← Quay lại trang sách

Chương 7 1

Sau gần hai năm thực hiện âm mưu xây dựng "mật khu Tam Điệp", Cục tình báo trung ương Mỹ vững tin đã phái 25 tên ra Ninh Bình hoạt động ở vùng núi Tam Điệp. Tukơ phấn khởi viết báo cáo trình lên Tổng thống Mỹ xin kết thúc giai đoạn một của chiến dịch "Phá cộng sản từ trong lòng cộng sản" ở khu vực Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa để chuyển sang giai đoạn hai. Sau nhiều báo cáo điều trần của Cục tình báo trung ương Mỹ, Tổng thống Mỹ đã chấp thuận.

Theo kế hoạch của Tukơ và nhóm chuyên gia tình báo Mỹ ở số nhà 52 Bạch Đằng, công việc chính của giai đoạn hai chiến dịch này là tuyên truyền đồng bào giáo dân tham gia mật khu. Nhiều bức điện mật mã từ Đà Nẵng điện cho linh mục Bường, công an đã thu được nhưng không tìm ra khóa mã nên vẫn chưa thể trả lời những câu hỏi: có phải linh mục Bường là tổng tư lệnh "mật khu Tam Điệp" không? Người quản lý giáo xứ kia là người như thế nào?

Gần hai năm, vị linh mục không bước ra khỏi khu vực nhà thờ. Chúa nhật nào ông cũng khoác bộ áo chùng thâm từ phía sau nhà thờ đi ra thánh đường để gặp những giáo dân, có cả người ốm, người tàn tật từ các làng xóm ở vùng đất kề biển đến làm lễ.

Ông kiên nhẫn yên lặng nghe từng người đến xưng tội, rồi lựa lời truyền lại những điều Chúa răn. Mỗi khi có con chiên nào không may bị ốm, đau chân, gẫy tay, ông rời khỏi giảng đàn đi đến bên những người đó thăm hỏi và chia cho họ bánh thánh.

Sự quan tâm của vị linh mục Bường đã khiến giáo dân quanh vùng yêu mến, khâm phục và kính trọng. Ông được mọi giáo dân đánh giá: "Cha là một người hết mực kính Chúa và vì Chúa".

Biết giáo dân tin mình, một hôm, ông bước lên bục giáo đường, sửa lại cặp kính trắng cho ngay ngắn, giảng giải:

- Chúa sinh ra từ nghèo hèn, lớn lên trong cảnh bần hàn nên Chúa rất thương người. Khi vùng Kim Sơn này giải phóng, Chúa đã phải chạy vào Nam. Từ ngày đó đến nay, Chúa mong được trở lại vùng này để gặp các con. Các con hãy nhìn kìa - Linh mục Bường chỉ tay về phía tượng Chúa - đôi mắt của Chúa chúng ta: Chúa Giêsu như mang một nỗi u uất, nhớ mong các con ở đây. Nhưng kẻ thù rất xảo quyệt, những kẻ tà giáo rất gian ngoan, chúng đã tìm mọi cách để ngăn cản không cho Chúa trở về đây - Linh mục dừng lại lấy hơi rồi lại tiếp tục nói, giọng nghiêm nghị - Các con trông kìa. Cái miệng của Người đang nói với chúng ta, Người muốn về đây sống với chúng ta.

- Ôi lạy Chúa lòng lành!- Mọi giáo dân đưa tay lên làm dấu, mắt đờ đẫn, đăm đăm nhìn vào tượng Chúa.

Vị linh mục vẫn tiếp tục thuyết đạo. Giọng ông vang vang, giáo đường hình vòm làm cho âm thanh của từng lời như rung lên:

- Nhưng Chúa về đây bằng cách nào trong khi những kẻ tà giáo, bọn quỷ đang ngăn cản đường Chúa đi? - Cha đây! - Vị linh mục tự đấm vào ngực mình - Chính Cha đây đã nghĩ trăm phương ngàn kế, không cho phần hồn mình nghỉ ngơi để nghĩ cách đón Chúa về nhưng chưa có cách nào - Ông thở dài - Chính vì vậy, hôm nay Cha nói với các con để các con dâng lên Chúa những kế hay.

Mọi người chăm chú nghe và hiểu hơn nỗi lòng của Cha. Nhiều người thay đổi cả sắc mặt, thở nhẹ hơn.

- Thưa Cha, kéo nhau lên chính quyền đòi cho bà con đi rước Chúa về.

- Đúng đấy! Thưa Cha!

Mọi người bàn tán xôn xao, ai cũng muốn thể hiện lòng thành qua những lời trình bày cách rước Chúa về.

Vị linh mục giơ tay lên để lấy lại trật tự:

- Bình tĩnh! Các con hãy bình tĩnh! Chúa không đồng tình cho các con kéo nhau đến chính quyền địa phương để đấu tranh cho Chúa về. Chúa bảo rằng, chính quyền ở đây không thích Chúa nhưng cũng không làm hại Chúa. Vì vậy Chúa sẵn sàng rộng lòng tha thứ. Việc Chúa trở lại đây là công việc hết sức khó khăn. Các con hãy về nghĩ cho kỹ. Ai có kế nào hay đến trình bày với Cha. Còn Cha, Cha sẽ xin ý kiến tòa giám mục. Chắc chắn một ngày không xa, mọi việc sẽ tốt lành vì lợi ích của đạo thánh. Có phải không các con?

Cả giáo đường nín lặng. Mọi người nhìn nhau không nói.

- Các con về và giữ kín, chuyện đừng để cho những người ngoài đạo biết.

Mọi người đứng lên thành dòng đi ra cửa khi tiếng chuông nhà thờ vọng xa tận làng, về từng đường thôn như ngầm bảo: Chúa sắp về!

Ngay lúc tiếng chuông còn ngân vang, linh mục Bường đã cởi áo hành lễ, gọi viên quản lý giáo xứ đến.

- Anh hãy bố trí cho Nl gặp tôi vào đêm thứ sáu.

- Thông qua vợ Nl hay đến tận nhà?

Viên quản lý giáo xứ nhìn linh mục Bường chờ đợi.

- Tính kỹ xem.

- Nếu ban ngày tôi vào nhà chị Nhung sẽ không ổn. Ban đêm, tôi đi ra khỏi khu vực nhà thờ, chẳng may gặp công an hay dân quân, sẽ giải thích như thê nào về việc đi đêm? Theo tôi, tốt nhất, thông qua vợ Nl báo sẽ an toàn hơn.

- Như vậy là phải đẩy lùi thời gian gặp Nl để chúa nhật này báo cho vợ Nl biết. Có lẽ thế cũng được. Anh hãy chuẩn bị tốt cho buổi gặp đó, đừng để sơ xuất gì.

Đã hai năm Ban chuyên án tìm cách xác định vị tư lệnh mật khu, nhưng vẫn không kết quả. Sự nghi ngờ linh mục Bường tham gia vào "mật khu Tam Điệp" bị giảm dần. Nhưng giờ đây bỗng nhận được tin linh mục Bường tìm gặp Tình, các đồng chí trong Ban chuyên án phấn khởi hẳn lên, đồng ý để cho Tình vào gặp linh mục. Trước khi có buổi gặp gỡ "bổ ích" đó, đội trưởng Lê Đình Hồng đã nói cho Tình nghe toàn bộ nội dung cần nói với linh mục và dự phòng trước những điều có khả năng linh mục hỏi đến.

2

Đã đến ngày hẹn gặp. Đó là đêm thứ sáu kể từ ngày viên quản lý giáo xứ báo. Tình đã ra khỏi nhà. Kim Sơn yên tĩnh, dịu dàng dưới ánh trăng cuối thu. Nhà cửa, cây cối hai bên đường từ nhà Tình đến nhà thờ lờ mờ trong ánh trăng trắng đục như sữa. Một tiếng sột soạt làm Tình giật mình. Tình thận trọng đi về phía ông già gác chuông. Nhưng đêm nay ông già đã được Cha cho về nhà nghỉ, thay vào đó là viên quản lý giáo xứ. Theo quy định, Tình đến bên gác chuông. Một phút trôi qua. Hai phút trôi qua. Không có ai ra đón. Đứng quá lâu, chân cảm thấy cứng đờ. Gió từ phía biển thổi tới đập vào chuông rè rè như tiếng rên nhẹ. Tình quay lại nhìn tháp chuông và định ngồi xuống đợi, bỗng trông thấy bóng người ngồi chồm hổm trên đỉnh tháp, trong ánh trăng lẫn bóng tối, trông như một phù thủy.

- Ai?

Tình hỏi nhưng hình như âm thanh không phát ra khỏi cổ họng. Viên quản lý ngồi trên tháp chuông nhìn xung quanh nhà thờ một lần nữa xem có ai đi theo Tình không. Khi chắc chắn không có "đuôi", hắn mới nói:

- Đợi một lát.

Từ trên cao, viên quản lý giáo xứ bám vào thanh rầm bước xuống.

- Đi theo tôi.

Tình đi theo viên quản lý giáo xứ vào căn hầm phía sau nhà thờ. Ngọn nến nhỏ le lói. Linh mục Bường đang ngồi chờ Tình ở đó.

- Đã đến được đây. con cứ yên tâm. Nếu như vạn bất đắc dĩ, tiếng chuông nhà thờ rung lên, hàng ngàn giáo dân kéo đến sẽ là cái chắn che chở cho con bình yên.

Thận trọng cảnh giác vốn là yêu cầu của một điệp viên. Vị linh mục bảo viên quản lý giáo xứ ra tháp chuông canh gác.

- Sau gần hai năm hoạt động, hôm nay cha muốn nghe lại toàn bộ việc làm của con chuẩn bị nơi Chúa trở về như thế nào.

Tình vẫn ngồi im, rồi nói:

- Nhưng con chưa được chỉ thị trình bày với Cha về việc này.

Vị linh mục nghe nói thế lòng chạm tự ái, song cũng thầm khen tính thận trọng của Tình. Rồi ông ta rút trong túi ra một tờ giấy ghi bức điện mật mã đã được dịch:

- Con xem!

- Kể ra Mỹ Khê chuyển cho con bức điện này trước khi gặp Cha thì hay hơn.

- Như thế con vẫn chưa tin?

- Về nguyên tắc thì con chưa tin được, nhưng với Cha, con tin.

Linh mục Bường hỏi lại:

- Ngay bây giờ Cha điện cho tướng Tukơ để ông ta thông báo trực tiếp cho con. Con bằng lòng chứ?

Vị linh mục Bường bật nắp hầm lấy ra bộ máy thu phát.

- Thưa Cha, không cần! - Tình nói gọn và chắc - Con sẽ kể cho Cha nghe từ đêm đầu tiên đặt chân lên đất liền được vợ ra đón cho đến buổi đón chiến hữu của chúng con tuần trước.

Vì đã được chuẩn bị nội dung chi tiết từ ngày giờ, địa điểm đến hoạt động của lực lượng mật khu nên Tình kể khá trôi chảy, rõ ràng. Gần sáng, Tình mới kể xong và kết luận:

- Hai năm chúng con gắng chịu khổ cực sống trong rừng xây dựng mật khu an toàn để đón ngài Tư lệnh. Đến hôm nay, biết Cha là vì chỉ huy tối cao của mật khu, con thay mặt anh em binh sĩ, xin chúc mừng Cha.

Sau đó, hai ngày hai đêm liền Tình cùng "Tư lệnh trưởng" của mình bàn bạc cách phát triển lực lượng và các hoạt động cụ thể.

3

Tin Chúa sắp về đã lan khắp vùng. Nhiều giáo dân đến gặp linh mục Bường cầu xin Cha chỉ bảo việc làm đóng góp cho việc chuẩn bị rước Chúa về.

Nhưng chẳng phải tất cả mọi giáo dân đều được Cha "chỉ bảo" cụ thể mà chỉ có những ai Cha tin mới được đặc ân này. Những người được "đặc ân" của Cha có cả đàn ông, đàn bà, người già, nhưng chủ yếu là thanh niên khỏe mạnh.

Nhiều tháng, nhiều tuần lễ trôi qua. Mỗi chúa nhật, sau giờ cầu lễ, viên quản lý giáo xứ lại mời một người ở lại gặp Cha. Tất nhiên, những người được chỉ định đó đã nằm trong danh sách vị linh mục duyệt từ trước.

Chị Tuất có chồng theo Chúa vào Nam năm 1954 cũng nằm trong danh sách đó. Khi nghe tin ở lại gặp Cha, chị lập cập đi đến bên tấm gỗ có hai lỗ nhỏ đủ luồn hai tay vào. Chị quỳ xuống trước tòa giải tội.

- Cha miễn lễ cho con.

Chị ngẩng đầu đưa hai tay tròn lẳn, chắc nịch, đen như bồ hóng của một phụ nữ vùng biển luồn qua hai lỗ của tấm ván. Hai tròng mắt chị long lanh như hai giọt nước nhìn vào tấm gỗ che trước mặt.

- Con có nhận được tin chồng con không?

- Thưa cha, đã hai năm con không nhận được tin anh ấy.

- Đúng rồi. Vì chồng con đã đi theo Chúa. Con cứ yên tâm. Một ngày gần đây Chúa trở lại vùng này thì chồng con sẽ về.

- Nhưng thưa Cha, đến khi nào chúng con đi rước Chúa về?

- Chưa vội được đâu, con. Bây giờ địa phương này do chính quyển miền Bắc cai quản, Chúa làm gì có đất để sống. Có chăng, chỉ có thể về sống ở vùng núi Nho Quan hay Tam Điệp. Chúa vốn sinh ra từ nghèo hèn, từ máng cỏ nên giờ đây Chúa vui lòng về sống ở dãy núi Tam Điệp. Con hãy ngước mặt lên nhìn Chúa - vị linh mục dừng lại một lúc không nói để chị Tuất có thời gian ngắm nhìn tượng Chúa - Chúa cứu thế vì các con cháu đời sau mà chịu nhạo báng, đầy đọa và chịu bao khổ ải. Người sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo hèn như thế nên Người vui lòng chấp nhận về sống ở dãy núi Tam Điệp trong những ngày giao thời. Cha khuyên con, nếu con thực sự vì Chúa, vì lợi ích của đạo Chúa thì con hãy ghi tên gia nhập đạo quân của Chúa.

- Thưa cha, phận gái như con có thể làm gì trong đội quân ấy? - Chị Tuất hỏi.

- Cha chưa thể nói ngay được. Miễn là con đồng ý.

- Thưa Cha, Cha không nói hết mọi việc nhưng có thể nói một việc mà chúng con có thể làm được. Chị Tuất nài nỉ vị linh mục.

- Ví dụ quyên góp tiền, lương thực hoặc chuyển những thứ đó lên núi nuôi dưỡng những người đang ngày đêm bảo vệ khu vực Chúa sẽ về.

- Vậy thì con có thể làm được.

Từ bên kia tấm gỗ, linh mục Bường đọc tờ cam đoan. Người biết chữ thì ký tên, chị Tuất không biết chữ thì điểm chỉ. Trong tờ cam đoan đó có điều khoản quý định xử tử ai tiết lộ chuyện Chúa về sống ở dãy núi Tam Điệp; xử tử ai tiết lộ những người tham gia đội quân của Chúa. Và tất cả mọi lần xử tử đều do Đấng tối cao quyết định.

Sự thuyết giáo riêng rẽ của linh mục Bường quả đã có kết quả: Trong thời gian ngắn có chín người giáo dân tình nguyền gia nhập đội quân đi rước Chúa, trong đó có chị Nhung và chị Tuất. Bảy người khác đều là những đàn ông khỏe mạnh, cho ràng phần hồn của mình đã thuộc về Chúa, họ không bao giờ chết vì Chúa đã cho họ một cuộc đời khác, trở thành một cái gì khác. Bảy người đó tình nguyện lên "mật khu" luyện võ nghệ để bảo vệ Chúa. Chị Nhung là người duy nhất trong họ biết "đại bản doanh mật khu", được vị linh mục tin tưởng giao cho nhiệm vụ đưa đường. Cả bảy lần chị đã đưa "chiến hữu" đến nơi tập kết do Ban chuyên án qui định một cách an toàn.

4

Sau khi được Cha kết nạp vào đội quân đi rước Chúa về, đêm ấy chị Tuất không ngủ được. Chị hình dung mật khu là một khu rừng cây xanh tốt, đường đi lại hiểm trở. Các con vật ăn đêm đánh hơi người mò đến. Chim muông rúc rền rĩ, các loại rắn bò dọc ngang. Xung quanh mật khu có hàng vạn con chiên đứng im lặng như những cây rừng vừa chào đón vừa che chở cho Chúa. Ở giữa mật khu là hàng trăm ngọn lửa nến vàng. Mọi con chiên đều đã sẵn sàng chịu đói khát, gió sương để đưa Chúa về. Và, Chúa đã lướt nhẹ về nơi rừng thiêng nước độc ấy. Người đã sinh ra trong cảnh nghèo hèn, bây giờ vì các con của xứ đạo này, Người lại cam chịu cảnh cùng cực về sống giữa khu rừng... Ôi lạy Chúa lòng lành!... Chị Tuất thiếp đi trong ý nghĩ mừng vui mong Chúa trở về ấy, khi tỉnh lại thì chuông nhà thờ đã điểm. Chị vội vàng xách chiếc làn cói đi về phía thị trấn Phát Diệm để mua vé ô tô đi Ninh Bình. Khi đi ngang qua nghĩa trang với rừng cây thập ác, chị kính cẩn bỏ nón đứng lặng hồi lâu. Sự tôn kính trước rừng cây thập ác ấy càng làm chị bước nhanh hơn trên con đường đi làm nhiệm vụ Cha giao để góp công sức rước Chúa về.

Chị Tuất là một phụ nữ đẹp, có thân hình cân đối, đôi mắt bồ câu với làn tóc dài như suối.

Chị bước lên xe được một lúc thì Thành cũng lên xe, ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh nhìn chị, thầm kêu: "Lạy Chúa! Cô gái vùng biển nhỏ nhắn và duyên dáng quá!".

- Anh Thành!- Chị quay lại thấy Thành liền gọi to.

- Em đi đâu thế?

Chị Tuất vui vẻ trả lời:

- Em đi Hà Nội. Anh có đi không?

Giọng nói thanh mảnh, nhỏ nhẹ của Tuất càng làm cho cô thêm dịu dàng.

- Có. Đi lấy máy. Xuống đây ngồi cùng ghế với anh.

Tuất xách túi đi về phía sau. Suốt dọc đường xe chạy, hai người nói hết chuyện làm ruộng, đo đạc, cách dệt chiếu lại đến chuyện đi lễ nhà thờ. Chẳng mấy chốc xe đến thị xã Ninh Bình, họ chuyển sang ô tô đi Hà Nội, về tới bến xe Kim Liên đã quá trưa. Theo lệnh của ông Hồng, trưởng ban chuyên án, Thành bám sát cô Tuất trên dọc đường đi để phát hiện người liên lạc, đến Hà Nội giao lại cho một tổ khác giám sát. Nhưng xe đã vào bến, hành khách xuống hết rồi mà Thành vẫn chưa thấy người ra tiếp nhận. Anh đành đánh bài hoãn binh, kéo dài thời gian đi với Tuất:

- Em đưa anh xách cho.

Tuất vừa đưa làn vừa bước xuống xe, đầu cô hơi cúi, làn tóc phủ lên vai Thành làm anh nhớ tới làn tóc Mai đêm nào ở bờ sông Hồng. Đêm ấy anh dùng mớ tóc đó quấn quanh cổ mình, còn đuôi tóc cho vào miệng nhấm nhấm.

- Ơ kìa anh Thành! Làm sao thế? - Tuất chợt kêu lên.

Thành giật mình, chống chế:

- Chân anh bị chuột rút.

- Thế thì anh đưa làn em xách cho.

Vì bị động, Thành đành phải đưa làn cói cho Tuất. Đúng lúc ấy, Mai đang bán hàng nước từ phía xa nhìn thấy. Giận phát run người, cô giao hàng cho mẹ bán rồi đứng lên. Thành vẫn không hay biết sự có mặt bất ngờ của Mai ở bến xe Kim Liên vào giờ này. Anh chỉ tập trung phát hiện xem người của mình đã ra chưa và cố gắng không để lạc Tuất trước lúc có người tiếp nhận. Anh đưa Tuất vào cửa hàng cơm ở bên kia đường Nam Bộ.

- Em ăn gì?

- Tuỳ anh.

Thành nói chuyện với Tuất hết sức tình cảm. Hai người ngồi gần cửa sổ. Khi bà chủ hàng bưng đĩa cơm đặt lên bàn, Thành cầm thìa xúc vào bát cho Tuất. Đúng lúc ấy Mai xuất hiện.

- Anh Thành!

Thành hết sức bất ngờ. Anh đặt bát cơm xuống bàn, mắt hoa lên trong sự kinh ngạc. Sự xuất hiện bất ngờ của Mai lúc này mới quái ác làm sao. Nhưng rồi anh cũng lấy được bình tĩnh, đứng dậy đi ra, nói một câu không chuẩn bị trước:

- Em về đi, tối anh sẽ đến!

Mai đứng như chết lặng, mọi cảm giác giận thương đều không rõ rệt. Tháng ngày chờ trông người yêu trỏ về trước đó đã bị buổi gặp gỡ bất ngờ này làm cô hẫng hụt. Có lẽ cái còn lại lúc đó trong cô là sự ghen tuông và giận dỗi. Cô nói một cách kiên quyết:

- Phải. Anh còn nhớ gì đến tôi.

Không đợi Thành nói thêm câu gì, cô bước nhanh ra cửa. Thành đứng lặng nhìn theo, cố bóp nghẹt những ý nghĩ về Mai trong tâm trí để tiếp tục công việc.

- Anh quen cô ấy à? - Tuất hỏi.

- Bạn học hồi cấp hai - Thành bình tĩnh trả lời.

Trong trí não anh lúc đó diễn ra những lời đối thoại trái ngược nhau: nhiệm vụ và tình yêu.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giám sát Tuất, Thành phải trở lại Kim Sơn, vì vụ án đang trong giai đoạn kết thúc. Một lần nữa anh lại thất hẹn với Mai. Anh tự động viên: vài ngày nữa, sau khi bao vây toàn bộ lực lượng của "mật khu Tam Điệp" anh sẽ về với em. Khi đó em tha hồ trách anh; anh sẽ giải thích về trường hợp đi với cô gái kia. Biết được sự thật, chắc Mai sẽ thương anh hơn. Khi đó, em và anh sẽ lại ra bãi sông Hồng tắm ánh trăng.

Thành không biết rằng, trong lúc anh đang nghĩ về Mai thì Mai đang buồn chán nghĩ về anh. Cố trông mong tối đến nhanh để được gặp Thành. Nghe tiếng gió thổi qua cánh cửa, cô tưởng tiếng chân người yêu bước tới. Khi đến buổi phát thanh "đọc truyện đêm khuya", biết chắc giờ này Thành không đến, cô mới lên giường, nhưng vẫn không sao ngủ được. Cô nghĩ lan man. Khoảng yên ổn trong nỗi nhớ người yêu bị xáo trộn. Cô trách Thành chóng thay lòng đổi dạ, phũ phàng với mối tình đầu. Lòng thủy chung chờ người yêu trở về đang tan loãng trong cơn buồn man mác như sương rơi.

"Không bao giờ. Nhất định anh ấy vẫn yêu mình". Nhiều lần Mai tự trấn tĩnh bằng những lời động viên đó. Rồi cô lại vật vã với câu hỏi: cô gái kia là ai? Tại sao anh ấy lại né tránh không dám nói chuyện với mình? Mai cố xua đuổi nhưng hình ảnh cô gái cùng ngồi ăn cơm với Thành vẫn cứ xuất hiện. Cô vừa buồn cười, vừa oán giận. Hai mươi tuổi đời, cô không suy tư phức tạp nhiều về tình yêu, không mường tượng hết nỗi phức tạp trong cuộc đời. Và cô vẫn cho rằng sự đổ võ tình yêu là chuyện của người khác, còn mình thì trong trắng thuỷ chung. Càng tin tưởng vào tình yêu bao nhiêu thì giờ đây cô càng thấy mất lòng tin vào nó bấy nhiêu. Cô buồn chán không sao giải thích được, chỉ ước ao cô gái kia không phải là người yêu của Thành. Nhưng những điều mắt thấy tai nghe, thái độ cư xử thờ ơ của Thành đối với mình, các bằng chứng đó xác nhận một cách tàn nhẫn Thành đã đi yêu người khác. Phải nói rằng nỗi đau đớn trong tình yêu đó mới kéo dài vài giờ đồng hồ mà sao Mai tưởng đã qua cả cuộc đời. Mẹ ơi! Sao đời con khổ quá thế này! Cô kêu lên như thế rồi gục đầu xuống để mặc cho nước mắt thấm ướt cả gối. Cô càng nghĩ thì nỗi oán giận càng lớn dần. Mình phải vĩnh biệt người thanh niên thay lòng đổi dạ này. Ý nghĩ đó thắng được nỗi đau và dòng nước mắt. Cô ngồi dậy, bằng cử chỉ của một kẻ vụng trộm bước ra khỏi giường, đến va ly mở khóa, rón rén đưa tay lấy những lá thư của Thành và cuốn an-bom ảnh. Cô nhón gót ra sân với chiếc đèn dầu trong tay. Trước khi cho những lá thư và tập ảnh vào lửa, trong những phút giây đó, Mai không thể làm khác được là đọc lại thư và xem tấm hình Thành, một chàng trai đã khắc vào tâm hồn cô một vết thương như lưỡi dao để lại trên mặt. Nhưng điều kỳ lạ, Mai chỉ muốn nhìn lại tấm hình Thành để cho nó về quá khứ, cho nó qua đi thì nó lại cứ hiện rõ hơn với những đêm cùng nhau đi chơi bên bãi sông Hồng. Dưới ánh sáng đèn dầu, Mai nhìn rõ bộ mặt Thành, và thực tình mà nói, sao nó rạng rỡ, trong sáng và chân thành đến thế. Trời ơi! Chính đôi môi này đây đã dành cho mình cái hôn nồng cháy đầu tiên cùng với những tiếng thở nhè nhẹ như lớp sóng điện từ ngực anh truyền sang, mà sao anh lại độc ác thế anh Thành ơi, anh đi với người con gái khác để ruồng bỏ em? Mai vật vã trong đầu những ý nghĩ vừa đam mê vừa oán giận, vừa khổ đau, vừa bế tắc. Những ý nghĩ hỗn độn đó hòa làm một rời khởi người Mai, theo dòng nước mắt rơi xuống xóa nhòa nét chữ và tấm hình Thành, nhưng không dập tắt được ngọn lửa đang cháy.

Mặc dù Mai đã đốt hết thư và ảnh, nhưng hình ảnh Thành vẫn không xóa nhòa trong ký ức. Mai nghĩ quá nhiều về sự đổ vỡ của tình yêu làm sức khỏe cô giảm hẳn. Và cuối cùng ốm nằm liệt giường, để mặc cho nỗi buồn giận gậm nhấm.

Đúng vào lúc ấy, Minh là bạn học ở cùng phố đến thăm. Minh thay mẹ Mai chăm sóc cô khi bà cụ vắng nhà. Minh là một thanh niên đẹp trai, lịch sự. Anh đến với Mai bằng lòng nhiệt tình của bạn bè, làm tất cả những gì có thể làm được để phục hồi sức khỏe cho bạn. Những lời nói và việc làm của anh dần dần đã xua đi những nỗi buồn trong Mai, đem lại những nguồn vui nho nhỏ trong tâm hồn đang trống trải.