Chương III
Không ai nhúc nhích trong khi ông chủ tịch lần lượt ghé tai phụ thẩm của mình, nói khẽ với họ. Cuộc hội đàm tay ba diễn ra, giống như những nghi lễ tôn giáo, vì người ta thấy đôi môi mấp máy không rõ tiếng, như vì trách nhiệm những khuôn mặt nghiêng theo một nhịp điệu kỳ cục. Một lúc sau, ông phó chưởng lý trong chiếc áo dài đỏ đứng lên, đến lượt mình lên tiếng, và một lúc sau người ta tin rằng, viên luật sư trẻ cũng đang sắp đứng lên. Rõ ràng ông ta vẫn do dự, lo lắng, chưa tin lắm vào chính mình và ông ta hầu như vẫn còn đứng thì ông chủ tịch Bernerie đã lấy búa gõ xuống bàn và mỗi vị quan toà đều ngồi xuống như trong một bức tranh.
Ông Xavier Bernerie tuyên bố bằng một giọng yếu ớt.
“Toà cảm ơn nhân chứng đã trình bày, và yêu cầu không rời khỏi toà.”
Vẫn luôn luôn như một thầy tư tế, ông đưa tay tìm bộ tóc giả, nắm lấy rồi đứng dậy, hoàn thành trách nhiệm của mình.
“Toà tạm nghỉ mười lăm phút.”
Tiếng giải lao ầm ầm gần như một tiếng nổ, nhức tai, âm thanh đủ các loại trộn lẫn nhau. Một nửa khán giả rời khỏi chỗ, một số đứng trong những lối tắt, hoa tay, những người khác xô đẩy nhau cố chen tới chiếc cửa lớn, những người gác vừa mở trong khi đó cảnh binh đưa bị cáo theo một lối đi lẫn với tường, mà Pierre Duché phải vất vả đi theo và các viên bồi thẩm, về phần mình cũng vậy, biến mất vào những phòng nhỏ bên trong.
Những luật sư khoác áo, hầu hết trẻ tuổi. Trong đó có một nữ luật sư có lẽ đã có thể có mặt trên tờ bìa một tạp chí, họp lại như một chùm nho đen và trắng gần lối vào của các nhân chứng. Họ tranh luận ở đó về các mục 310, 311, 312 và phần tiếp của luật tố tụng hình sự, một vài người phấn khích nói về sự bất bình thường trong khi diễn ra những cuộc tranh cãi, tất yếu dẫn đến việc phá án.
Một luật sư già, răng vàng khè, áo bóng loáng, điếu thuốc lá chưa châm trễ trên môi dưới, bình tĩnh nêu lên việc thận trọng xét xử, dẫn ra hai trường hợp. Một vụ ở Limoges năm 1885 và vụ kia ở Poitiers năm 1923, mà không những việc điều tra sơ bộ phải làm lại hoàn toàn ở phiên toà công khai, mà còn phải theo một hướng mới tiếp theo một bằng chứng bất ngờ.
Maigret, im như phỗng, chỉ nhìn thấy những hình ảnh chen xô nhau, chỉ nghe thấy những câu không đầu không đuôi, và chỉ đủ thời gian để nhận ra chỗ hai nhân viên của mình bị các nhà báo vây kín, trong phòng xử lúc này đã có một vài khoảng trống.
Chắc ở rạp hát, sau màn đầu, cũng có một sự kích thích quá độ như thế.
“Thưa ông chánh thanh tra, ông nghĩ thế nào về trái bom ông vừa tung ra?”
“Trái bom nào?”
Maigret rít có chừng mực tẩu thuốc của mình và thấy khát.
“Ông tin Meurant vô tội?”
“Tôi chẳng tin cái gì hết.”
“Ông nghi ngờ vợ anh ta?”
“Thưa các vị, xin đừng giận tôi nếu tôi không có gì để thêm vào những điều tôi đã nói trước toà.”
Nếu như đám người đó bất ngờ để cho ông yên, lại có một phóng viên trẻ lao đến chỗ Ginette Meurant đang cố kiếm lối ra và những người khác lại sợ để lỡ mất một lời tuyên bố xôn xao dư luận.
Mọi người đều nhìn nhóm người nhốn nháo đó. Maigret lợi dụng lúc đó lẻn qua chiếc cửa phòng nhân chứng đi vào hành lang, và thấy người này thì hút thuốc, người khác không quen chỗ, đang tìm nơi đi vệ sinh. Ông biết các vị quan toà khác đã ra khỏi phòng ông chủ tịch và thấy một viên mõ toà dẫn luật sư trẻ Duché mà người ta vừa cho gọi vào đấy.
Trưa đến gần. Bernerie rõ ràng muốn giải quyết xong sự ngẫu nhiên đó với cử toạ sáng nay, để buổi chiều cho tiếp tục tranh cãi, hy vọng có thể đi đến bản án ngay trong ngày hôm ấy.
Maigret đi đến lan can, hút thuốc, ra hiệu cho Lapointe đang dựa lưng vào một chiếc cột.
Ông không phải là người duy nhất muốn nhân lúc tạm dừng đi uống một cốc bia. Có những người ra ngoài, cổ áo kéo lên, đi ngang qua phố, chạy dưới trời mưa để chui vào những quán cà phê ở xung quanh.
Ở quán uống của Toà án, một đám người sốt ruột, gây phiền phức cho những luật sư và những khách hàng của họ, chỉ mới ít phút trước còn tranh cãi một cách êm thấm về những vụ án nhỏ của họ.
“Bia chứ?” Maigret hỏi Lapointe.
“Thưa sếp, nếu ta đến đó.”
Họ xô lưng, đẩy tay. Maigret ra hiệu cho một gã bồi bàn mà ông đã quen từ hai mươi năm nay và người ta giơ cao khỏi những cái đầu mang đến cho ông hai nửa cốc đầy bọt.
“Cậu sẽ thu xếp để biết xem chị ta ăn điểm tâm ở đâu, với ai, nói với ai, nếu cần thiết, điện thoại cho ai nữa.”
Thuỷ triều đã xuống, mọi người mau chân tìm lại chỗ. Khi chánh thanh tra về đến phòng xử, lúc này để có được chỗ ngồi ở dãy ghế dài thì đã muộn, ông đành dừng lại trước cái cửa nhỏ cùng với các luật sư.
Các viên bồi thẩm đã ở vị trí của mình, bị cáo cũng vậy, giữa hai cảnh vệ, còn luật sư bảo vệ ngồi thấp hơn trước mặt anh ta. Toà bước vào, uy nghi ngồi xuống, và chắc hẳn, cũng như ông chánh thanh tra, ý thức được đã xảy ra sự thay đổi không khí phiên toà.
Lúc vừa rồi là vấn đề một người đàn ông bị cáo đã cắt họng cô mình, một bà già hơn sáu mươi tuổi và đã ấn chết ngạt, sau khi đã cố bóp cổ một bé gái bốn tuổi. Chẳng phải tự nhiên sao khi ở đây có một không khí nghiêm trọng ủ ê và hơi ngột ngạt?
Giờ đây, sau giờ nghỉ, tất cả đã thay đổi. Gaston Meurant đã được chuyển sang hàng hai, và tội ác kép cũng đã mất đi sự quan trọng của nó. Bằng chứng của Maigret đã đưa vào một nhân tố mới, đặt ra một vấn đề mới rối tung, bê bối, và phòng xử chỉ quan tâm đến người thiếu phụ nữa thôi, còn những người ngồi những hàng cuối đang cố mà vẫn chưa nhận ra chị ta là ai.
Điều đó tạo nên tiếng rì rầm đặc biệt và ông chủ tịch lại phải đưa mắt nghiêm khắc nhìn đám đông như có ý tìm kiếm người gây nhiễu. Việc đó kéo dài khá lâu và thời gian càng trôi qua, tiếng ồn càng ầm ĩ, hoàn toàn phá vỡ sự im lặng ông ta muốn thiết lập lại.
“Tôi báo cho công chúng biết, tôi sẽ không dung thứ bất kỳ biểu hiện nào, và ngay biểu hiện đầu tiên, tôi sẽ cho giải tán phòng xử.” Ông húng hắng ho ghé tai nói thêm vài câu với các phụ thẩm. “Nhân danh những quyền tự quyết đã được trao cho tôi, và có sự thoả thuận của ông chưởng lý cũng như với bên biện hộ, tôi quyết định nghe ba nhân chứng mới. Hai người có mặt trong phòng xử và người thứ ba, người có tên là Geneviève Lavancher, đã được triệu đến bằng điện thoại, sẽ có mặt trước cử toạ chiều nay. Ông mõ toà, xin ông cho gọi bà Ginette Meurant.”
Viên mõ toà già tiến vào khoảng trống để gặp người đàn bà trẻ ngồi ở hàng đầu, đang đứng lên, ngập ngừng rồi để người ta dẫn mình đến vành nhân chứng.
Maigret đã được nghe nói nhiều lần về người đàn bà này ở văn phòng ông. Giờ đây trước mặt ông là một người đàn bà nhỏ bé đỏm dáng kiểu bình dân đôi khi có vẻ khiêu khích.
Để xứng với toà Đại hình, chị ta đã đi mua cho mình một bộ cùng màu đen, váy và măng tô ngắn, điểm màu duy nhất là màu vàng rơm của áo sơmi.
Cũng nhân hoàn cảnh đó, ông chánh thanh tra tin chắc để giữ gìn nhân cách của mình, chị ta đội một chiếc mũ loại của chính người làm mũ, để đem lại một chút bí ẩn cho khuôn mặt chị ta. Có thể nói chị ta vừa làm ra vẻ một thiếu nữ nhỏ ngây thơ, vừa là một phu nhân bé nhỏ rất mẫu mực cúi đầu xuống, ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm ông chủ tịch bằng đôi mắt sợ hãi và ngoan ngoãn.
“Bà tên là Ginette Meurant, sinh ở Chenault?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch.”
“Bà nói to lên và quay mặt về phía các ông bồi thẩm. Bà hai mươi bảy tuổi và sinh ra ở Saint-Sauveur miền Nièvre?”
“Vâng thưa ông chủ tịch.”
“Bà là vợ của bị cáo?”
Chị ta vẫn trả lời bằng giọng của một học trò ngoan.
“Theo Điều 322, sự trình bày của bà không thể được ghi nhận, nhưng được sự đồng ý của Bộ Nội vụ và với bên biện hộ, toà có quyền nghe bà trình bày với danh nghĩa tham khảo thôi.”
Và, khi chị ta giơ tay bắt chước những nhân chứng trước, ông ngăn lại:
“Không! Bà không phải thề.”
Qua hai đầu người khác, Maigret thấp thoáng thấy bộ mặt nhợt nhạt của Gaston Meurant, ôm cằm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Thỉnh thoảng hàm anh ta lại nghiến chặt đến mức ứa máu ra.
Vợ anh ta tránh không quay mặt về phía chồng, như thể việc đó bị ngăn cấm đối với chị ta, và đôi mắt vẫn luôn gắn vào mắt ông chủ tịch.
“Bà biết nạn nhân, bà Léontine Faverges chứ?”
Chị ta ngập ngừng trước khi nói khẽ:
“Không rõ lắm.”
“Bà muốn nói sao?”
“Bà ấy và tôi không lui tới thăm nhau.”
“Nhưng bà đã gặp bà ấy chứ?”
“Lần đầu tiên, trước lúc chúng tôi kết hôn. Chồng chưa cưới của tôi cứ nài nỉ để giới thiệu tôi với bà và nói rằng đấy là gia đình duy nhất của anh.”
“Vậy, bà đã đến phố Manuel chứ?”
“Vâng. Buổi chiều, lúc năm giờ. Bà ấy đãi chúng tôi sôcôla và bánh ngọt. Tôi cảm thấy ngay bà ấy không ưa tôi và bà ấy sẽ khuyên Gaston đừng lấy tôi.”
“Vì lý do gì?”
Chị ta nhún vai, tìm lời, cuối cùng nói thẳng:
“Chúng tôi không cùng một hạng người.”
Ông chủ tịch đưa mắt nhìn để ngăn những tiếng cười chực nổ ra.
“Bà ấy không tham dự lễ cưới của bà à?”
“Có chứ.”
“Thế còn Alfred Meurant em chồng bà?”
“Cả chú ấy nữa. Vào thời ấy chú ấy sống ở Paris, và còn chưa bất hoà với chồng tôi.”
“Anh ta làm nghề gì?”
“Nhân viên tiếp thị.”
“Anh ta còn làm đều đặn không?”
“Làm sao tôi biết được? Chú ấy đã biếu chúng tôi một dịch vụ cà phê như là quà cưới.”
“Bà không gặp lại bà Léontine Faverges?”
“Bốn năm lần gì đó.”
“Bà ấy có đến chỗ bà không?”
“Không. Chính chúng tôi là người tới nhà bà. Tôi không muốn đi, vì tôi sợ phải kiềm chế mình trước những người không ưa tôi, nhưng Gaston tỏ ý tôi không thể làm khác được.”
“Tại sao?”
“Tôi không biết.”
“Phải chăng, ngẫu nhiên, vì tiền của bà ta?”
“Có thể.”
“Bà thôi không lui tới phố Manuel nữa từ khi nào?”
“Lâu rồi.”
“Hai năm? Ba năm? Bốn năm?”
“Cứ cho là ba năm.”
“Vậy bà biết sự tồn tại của chiếc lọ Tàu trong phòng khách chứ?”
“Tôi đã nhìn thấy, và tôi cũng bảo Gaston rằng những bông hoa giả chẳng phải dùng cho những vòng hoa tang sao.”
“Bà có biết nó đựng gì không?”
“Tôi chỉ biết rõ là những bông hoa.”
“Chồng bà không bao giờ nói gì với bà ư?”
“Về cái gì? Về cái lọ à?”
“Về những đồng tiền vàng.”
Lần đầu tiên, chị ta quay mặt vào ô bị cáo.
“Không.”
“Ông ấy cũng không cả tâm sự với bà là cô mình, đáng lẽ gửi tiền ở ngân hàng, lại giữ ở nhà ư?”
“Tôi không nhớ.”
“Bà có chắc vậy không?”
“Chắc… vâng…”
“Vào thời kỳ bà còn lui tới, dù chỉ là rất ít, phố Manuel, cô bé Cécile Perrin đã ở trong nhà ấy chưa?”
“Tôi chẳng bao giờ thấy nó. Không. Có lẽ nó còn quá nhỏ.”
“Bà được nghe nói về nó từ chồng bà?”
“Anh ấy hẳn có bóng gió nói tới. Khoan đã! Giờ thì tôi tin chắc rồi. Dù rằng điều đó đã làm tôi ngạc nhiên người ta lại đi giao một bé gái cho một người đàn bà như bà ta.”
“Bà có biết bị cáo khá hay lui tới hỏi tiền cô mình không?”
“Anh ấy luôn giữ không cho tôi biết.”
“Nhưng nói chung thì bà biết chứ?”
“Tôi biết anh ấy không mạnh trong việc giao dịch vì khi chúng tôi mở một tiệm ăn phố Đường xanh, nhẽ ra có thể bán rất chạy, anh ấy đã để mình bị đủ mọi loại người lừa.”
“Bà làm gì trong tiệm ăn?”
“Tôi phục vụ khách hàng.”
“Thế chồng bà?”
“Anh ấy làm việc dưới bếp, có một bà già giúp việc.”
“Anh ấy quen với việc nấu nướng à?”
“Anh ấy dùng một cuốn sách.”
“Chỉ có một mình bà trong phòng ăn với các khách hàng?”
“Lúc đầu, chúng tôi có một cô phục vụ trẻ.”
“Khi công việc làm ăn sa sút, bà Léontine Faverges không giúp đỡ trả nợ cho các chủ nợ ư?”
“Tôi cho là có. Tôi tin vẫn còn nợ tiền.”
“Chồng bà, những ngày cuối tháng hai có tỏ ra lo lắng không?”
“Anh ấy luôn luôn lo lắng.”
“Ông ấy có nói với bà về một hối phiếu đáo hạn ngày hai mươi tám không?”
“Tôi không để ý đến chuyện đó. Tháng nào anh ấy chẳng có những hối phiếu.”
“Ông ấy không báo cho bà là sẽ đến gặp cô mình để yêu cầu giúp đỡ thêm một lần nữa ư?”
“Tôi không nhớ!”
“Việc ấy không khiến bà quan tâm ư?”
“Không. Tôi không quen việc đó.”
“Sau khi bán tiệm ăn, bà không đề cập đến chuyện làm việc?”
“Tôi chỉ làm được việc đó. Gaston không muốn.”
“Vì lý do gì?”
“Có thể vì anh ấy ghen.”
“Ông ấy có đánh ghen với bà không?”
“Không có cảnh đó.”
“Bà hãy quay lại phía các ông bồi thẩm.”
“Xin lỗi, tôi quên mất.”
“Bà dựa vào cái gì để khẳng định ông ấy ghen?”
“Trước hết, anh ấy không muốn cho tôi làm việc. Tiếp đó, ở phố Đường xanh, anh ấy không ngừng ra khỏi bếp để dò xét tôi.”
“Có lúc nào ông ấy đi theo bà không?”
Pierre Duché cựa quậy trên ghế, không hiểu nổi, ông chủ tịch hỏi thế để đi đến đâu.
“Tôi không thấy có chuyện ấy.”
“Tối tối, ông ấy có hỏi bà đã làm gì không?”
“Có.”
“Bà trả lời ông ấy thế nào?”
“Rằng tôi đi xem phim.”
“Bà có chắc đã không nói với ai về phố Manuel và bà Léontine Faverges không?”
“Chỉ với chồng tôi thôi.”
“Không với người bạn gái nào.”
“Tôi không có bạn gái.”
“Thế chồng bà và bà thường lui tới nhà ai?”
“Không ai cả.”
Nếu như chị ta bị hoang mang bởi những câu hỏi đó, chị ta vẫn không hề để lộ ra ngoài chút nào.
“Bà có nhớ bộ quần áo chồng mình mặc ngày hai mươi bảy tháng hai, lúc điểm tâm không?”
“Bộ màu xám. Đó là bộ mặc trong tuần. Anh ấy chỉ mặc bộ khác vào tối thứ bảy, nếu chúng tôi đi chơi vào ngày chủ nhật.”
“Và để đến nhà cô ông ấy?”
“Vài lần thôi, tôi nghĩ anh ấy mặc bộ màu xanh.”
“Ngày hôm ấy, ông ấy cũng mặc bộ đó?”
“Tôi không thể biết. Tôi không có mặt ở nhà.”
“Bà không biết liệu lúc chiều ông ấy có trở về nhà không à?”
“Làm sao tôi biết được? Tôi ở rạp chiếu phim.”
“Cảm ơn bà.”
Chị ta vẫn đứng đó, ngỡ ngàng không thể tin được thế là hết, người ta sẽ không đặt ra những câu hỏi mà mọi người đang mong đợi với mình nữa.
“Bà có thể về chỗ.” Ông chủ tịch liền đó nói tiếp, “Cho mời ông Nicolas Cajou lên.”
Mọi người có vẻ thất vọng. Công chúng có cảm tưởng người ta vừa mới chơi gian, lấp liếm bớt một cảnh mà họ có quyền xem. Ginette Meurant miễn cưỡng trở lại chỗ ngồi và một luật sư ngồi cạnh Maigret nói khẽ với các đồng sự của mình.
“Lamblin đã móc nối với cô nàng trong hành lang lúc tạm dừng…”
Thầy cãi Lamblin, có dáng của loài chó đói, đã khiến người ta phải nói rất nhiều đến ông ta ở toà Đại hình, ít khi được tốt, và ông ta đã từng nhiều lần bị tạm đình ghế luật sư. Làm như thể ngẫu nhiên, ông ta ngồi ngay cạnh người đàn bà trẻ, và nói khẽ với chị ta như thể chúc mừng chị ta.
Người đàn ông tiến đến vành nhân chứng như kéo lê chân, là một mẫu người hoàn toàn khác. Nếu như Ginette Meurant, dưới lớp phấn son bề ngoài, vẫn có vẻ xanh xao của những phụ nữ sống trong nhà kính, thì người này không những tái nhợt, mà còn nhão nhoét và ốm yếu. Phải chăng sau khi mổ, ông ta gầy đi đến thế? Áo quần ông ta vẫn luôn lụng thụng trên tấm thân đã mất đi vẻ dẻo dai và mềm mại thế hay sao?
Người ta hình dung ông ta yên vị với đôi giày đi trong nhà, trong văn phòng có những ô kính mờ của khách sạn ông ta còn hơn là bước đi trên vỉa hè thành phố. Mắt ông ta hõm xuống và da thõng dưới cằm.
“Ông là Nicolas Cajou, sáu hai tuổi, sinh ở Marillac miền Cantal, và hành nghề quản lý khách sạn ở Paris, phố Victor-Massé.”
“Vâng, thưa ông chủ tịch.”
“Ông không phải họ hàng, bạn bè, hoặc có quan hệ làm ăn với bị cáo… Ông hãy thề là chỉ nói sự thật, toàn bộ sự thật, chỉ sự thật… ông hãy giơ tay phải lên và nói: Tôi xin thề…”
“Tôi xin thề…”
Một phụ thẩm ghé tai ông chủ tịch đưa ra một nhận xét có lẽ rất thích đáng, bởi ông Bernerie tỏ ra lưu tâm, thoáng nghĩ một lúc, cuối cùng nhún vai. Maigret không để sót cảnh đó chút nào, tin là mình đã hiểu.
Những nhân chứng đã từng bị kết án là làm chuyện ô nhục, hoặc giấu mình vào những hoạt động vô luân, quả thật, không có quyền được thề. Vậy mà, người chủ một nhà chứa lại không dấn mình vào một nghề vô luân, khi hắn ta thu nhận trong cơ ngơi của mình những cặp trai gái trong những hoàn cảnh bị luật pháp ngăn cấm hay sao? Liệu có thể tin được không hề có một tiền án nào trong lý lịch tư pháp của ông ta không?
Đã quá muộn để xác nhận chuyện đó, và ông chủ tịch húng hắng ho trước khi hỏi bằng một giọng khách quan:
“Ông vẫn giữ đều đặn sổ đăng ký khách hàng đến thuê phòng của ông chứ?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch.”
“Của tất cả mọi khách hàng?”
“Của tất cả những ai qua đêm trong khách sạn của tôi.”
“Nhưng ông không ghi tên những người chỉ dừng nghỉ ở đây vào ban ngày?”
“Không, thưa ông chủ tịch, cảnh sát có thể nói với ông rằng…”
Chắc chắn là, thường xuyên, không bao giờ có chuyện bê bối trong khách sạn của ông ta, và chỉ gặp dịp, ông ta mới cung cấp cho đội quản lý nhà chứa, hoặc cho các thanh tra tệ nạn xã hội, những nguồn tin họ cần.
“Ông đã nhìn kỹ nhân chứng vừa lên trước ông đấy chứ?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch.”
“Ông có nhận ra bà ta không?”
“Có, thưa ông chủ tịch.”
“Ông hãy nói với các vị bồi thẩm, ông đã gặp người đàn bà trẻ đó trong trường hợp nào trước đây?”
“Trong những trường hợp quen thuộc.”
Ông Bernerie đưa mắt dập tắt những tiếng cười.
“Nghĩa là?”
“Nghĩa là bà ta đến thường xuyên, buổi chiều, với một ông thuê phòng.”
“Ông gọi thế nào là thường xuyên.”
“Nhiều lần mỗi tuần.”
“Chẳng hạn bao nhiêu?”
“Ba bốn lần.”
“Vẫn người bạn trai đó?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch.”
“Ông có nhận ra được người đó không?”
“Chắc chắn được.”
“Ông thấy ông ta lần cuối cùng khi nào?”
“Hôm trước ngày tôi vào nằm viện, nghĩa là ngày hai mươi lăm tháng hai. Vì là ngày tôi mổ, nên tôi nhớ được.”
“Ông hãy miêu tả người đó.”
“Không cao to… Thậm chí còn nhỏ người… Tôi ngờ rằng, giống như một số người đau khổ vì mình nhỏ bé, ông ta đi đôi giày đặc biệt… Luôn ăn mặc tươm tất, có phần chải chuốt… Trong khu vực đó, chúng tôi biết loại người này… Đó cũng là điều làm tôi ngạc nhiên…”
“Tại sao?”
“Tại vì các vị đó, nói chung, không có thói quen, qua khách sạn vào buổi chiều, nhất là lại với vẫn một người đàn bà…”
“Tôi cho rằng ít nhiều, ông đã quen nhìn đám người ở xóm Montmartre?”
“Xin lỗi, tôi chưa hiểu.”
“Là tôi muốn nói những người mà ông nói tới đó…”
“Tôi đã thấy họ qua đó.”
“Thế nhưng, ông lại không bao giờ thấy người đàn ông này ở chỗ khác ngoài khách sạn của ông?”
“Không, thưa ông chủ tịch.”
“Ông cũng không nghe thấy nói gì về con người đó hay sao?”
“Tôi chỉ biết người ta gọi ông ta là Pierrot.”
“Làm sao ông biết được?”
“Bởi vì, có lần người đàn bà đi cùng ông ta gọi ông ta như vậy, trước mặt tôi.”
“Ông ta có giọng nói đặc biệt gì không?”
“Biết nói thế nào đây. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn nghĩ rằng ông ta là người miền Nam, hoặc cũng có thể là người đảo Corse.”
“Cảm ơn ông.”
Lần này nữa, người ta đọc được vẻ thất vọng trên các khuôn mặt. Người ta đã chờ đợi một sự đối chứng bi hài thế mà chẳng có gì xảy ra, chỉ là một sự trao đổi bề ngoài vô thưởng vô phạt những câu hỏi đáp.
Ông chủ tịch nhìn đồng hồ:
“Phiên toà tạm dừng và sẽ mở lại vào hai giờ rưỡi chiều.”
Tiếng ồn ào lại nổi lên như lúc nãy có khác chăng là lần này, phòng xử rỗng đi ngay và người tạo thành một hàng rào để nhìn Ginette Meurant đi qua. Từ xa, hình như Maigret thấy Lamblin vẫn đi theo ngả riêng của mình và thỉnh thoảng chị ta lại quay lại để yên tâm ông ta vẫn đi theo mình.
Ông chánh thanh tra vừa bước ra khỏi ngưỡng cửa thì vấp phải Janvier, và đưa mắt hỏi anh ta.
“Ta đã tóm được rồi. Cả hai đều ở đường bờ sông.”
Ông chánh thanh tra phải một lúc mới hiểu Janvier muốn đề cập đến một vụ khác, một vụ ăn cướp có vũ khí ở chi nhánh ngân hàng Quận Mười.
“Việc đó xảy ra thế nào?”
“Chính Lucas đã bắt giữ được bọn chúng tại nhà bà mẹ của một trong những tên đó. Đứa kia trốn dưới gầm giường và bà mẹ không biết. Đã ba ngày chúng không ra khỏi nhà. Người mẹ tội nghiệp tưởng rằng con mình ốm và pha chanh đường cho nó. Bà ta là goá phụ của một nhân viên đường sắt, và làm việc trong một xí nghiệp dược phẩm của khu phố.”
“Bao nhiêu tuổi?”
“Đứa con trai, mười tám. Thằng bạn nó, hai mươi.”
“Chúng chối à?”
“Vâng. Tuy vậy, tôi tin sếp sẽ moi được ở chúng dễ dàng.”
“Cậu ăn trưa với tôi chứ?”
“Dẫu sao tôi cũng đã báo cho vợ tôi, là tôi không về nhà đâu.”
Trời vẫn mưa, khi họ đi xuyên qua Quảng trường Cá heo về phía tiệm bia đã trở thành nơi tụ họp của cảnh sát hình sự.
“Còn ở toà?”
“Còn chưa có gì rõ ràng cả.”
Họ dừng lại trước quầy, chờ một bàn trống.
“Có lẽ tôi nên điện thoại cho ông chủ tịch để xin phép được vắng mặt trong những cuộc tranh cãi.”
Maigret không muốn trải qua cả buổi chiều ngồi im không nhúc nhích trong đám đông, trong căn phòng ẩm ướt, để nghe các nhân chứng, từ đây sẽ chẳng còn đem lại điều gì bất ngờ nữa. Những nhân chứng đó, ông đã nghe họ trong phòng làm việc yên tĩnh của ông. Đối với phần lớn, ông cũng đã gặp họ ngay tại nhà, trong khuôn khổ của họ.
Toà Đại hình luôn thể hiện đối với ông phần nặng nề nhất, phần buồn bã nhất chức danh của ông, và mỗi lần ông đều cảm thấy ở đấy một sự lo âu. Phải chăng tất cả ở đấy đều không ngụy tạo? Không phải do lỗi của các thẩm phán, các bồi thẩm, các nhân chứng, cũng không phải do điều luật hoặc do thủ tục tố tụng, mà bởi lẽ con người thấy mình bị tóm gọn lại, nếu có thể nói như vậy, bằng mấy lời, bằng mấy câu.
Đã có lúc ông tranh luận điều đó với bạn mình, ông Pardon, thầy thuốc khu vực, người mà ông đã có thói quen rủ đi cùng vợ chồng ông ăn tối mỗi tháng một lần.
“Hai tám khách hàng trong chỉ một buổi chiều. Vừa đủ thì giờ để mời họ ngồi và đặt những câu hỏi ra cho họ. Ông cảm thấy thế nào? Ông đau ở đâu? Bao lâu rồi? Những người khác chờ đợi, mắt dán vào chiếc cửa bọc da, và tự hỏi liệu có bao giờ đến lượt họ không? Thè lưỡi ra! Cởi quần áo ra! Trong phần lớn các trường hợp, một giờ đồng hồ sẽ không đủ để phát hiện ra tất cả những gì cần biết. Mỗi bệnh nhân là một trường hợp của riêng họ, và tôi phải buộc làm việc theo hàng loạt…”