← Quay lại trang sách

Chương 8 NGÀY CHỦ NHẬT –-CHUYỆN CHẲNG CÓ GÌ QUAN TRỌNG

Được một ngày chủ nhật mọi người đều ở nhà, ông tôi coi đó là phần thưởng lớn cho cả gia đình. Ông quyết định làm bữa ăn tươi, toàn bằng đặc sản biển. Ông xếp đặt công việc:

- Mẹ thằng Tĩnh đi chợ. Vợ thằng Tĩnh nấu bếp. Thực đơn nhất nhất phải theo lệnh của tao.

Ông nói cho oai vậy thôi, chứ bữa ăn tươi nào, cũng có mấy món chính, quen thuộc: mực luộc chấm mắm tôm - chanh, chả cá dưa, tôm rán tẩm bột mì, cá song hấp và thịt cua biển nấu miến. Tôi hỏi:

- Thế cháu làm gì?

Ông cười khà khà:

- Hôm nay cho cháu đi chơi.

Ông quay sang bảo mẹ tôi đang loay hoay tìm làn để đi chợ:

- Nó vất vả hàng tháng nay rồi, cho nó sổng chuồng một lúc…

Tôi lấy xe của chị Yến, đạp ra phố. Dãy nhà bên đường đen sỉn bụi than. Cá thu phơi nắng, hoặc vứt ngổn ngang lên mái ngói, hoặc xâu thành từng chùm, treo vào dây thép lủng lẳng trước cửa nhà. Đi đâu nhỉ? Tốt nhất là qua nhà Cường, xem nó đã làm hết các bài tập chưa. Vừa nghĩ đến nó, đã nghe thấy tiếng nó gọi:

- Ê Tịnh. Đằng ấy đi đâu mà hung hăng thế?

Thì ra Cường đang ngồi bẫy chim sẻ, dưới bóng rợp của mấy cây nhãn. Bên cạnh, hố bom sâu chưa lấp, đầy sũng nước. Một con chão chuộc rất to, giương mắt thô lố nhìn tôi, bỗng toạch một cái, lặn xuống mất hút dưới đám rác tụ lều bều.

- Ông tao hôm nay vui lắm, cho tao sổng chuồng đi chơi. Làm hết bài tập rồi à?

- Ông mày đang bực thì có. - Cường nói luôn.

- Bực gì?

- Thế đằng ấy không biết à?

Tôi ngớ ra trước vẻ mặt tò mò đến quái quỷ của nó. Nó lên giọng người lớn:

- Nước đáy moong đã dâng lên mà phà không sao nổi được. Mỏ phải điều thêm mấy cái bơm gầu sòng để giữ nguyên mức nước. Nếu lại mưa to nữa, thì mày có biết điều gì sẽ xảy ra không? Phà chìm! Chìm nhé! - Nó nhấn mạnh. - Và mỏ sẽ đóng cửa. Nghĩa là không ai còn có việc làm. Tha hồ mà treo niêu. Hiểu không?

Trời ơi, một việc lớn như thế, sao tôi lại không biết. Tôi hỏi:

- Ai bảo với mày thế?

Giọng nó vẫn điềm tĩnh:

- Bố đằng ấy bảo bố đằng này chứ còn ai. Bố tao mấy hôm nay cũng lo lắng lắm.

Thế là mất hết cái thú của cuộc đi chơi. Tôi dắt xe ra đường.

- Ê, ở đây đã! - Nó gọi với.

Về đến nhà, người đầu tiên tôi trông thấy, lại là ông Tư Máy Xúc, bố của Cường. Tôi chào ông rồi lặng lẽ vào bếp. Chị Yến buộc cái khăn tắm màu cháo lòng ngang bụng, làm tạp dề, đang cời than trong bếp lò.

- Chị để em làm cho. Em biết nấu ăn mà.

- Chiều em nấu. Trưa nay là việc của chị.

Tôi ra gian ngoài, giúp anh Tĩnh pha trà. Tôi hỏi anh:

- Bố đâu rồi?

- Chú giám đốc vừa cho xe đón. Mười một giờ bố về.

Chắc lại việc “phà không nổi” đây. Tôi nghĩ thế, và đưa mắt nhìn dò xét từng nét biểu hiện trên gương mặt vuông cương nghị của ông Tư, xem có gì "lo lắng" không. Sốt ruột, tôi hỏi luôn:

- Bác ơi, sao phà lại không nổi được, hả bác?

- Cháu cũng quan tâm việc ấy à? - Ông Tư lắc lư mái tóc đã lốm đốm bạc như phoi thép. - Có thể là khớp nối thân phà luôn luôn phải nâng cao hay hạ thấp tùy theo mức nước, với ba đường ống thép lớn, nằm bất động trên tầng bè, bị đông cứng. Việc này, chú kỹ sư trưởng và ông cháu lo. Có thể đáy phà đã bị bết dính bùn đất. Bố cháu đã bác bỏ ý kiến dùng dây cáp, cắt đôi khoảng cách giữa đáy phà với đất bùn. Bố cháu cũng nghi ngờ khả năng dùng vòi bơm có áp suất lớn để sục bùn quanh đáy phà. Ông Tư Đặc hiến kế thêm: Dùng tiếng mìn nổ, tạo ra một chấn động chao lắc. Giám đốc đang nghiên cứu hệ thống lỗ khoan và lượng thuốc nổ do ông đưa ra...

Tôi vô cùng ngạc nhiên:

- Ông Tư có nhìn thấy gì đâu... Ông ấy lên công trường bao giờ...

- Mắt hỏng, nhưng ông ấy vẫn nhìn thấy cả đấy.

Đúng lúc ấy, ông tôi bước vào nhà.

Tiếng ông oang oang:

- Ông Tư đông khách lắm. Xong việc mới sang được.

Khách đây là những người trong mỏ đến nhờ ông thiến lợn giúp. Ông tôi vẫn bô bô:

- Tôi chơi với ông Tư Đặc hàng chục năm. Vậy mà chưa bao giờ tôi chú ý đến những ngón tay của ông ấy. Này, nó thon và dẻo nhé, thao tác cứ thoăn thoắt. Ngón tay búp măng, ông giời ạ. Thảo nào ngày xưa, khối cô gái mê... - Ông tôi cười, lần này, tiếng cười như lặn vào bên trong, gợi kín hở những khoảng sáng bí mật của quá khứ. Tôi cũng chưa bao giờ thấy ông có tiếng cười lơ lửng và lạ lùng như vậy. Mặt ông dịu hẳn lại.

Anh Tĩnh tôi nói luôn:

- Có người bảo ông Tư Đặc hoạt động từ trước Cách mạng tháng Tám, có người lại bảo không. Cháu chẳng hiểu là như thế nào?

- Hoạt động trước Cách mạng? - Ông tôi bỗng rướn cặp lông mày bạc phếch lên. - Ai bảo mày thế? Nghe không lọt lỗ tai được...

Thế là trong cơn hứng khởi, ông tôi kể về đoạn đời còn chìm khuất của ông Tư. Ông tôi nói dài dòng, lủng củng, nhưng đại để tôi hiểu là, có một dạo, ai cũng tưởng ông Tư là một chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bị bắt, bị tra tấn, bị chọc mù mắt, ông vẫn không khai một điều gì, nhất là người cộng sản nằm vùng, mà ông đã đánh tháo khỏi lưới của mật thám Pháp. Thực ra, ông chẳng có công gì trong việc bảo vệ người cán bộ bí mật đó, và ông phải chứng minh mãi, người ta mới tin ông. Hồi ấy, Jôn Léc, chủ mỏ, rất nuông chiều ông, thưởng tiền cho ông luôn, nhưng lại muốn chiếm đoạt vợ ông. Vợ ông là người nết na, lại có tiếng là xinh đẹp. Trước bà cũng làm phu, sau vì ông có nhiều tiền, nên bà ở nhà nấu ăn và giặt giũ cho chồng. Một chiều ở tầng về, ông Tư đã thấy vợ treo cổ tự tử ở góc tối của gian buồng xép. Ông hạ bà xuống, và con chó béc-giê quen thuộc của Léc, không biết từ đâu chạy đến. Nó lượn quanh xác bà một vòng, rồi quỳ xuống, sủa một tiếng khản đặc. Ông Tư đưa mắt nhìn quanh và sau một cái rùng mình, ông bỗng hiểu ra tất cả. Ông lặng lẽ đến phòng cảnh sát khai báo. Không hiểu sao ông bình tĩnh đến lạ lùng.

Đêm ấy, một đêm trăng suông, ông lẳng lặng chôn vợ trong bóng tối âm âm của góc vườn nhà. Sáng sau, vụ nổ mìn xảy ra, như ai cũng biết. Chánh mật thám mỏ, sai bọn cảnh sát đi bắt người thanh niên cách mạng trong lúc làm việc để uy hiếp tinh thần công nhân. Léc bị buộc phải đi theo với cả con chó béc-giê to sù, màu xám, reng reng vòng bạc, lưỡi thè ra đỏ lòm... Chính ông Tư đã nói rằng, mối căm hờn cá nhân đã buộc ông hành động. Ông chỉ gặp cách mạng và nhận ra ánh sáng khi hai con mắt đã bị chọc mù...

Từ rặng cúc tần ngoài ngõ, tôi đã thấy ông Tư Đặc khua gậy đi sang. Ông ngửa cái cằm hơi dài, phơ phất bay một sợi râu óng như cước, miệng mủm mỉm cười. Tôi vội vàng đứng dậy, chạy ra hiên đón ông. Ông nhanh nhẹn cắp cây gậy trúc vào nách, hồ hởi bắt tay ông Tư Máy Xúc và anh Tĩnh tôi.

Bố tôi cũng vừa về, chào hỏi mọi người rồi vào gian trong, dáng mệt mỏi. Tôi vào theo. Bố tôi ngồi lặng xuống ghế, người như chìm đi. Tôi chợt thấy mình đau nhói ở trong ngực. Nghĩ thương bố quá, tôi hỏi nhỏ:

- Bố ơi! Liệu vài ba ngày tới, trời có mưa to nữa không?

Bố tôi giương mắt nhìn tôi, như nhìn một gã dở người. Chả biết từ bao giờ, ông tôi đã đứng sững ở bên cạnh. Ông quát to:

- Mưa hay không thì mày làm gì. A lê hấp!

Chưa bao giờ tôi nghe thấy ông văng ra một câu tiếng Tây ghê rợn như thế. Tôi giật nảy mình, chạy vội ra ngoài.

Lát sau, gương mặt vô cùng hồ hởi, ông tôi đứng sững ở giữa nhà, hai tay chống vào hông, dáng rất hách. Với giọng nói vừa du dương vừa đầy quyền uy, ông hỏi vọng vào gian bếp:

- Mẹ con nhà mày! Xong chưa?

Tiếng chị Yến:

- Thưa ông, xong rồi ạ!

- Bắt đầu!

Ông bỗng hô to lên như thế. Tiếng hô ấy, sau này tôi chỉ còn được nghe ở một chú đạo diễn phim truyện về quay ở mỏ tôi.

Ông bố trí người vào mâm, tự tay bê bát, xới cơm, rót rượu mời mọc tíu tít, cười nói khà khà. Tôi đâu biết rằng, đấy là bữa cơm cuối cùng, ông sum họp với cả gia đình tôi.