thân thiện. Mở đầu câu chuyện, ông hỏi thầy quê quán ở đâu, đến đây có chuyện gì, còn phải đi đâu nữa và tại sao có mặt dự kiến trò chơi cất nhà của các em nhỏ vừa rồi.
Thầy cho biết sinh quán của mình là Sa-oách-thi. Đã cắt ái từ thân xuất gia làm đệ tử Phật. Hiện đang trên đường du hóa. Chỉ tạm trú một vài hôm và sẽ tiếp tục hành trình qua Vương Xá. Thầy tường thuật những sự kiện xảy ra sáng nay dưới gốc cổ thụ tương đối đầy đủ chỉ không đề cập mục đích của mình mà thôi. Thầy hỏi ông ta nghĩ thế nào về trò chơi cất nhà của mình.
Với nét mặt nghiêm trang, giọng nói ôn tồn hàm chứa ít nhiều xúc động, ông trình bày:
- Thưa ông Sa môn, thú thật với ông là trò chơi của các trẻ nhỏ không gây cho tôi một ý thức nào mà chính lời giải thích hữu lý của ông làm tôi tỉnh ngộ. Ông đã soi sáng đời tôi đã mở được cánh cửa lòng của tôi, trái tim tôi đã biết rung động, ông quả thật là cứu tinh của tôi.
Từ trước đến giờ tôi chỉ biết có lợi và danh. Danh, lợi đối với tôi là hơi thở, là mạng sống. Tôi tự thấy chỉ có danh lợi mới giúp tôi hạnh phúc, sung sướng. Tôi ích kỷ đến mức độ không hề biết rung động trước cảnh cơ cực, đau khổ của khẻ khác. Tôi còn tự hào là mình thông minh hơn họ thì mình có quyền bắt nạt họ, bóc lột họ, cười trong tiếng khóc của họ và tạo dựng quyền lợi trên mồ hôi, nước mắt, kể cả xương máu hồng và mạng sống của họ. Đang đi trong đêm tối mà lầm tưởng đang bước dưới ánh sáng mặt trời. Tôi đang say sưa trong giấc ngủ ích kỷ, độc tài thì ông đã đánh thức tôi. Tôi là người hoàn toàn tỉnh thức không còn mộng mị nữa. Hồi tưởng hành động bất nhân bất đức của mình trong quá khứ mà tự thẹn. Tôi không tưởng là mình có thể ích kỷ, độc tài đến mức tàn nhẫn và phi nhân như vậy. Thưa ông Sa môn, ông đã soi sáng đời tôi đem tôi ra khỏi trường dạ tối tăm thì xin ông đừng bỏ tôi bơ vơ, cô độc mà hãy dìu dắt, chỉ điểm để tôi chuộc lại những lỗi lầm quá khứ.
Thầy Thiện Duyên nghiêm từ khích lệ:
- Này đạo hữu, Đức Bổn Sư của bần đạo có dạy “Tâm lý sống người đời có bốn thứ khác nhau”.
* Từ nơi tăm tối bước vào tăm tối
* Từ nơi tăm tối bước ra ánh sáng
* Từ nơi ánh sáng bước vào ánh sáng
* Từ nơi ánh sáng bước vào tối tăm.
Hạng người thứ nhất là hạng người mang tâm hồn ích kỷ, tham lam, tật đố, thân, khẩu, ý bất thiện, thiếu hẳn tình người, chẳng biết xót xa đối với sự cơ cực, đau khổ của kẻ khác, miễn cá nhân mình, gia đình mình sung sướng hạnh phúc là đủ. Đã vậy, mà còn tham lam, tàn nhẫn, độc tài, bóc lột, bất công thêm hơn. Hạng người gọi là từ nơi tăm tối đi vào tăm tối. Hạng bất lương.
Hạng thứ hai cũng mang tâm lý như hạng thứ nhất. Nhưng về sau biết hối cải, ăn năn, bỏ dữ làm lành, trau dồi thân, khẩu, ý toàn thiện, khiến cho nghiệp ác hoàn toàn bị đình chỉ nghiệp thiện được tăng tiến liên tục và mang tâm lý hướng thượng suốt thời điểm sau cùng của cuộc sống, gọi là từ nơi tăm tối bước ra ánh sáng. Hạng hướng thiện.
Hạng thứ ba là người toàn thiện, suốt đời không làm khổ mình, không làm hại người, có nhiều lòng từ, sẵn sàng chia cơm xẻ áo, tế khốn cứu nguy, tu thân hành thiện, phúc huệ trang nghiêm, hành động tự tha lưỡng lợi. Mặc dù vậy, vẫn không hề tự mãn, luôn luôn phát triển định tâm để khai thị huệ tánh, nên gọi là từ nơi ánh sáng bước vào ánh sáng. Hạng thuần lương thánh thiện.
Hạng thứ tư mang tâm lý của hạng thứ ba nhưng về sau lại thay đổi ý hướng, bỏ chánh theo tà, xa chơn gần vọng, dòng suối thiện tâm bị đình chỉ, hoàn toàn chạy theo quyền lực của ác ma như xe hư thắng tuột dốc. Hạng này là hạng hướng hạ.
Này đạo hữu, trong bốn hạng người vừa kể, đạo hữu thuộc hạng người thứ hai. Hạng này Đức Bổn Sư vẫn hằng tán thán. Ngài ví người ấy như mặt trăng thoát khỏi đám mây mờ. Hơn nữa, trên đời có hai hạng người cao quý “Người không phạm lỗi và người biết hối hận”. Đạo hữu hãy hoan hỷ, hãy tự hào rằng hôm nay đạo hữu đã trở thành một trong hai hạng người cao quý ấy. Hãy nhớ lấy… lòng:
Trước kia lỡ dễ duôi
Sau này không phóng dật
Rực sáng giữa cõi đời
Thoát mây, trăng vằng vặc
Khéo dụng các hạnh lành
Xóa tan các nghiệp ác
Rực sáng giữa cõi trần
Thoát mây trăng chiếu sáng.
Thêm phấn khởi, ông ta khẩn cầu thầy Thiện Duyên chỉ dẫn một phương thức hành động cụ thể.
Thấy thời cơ thuận duyên đã đến thầy nghiêm túc nêu giải pháp:
- Này đạo hữu, Đức Từ Phụ dạy: “Gieo giống nào gặp quả nấy, ở hiền gặp lành, làm ác bị khổ, hiến tặng người, người hiến tặng lại, kính lễ người, người kính lễ lại”. Trong đạo Phật không có kỷ luật sắt, kỷ luật bạc mà chỉ có kỷ luật vàng. Những hành động sau đây là biểu hiện cho kỷ luật ấy:
* Thắng người sân hận bằng không sân hận
* Thắng tiểu nhân bằng hành động quân tử
* Thắng người xảo trá bằng hạnh chơn thật
* Thắng người keo kiệt bằng hạnh bố thí
* Thắng người hơn mình bằng đức khiêm cung.
* Thắng người ngang hàng bằng tinh tấn
* Thắng người kém cỏi bằng hiến tặng.
Này đạo hữu, không có hành động hoặc phép màu nào trong việc chinh phục tình cảm kẻ khác bằng sự hiến tặng. Hành động hiến tặng sẽ biến thù thành bạn. Thêm bạn bớt thù là hành động khôn ngoan, khế hợp tình lý, ăn ít no dai, ăn một phần, cho một phần là hạnh phúc. Chỉ biết ăn mà không biết cho là đạo bất công gây thù hận và tự hủy diệt.
Do đó, bần đạo đề nghị đạo hữu truất bớt một phần điền thổ hiến tặng cho các tá điền có liên quan lao động và lợi tức từ trước. Như vậy sẽ có hai điều lợi lớn: người nghèo có ruộng canh tác để sống, đổi thù thành bạn. Người giàu có được một chuyển hướng cách mạng kinh tế, một sự thay đổi trong tim.
Ông địa chủ vô cùng hoan hỷ và quyết tâm thực hành giải pháp ấy. Ông không quên thành tâm tình nguyện quy y Tam Bảo. Thầy Thiện Duyên hướng dẫn ông ta quỳ gối hướng về Kỳ Viên Tịnh xá và trao truyền quy giới.
Sự kiện được ghi nhận là sáng hôm sau, các tá điền được mời họp mặt đông đủ tại nhà ông địa chủ và được hủy bỏ các khoản nợ củ. Đồng thời họ còn được truất hữu làm chủ vĩnh viễn phần đất họ đang canh tác. Thật không sao kể xiết nỗi vui mừng của các tá điền. Họ cảm tưởng được lên thiên đường mà ông địa chủ là người hướng đạo quyền năng. Họ reo hò và hoan hô vang dội cả thôn nghèo.
Trong cuộc cách mạng kinh tế này nào ai biết được nguyên nhân chủ yếu, ngoại trừ thầy Thiện Duyên và ông địa chủ....