← Quay lại trang sách

31. BÊN BỜ SÔNG NI LIÊN THIỀN

Sau hai ngày đường, thầy Thiện Duyên đến bờ sông Ni Liên Thiền thấy một cây xoài sum sê cành lá, phần thân dưới to khoảng hai người ôm, chung quanh không cỏ, thầy đến ngồi dựa vào gốc xoài nghỉ mệt. Một điều khiến thầy hết sức lạ lùng, đó là con sông rất ít nước, ít gần như không có. Chỗ có nước thì rất cạn, nước trong veo, nhìn thấy những hạt cát dưới dòng sông. Thoáng nhìn, cảm tưởng như một con sông cát trắng chớ không phải Ni Liên Thiền. Cái nóng gay gắt trưa hè chiều xuống dòng sông đầy cát khô khiến hơi mù bốc lên như có một màn sương mỏng. Nóng khó thở, nhưng không khí dưới gốc xoài thì tương đối dễ chịu. Ngồi một chút, thầy lại nằm dài trên cát. Trước cảnh vật hữu tình: một con sông cạn toàn màu cát trắng, một gốc xoài đứng nghiêng nghiêng trên bờ sông vắng, tàn lá sum sê như cây lộng, quanh gốc là bãi cát thiên nhiên vừa sạch sẽ vừa mát, đó đây một vài nơi lòng sông còn đọng nước bốc lên một lớp khói mờ. Trong tâm hồn thầy Thiện Duyên bỗng hiện lên hình ảnh từ bi vô lượng phong thái uy nghiêm, bước chân nhẹ và chắc như sư tử của đức Phật đã từng một mình một ngựa vượt qua tất cả thành trì, nội cỏ, núi rừng, bỏ lại ngai vàng, cha già, vợ trẻ con thơ trong một đêm trăng vằng vặc. Dấu chân ngài đã từng in rõ đâu đây trên địa danh này, con sông này, cảnh vật này và trăng sao hôm ấy cũng đã từng chứng kiến ngài đã cầm kiếm báu dũng cảm phi thường, cắt bỏ tóc xanh, vui kiếp sống tang bồng thoát tục. Rồi sáu năm sau, cũng dọc theo con sông này, dưới gốc cổ thụ bồ đề, ngài đã khám phá toàn diện bí mật về chân lý sinh, trụ, dị, diệt của vạn hữu và đắc được Vô -Thượng Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề Trí. Trong khi tâm thức đang trôi về quá khứ, bỗng một ông lão trên dưới 60 đang lùa đàn dê về phía thầy. Sau khi chúng nằm nghỉ quanh quanh, ông lão đến ngồi gần bên thầy gợi chuyện:

- Thầy là người địa phương hay từ xa mới đến?

- Bần đạo từ Sa-oách-thi mới đến.

- Ở xa dữ vậy sao? Thầy đi một mình hay có bạn đồng hành?

- Đi một mình.

- Trời, thầy dám đi một mình?

- Có chi mà không dám?

- Bộ thầy không sợ sao?

- Sợ cái gì, thưa cụ?

- Trộm cướp, thú dữ chẳng hạn.

- Thú thật với cụ, bần đạo không sợ những hiểm họa ấy. Vả lại, bần đạo vô sản, chỉ có bộ y đang mặc và cái bát để xin ăn thì có chi mà phải lo phải sợ, còn thú dữ nếu là oan gia thì dù có lên trời cũng không tránh khỏi. Mạng sống là vật mượn của đất, nước, lửa, gió thì nếu chủ đến đòi thì bần đạo sẵn lòng hoàn trả.

- Thầy quả là người can đảm, vô ưu, vô úy.

- Thưa cụ, bần đạo cũng không phải can đảm hơn người nhưng nhờ biết rõ tất cả hiểm họa ấy không đáng sợ bằng sự chết.

- Nói vậy, bộ thầy không sợ chết nữa sao?

- Không sợ, thưa cụ.

- Thầy cho biết lý do.

- Vì quá quen Thần Chết.

- Thầy đừng nói chơi. Thần Chết linh lắm.

- Thưa cụ, là kẻ tu hành, bần đạo đâu dám nói lời phi lý.

- Thầy giải thích tôi nghe.

- Thưa cụ vấn đề cũng đơn giản thôi. Bần đạo hỏi thật cụ nhé, hồi nhỏ cụ có sợ ai không?

- Tôi có sợ bác hai tôi. Mặt mày trông dữ tợn. Thân người vừa lớn, vừa cao. Mỗi khi tôi khóc, mẹ tôi thường nhát: “nín đi nín đi, coi chừng bác Hai tới”. Thế là tôi nín ngay.

- Nhưng bây giờ cụ còn sợ như vậy nữa không?

- Hết sợ rồi.

- Tại sao?

- Thầy hỏi đột ngột, tôi làm sao trả lời được.

- Thưa cụ, cụ cho phép bần đạo giải thích nhé. Thần chết ví như bác Hai. Chúng sanh ví như cụ. Thuở nhỏ vì cụ không được gần gũi thân thiện với bác Hai nên chỉ nghe mẹ nhát hoặc thấy mặt Bác là cụ sợ hết hồn hết vía. Nhưng khôn lớn lên, cụ có dịp tiếp xúc, trò chuyện, gần gũi thân thiện với Bác nhiều lần nên cụ không còn sợ Bác nữa. Cũng như thế ấy, chúng sanh vì không chịu làm quen, gần gũi trò chuyện với Thần Chết, nên khi nghe đến tên là thần hồn đã muốn lìa thần xác. Còn bần đạo thì mỗi ngày đều có làm quen chuyện trò với Thần Chết. Quen đến độ lúc nào cũng thấy rõ Thần Chết ở ngay nòng mũi. Nghĩa là Thần Chết chỉ chực chờ mang bần đạo đi trong một vòng hơi thở. Đã quá quen như vậy thì bần đạo đâu còn sợ Thần chết nữa.

- Hay, hay, có lý. Nhưng thú thật với thầy, đôi lúc tôi cũng có nghĩ đến Thần Chết, nhưng mỗi lần như vậy là tôi cảm thấy chán đời quá, không muốn làm gì hết. Còn như tôi không nghĩ đến chết thì tôi cảm thấy lạc quan, yêu đời, ăn uống ca hát, vui chơi, hưởng thụ được ngày nào hay ngày đó, chừng chết hẳn hay. Chớ ngồi nhớ ông ta hoài nản lắm.

- Thưa cụ, nếu cụ là chủ một chiếc thương thuyền, chẳng may thuyền bị lủng sắp chìm thì cụ phải phản ứng thế nào? Lo tìm cách sửa chữa chiếc thuyền hoặc tìm kế thoát thân hay cứ ngồi khoanh tay hò hát chờ chết?

- Phải lo cấp tốc tìm cách sửa thuyền là điều kiện tiên quyết. Trong hoàn cảnh bất thành thì phải tìm kế thoát thân. Chớ vui sướng gì mà hò mà hát. Trừ phi người điên mới hành động như vậy.

- Thưa cụ, thì vấn đề sống chết cũng đã tự nó sáng tỏ. Thân nầy ví như chiếc thuyền bị lủng, cuộc sống luân hồi ví như con sông lớn, bờ bên này là khổ ngạn, bờ bên kia là tịnh ngạn, tâm ta ví như chủ thuyền, các thứ phao nổi để thoát thân là những điều phúc đức. Ta sử dụng chiếc thuyền đi buôn sinh lợi thì ta không có quyền hủy hoại nó. Nhưng trường hợp nó bị phá nước thì ta phải cấp tốc sửa chữa không được thì phải dứt bỏ cứu người. Muốn cứu người thì phải dùng phao hoặc những loại dụng cụ không có trọng lượng. Hành động trái với những sự thật ấy là điên rồ, là tự sát.

Nhận thấy ông lão đang để hết tâm trí theo dõi pháp thoại một cách chăm chú và phấn khởi, thầy Thiện Duyên sách tấn:

- Thưa cụ, Đức Bổn Sư của bần đạo có khuyến tỉnh người đời như vầy:

Đời người như lá héo

Diêm sứ chực chờ ngươi

Đang đứng trước cửa chết

Đường trường thiếu tư lương

Đời người nay sắp tàn

Tiến gần đến cõi chết

Dọc đường không quán trọ

Dặm trường thiếu tư lương

Người đời hay sát sanh

Nói láo không chân thật

Lấy của người không cho

Qua lại với vợ người

Uống rượu men, rượu nấu

Đam mê những thứ ấy

Là tự chôn đời mình

Là bứng đào gốc thiện

Con tôi tài sản tôi

Nghĩ quấy, người ngu khổ

Thân ta còn không có

Con đâu tài sản đâu?

Để giúp ông ta có dịp đi vào vườn hoa thưởng thức sắc, hương tùy sở thích, thầy Thiện Duyên hướng dẫn:

- Thưa cụ, trời chưa hẳn hoàng hôn. Cụ hãy cấp tốc tìm cách sửa chữa chiếc thuyền, trường hợp không được thì cụ phải kiên quyết dứt khoát bỏ hết của cải và lập tức ôm phao để cứu lấy mạng sống. Cái phao ấy là hạnh bố thí, đức trì giới, lực tham thiền nghĩa là luôn luôn hướng tâm nghĩ việc lành, sửa miệng nói lời lành, khiến thân làm hạnh lành. Những thiện pháp này là năng lực chủ yếu điều phục tham, sân, si, giúp chúng ta sống lợi lạc, chết sanh thiên.

Sau phần kết luận ông lão chấp tay đối diện thầy Thiện Duyên, phát nguyện xin trọn đời quy ngưỡng Phật, Pháp, Tăng. Thấy đạo tâm ông lão thuần cố, thầy Thiện Duyên hướng dẫn ông quỳ gối hướng về kỳ Viên Tịnh xá và trao truyền quy giới.