← Quay lại trang sách

Chương 7 ĐÊM THÁNG TƯ Ở TRẠM VẪY ĐẦU ĐƯỜNG –-CÔNG TRƯỜNG BƠM DƯỚI MỰC NƯỚC BIỂN

Bố tôi đi họp về sớm. Mẹ tôi thịt một con gà thiến to kệu, lại đồ cả chõ xôi nếp đỗ xanh nữa. Biết ông tôi và chị Yến không về ăn được, mẹ tôi lèn xôi đỗ vào hai cái cặp lồng, và xẻ thịt gà bọc vào giấy báo, bảo tôi mang lên cho ông và cho chị. Ông tôi dạo này thỉnh thoảng mới đảo về nhà, hình như chỉ để tìm một thứ gì đó, rồi lại đi ngay lên công trường. Chị Yến thì đi thông hai ca.

Chị bây giờ đã là con dâu của bố mẹ tôi rồi. Quê gốc chị ở một làng chuyên trồng cam thuộc huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Chị ít nói, tiếng nói nghe dịu và nhẹ. Mái tóc đen mềm của chị dài vừa chấm gấu chiếc áo xanh màu trứng sáo chị thường mặc.

Trạm vẫy đầu đường của chị là một cái chòi nhỏ, hình vuông, trông từa tựa như cái quầy bán báo, hay bán xổ số ở vỉa hè các thị xã tỉnh lẻ. Trong trạm chỉ có một quyển sổ to, bìa màu nâu, lem nhem đất bụi để ghi số chuyến của mỗi xe trong một ca. Chị thường đứng ở ngoài trạm, sát đầu đường bãi thải, tay cầm cờ hiệu, chị vẫy cho xe đến, tiến hay lùi, để xe đổ đất đá an toàn vào đúng chỗ, rồi thò tay qua khung cửa sổ, ghi vội số biển của chiếc xe vừa đến đổ đất đá. Nghe nói năm trước, không rõ vì lái xe, hay vì người vẫy đầu đường, mà một chiếc xe ben-la đã lăn từ đầu đường cao hai trăm tám mươi lăm mét, xuống bãi thải.

Ở nhà tôi nhìn lên, chỗ này cao ngút mắt. Xe dốc ben, đổ đất, trông cứ như bao diêm dựng ngược lên trời. Toàn cảnh của đầu đường, trông hệt như tranh vẽ miệng núi lửa trong sách địa lý lớp năm. Suốt bao năm nay, nó luôn luôn gợi lên trong tôi những gì ngang tàng và bí hiểm.

Bây giờ là một đêm trăng tháng tư. Trời trong mát. Mây trắng mỏng tang bay từ biển vào, lang thang trên đầu. Màu trời xanh nhạt. Mảnh trăng cong như một cái xương mang cá, ai vứt lên vòm trời. Dưới ánh sáng điện, mảnh trăng trông nhợt nhạt và nhàn rỗi thế nào ấy. Ở đây, thấy rõ vầng trăng gần gũi, chứ không cao xa như khi đứng dưới góc sân nhà mình. Vậy mà, chưa bao giờ tôi cảm thấy vầng trăng thân yêu của tuổi thơ tôi lại nhỏ bé và thừa thãi thế kia.

Chị Yến chỉ nói được với tôi những câu nhát gừng, đứt đoạn. Chị luôn luôn phải đón xe và chỉ dẫn cho xe đổ đất. Tranh thủ trước mùa mưa bão, moong phải xuống sâu hơn, than phải lấy ra nhiều, đất đá bóc đổ đi, càng phải nhiều gấp bội. Xe trước vừa quay, xe sau đã đến. Tiếng xe kết liền nhau thành một chuỗi âm thanh... Chị giơ cờ hiệu. Chị vẫy tay để báo cự ly. Chị đứng để bản thân mình thành một cái cọc tiêu cho xe đổ đất đá. Bụi mù mịt. Bụi khủng khiếp. Một công trình nghiên cứu cấp nhà nước, đã kết luận: Bụi ở đầu đường mỏ chúng tôi đến sáu ngàn hạt trong một xăngtimét khối, gấp năm trăm lần mức nhiễm bụi cho phép. Nhiều lúc lẫn vào trong bụi, tôi không trông thấy cái dáng đậm đà của chị dâu tôi.

Bây giờ, tôi mới hiểu vẫy đầu đường là một nghề quan trọng và vất vả như thế nào. Những sáng mưa xối. Những trưa nắng lửa. Những chiều gió bấc thổi ngang trời, mạnh đến cấp sáu, lạnh thấu xương. Những đêm sương muối, khớp tay buốt thon thót. Bất kể thời tiết nào, chị đều phải đứng và làm việc như thế, trong quầng sáng mờ đục của bụi, của ngọn đèn tái nhợt ở đầu đường, và của các vệt đèn pha sáng quắc quất ngang dọc vào mắt. Vậy mà, trước đây nhìn hòn than, có bao giờ tôi nghĩ đến những người con gái, học hết lớp bảy, lớp mười, chỉ làm có một việc là đứng vẫy đầu đường.

Không biết bận rộn thế này, chị tôi ăn xôi vào lúc nào. Tôi để cặp lồng xôi của chị vào góc trạm, chỗ mà tôi tin là bụi ít bay vào được, còn thịt gà gói giấy báo, tôi băn khoăn không biết để vào đâu. Chị tôi bảo để xôi cho chị thôi, còn thịt mang cả xuống moong cho ông. Ông còn vất vả hơn chị nhiều.

Tôi đi, lòng tự nhiên cảm thấy bâng khuâng, trống trải. Có thể là vì cái vầng trăng nhạt nhẽo ở ngay trên đầu, và vòm trời bốn phía mênh mông, thăm thẳm, lác đác những vì sao phập phồng như những bong bóng nước.

Xuống moong bây giờ đâu phải là việc đơn giản. Moong đã xuống sâu đến bốn mươi lăm mét dưới mực nước biển. Trong ánh trăng và ánh điện mờ ảo, cái moong hết sức hiện đại này, lại phảng phất giống như cái cung vua trong chuyện cổ tích của An-đéc-xen. Nườm nượp xe xuống, xe lên, theo đường xoáy trôn ốc, tất cả đều nhỏ bé và sinh động lạ lùng. Vang rền trong moong là một âm thanh tổng hợp, ầm ầm ào ào như ong vỡ tổ. Không thấy phà bơm ở chỗ nào. Cũng không thấy văn phòng công trường bơm, vừa được dựng lên, và cái bếp ăn của bà Tư Máy Xúc ở đâu. Tất cả bảng lảng trong sương khói mung lung.

Xuống moong bây giờ, đi đường vòng phải đến bảy hay tám cây số. Tụt thẳng xuống chỉ hơn hai trăm mét thôi, nhưng rất nguy hiểm. Đất đá có thể rơi theo, có khi bò xuống rồi, đất đá ở trên mới rơi xuống chỗ mình. Không thể được. Cuối cùng, tôi nghĩ, cứ đứng ở ngã ba đường xuống moong mà chờ. Thế nào cũng có xe. Các loại xe vận tải thì nhiều, nhưng buồng lái chỉ có một chỗ ngồi mà cao ngất ngưởng như cái nhà hai tầng. Tưởng có thể đi lom khom dưới gầm xe được. Chờ xe con vậy.

Khi chiếc xe con chạy đến, tôi giơ cặp lồng trắng lên làm hiệu, và xe dừng cách tôi hơn chục mét. Nhô ra cửa xe, là chú giám đốc với mái tóc quăn tự nhiên quen thuộc và gương mặt xương xương hốc hác hơn ngày thường. Tôi ngồi cạnh chú. Xe chạy ngay. Lúc bấy giờ, tôi mới thấy hai người ngồi ghế sau. Chú tiến sĩ nghiên cứu chế tạo sơn để sơn cánh quạt phà bơm và chú kỹ sư trưởng cơ điện.

Chú giám đốc quay lại hỏi tôi:

- Cháu mang gì trong cặp lồng đấy?

- Cháu mang thức ăn bồi dưỡng cho ông cháu. Dạo này, ông cháu cứ ở miết dưới công trường bơm.

- Này, lần sau không được đi lại lung tung như thế này nhé.

Ngừng một lát, chú nói thêm:

- Từ ngày mai, mỏ sẽ tăng thêm khẩu phần cho ca đêm và các ca lao động mệt nhọc.

Xe đã qua trạm điều vận đặt ở đầu đường xuống moong. Quay lại, tôi còn thấy những con số bật sáng long lanh trên bảng điện màu. Đã trông thấy những ống thép lớn - các cột nước của phà bơm - nằm ngổn ngang dọc một vệt tầng từ trên xuống. Không biết nó đã được vận chuyển như thế nào, trong địa hình rất dốc. Không thấy ông tôi ở đâu.

Xe đã xuống sâu. Vầng trăng đã khuất hẳn sau đỉnh núi cao phía bên kia bờ moong. Ánh sáng âm âm như trong đêm nguyệt thực. Gió lùa vào cửa xe rà rà.

Xe dừng lại trước ngôi nhà mà ở những tầng trên, tôi đã trông thấy như một quyển sách màu nâu. Đấy là văn phòng công trường bơm, vừa mới thành lập.

Tôi bước xuống xe và ông tôi cũng bất ngờ nhô ra từ phía sau ngôi nhà màu nâu đó. Suốt đời, có lẽ tôi không sao quên được cái ấn tượng lúc ấy, khi ông tôi đột ngột hiện ra trong ánh sáng chói ngời của ngọn đèn năm trăm oát bảo vệ cạnh văn phòng. Ông đội mũ lá, mặc áo khoác không cài khuy, vạt áo lòa xòa, người như thấp hẳn xuống, đầu gối choãi ra, bước khệ nệ. Ông đang khênh một đoạn ống thép, to và dài, một mình ông khênh đầu, ở giữa có hai người, còn ba người khênh cuối. Trông thấy tôi, ông quát luôn:

- Lui! Lui!

Hình như ông sợ nhỡ ai đó không chịu được sức nặng của ống thép, có thể vứt ống xuống, lăn vào chân tôi. Nhìn ông, tôi biết là ông khênh nặng lắm và đã cố gắng lắm. Lưng ông oằn xuống.

Phía dưới ông, là khoảng đất bằng, đã đặt vỏ phà bơm, trông cao to như nền một ngôi nhà. Một chị che mặt nạ đang ngồi hàn - tôi đoán chắc là chị Thủy. Hoa lửa hàn tung tóe, chói lói.

Cách nơi đặt phà bơm chừng năm mươi mét, có mấy tấm bạt căng trên những cọc sắt, chắc là nơi tạm che sương nắng cho công nhân nghỉ. Dưới nữa là mặt nước đen thẫm, một góc sáng choang trong ánh điện lòa lòa. Tôi ngạc nhiên và sung sướng khi biết mình đang đứng thảnh thơi ở độ sâu bốn mươi lăm mét dưới mực nước biển. Trời ở trên đầu và biển cũng ở ngay trên đầu, nếu có thể nói được như vậy.

Bây giờ tôi mới thấy khó thở. Tôi thở một cách khó nhọc. Có lẽ là tôi chưa quen. Nhìn lên, vòm trời tròn như úp kín xuống các triền núi bao quanh moong, vừa khoáng đạt lại vừa chật hẹp. Những ngôi sao như xa lạ hẳn, mờ mờ, thoi thóp. Tôi chợt nhớ mùa hè năm ngoái, đoàn sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội về thăm moong, có chị đã ngất xỉu, phải lấy xe giám đốc chở lên ngay. Những người thợ chuyên làm việc ở đây, tuy đã thích nghi với điều kiện sống thiếu dưỡng khí, nhưng nhìn kỹ vẫn thấy da họ hơi tai tái. Sức chịu đựng của người thợ mỏ thực là ghê gớm.

Đã thấy ông tôi đứng ở đầu tầng giơ tay vẫy. Tôi xách cặp lồng và cầm gói giấy báo chạy lại. Ông hỏi:

- Cháu xuống bằng gì? Đi bộ hay bò tụt xuống?

- Cháu đi nhờ xe chú giám đốc.

- Được. Có một đường đi tắt lên bờ moong. Lúc nào rỗi, ông sẽ chỉ cho. Mà cũng chẳng cần. Cấm không được bạ chỗ nào cũng lên xuống. Bây giờ cháu ở đây, tí nữa có xe ca xuống đón. Lần sau không được đi lại thế này.

- Đêm nay, ông khênh ống thép à?

- Không. Ai mà khênh được. Máy nó kéo chứ.

- Cháu vừa thấy ông khênh đấy thôi...

- À, có một đoạn, khi vần đi vần lại, nó lăn xuống tầng dưới. Chả nhẽ lại phải điều đến cả một cái máy, lích kích lắm.

- Ông khỏe thật, cháu trông mà phát khiếp.

Ông cười khà khà:

- Mang xuống cho ông cái gì đấy? Ơ... Sao nhiều thế?

Ông kéo tôi vào bếp bà Tư Máy Xúc. Bà đang thái bánh phở bồi dưỡng ca đêm.

Ông tôi đưa gói thịt gà cho bà Tư và bảo:

- Bà thái thịt ra cho vào mỗi bát phở một ít. Cứ bảo là phó giám đốc bồi dưỡng anh em ta đêm nay đây...