← Quay lại trang sách

Chương IV

Lúc hai giờ, Maigret vẫn có Janvier đi theo, bước lên cầu thang lớn ở đường bờ sông Orfèvres đã từ một buổi sáng vui vẻ nhất, trở nên u buồn và mang sắc lục pha lam, dù đang trong mùa hè. Hôm nay, một luồng không khí ẩm phả lên người ông và những vết đế giày ướt trên các bậc thang vẫn chưa khô.

Ngay từ bậc nghỉ đầu tiên, đã thấy từ gác trên vọng xuống một tiếng rầm rì, rồi những giọng nói, tiếng chân đi đi lại lại cho thấy báo chí bị chạm nọc đã ở đó, cùng với các nhà nhiếp ảnh, và chắc hẳn cả người của truyền hình, nếu không cả điện ảnh.

Một vụ án kết thúc hay có vẻ kết thúc ở toà. Một vụ khác đáng bắt đầu ở đây. Ở một đầu, đó là quần chúng. Đầu kia người ta chỉ còn thấy những chuyên viên.

Đường bờ sông Orfèvres cũng tồn tại một loại phòng nhân chứng, một phòng chờ lắp ô kính, mà người ta thường gọi là lồng thuỷ tinh, và ông chánh thanh tra dừng lại khi đi qua đưa mắt nhìn sáu nhân vật đang ngồi dưới những tấm ảnh của những cảnh sát bị chết trong khi làm nhiệm vụ.

Có nên tin mọi nhân chứng đều giống nhau không? Những người này thuộc cùng một môi trường của những người ở Toà công lý, những con người bé nhỏ, những công nhân giản dị và trong số họ, hai người đàn bà đang nhìn thẳng về trước mặt, hai tay đặt trên túi xách bằng da.

Những phóng viên vồ lấy Maigret, ông giơ tay ra hiệu hãy bình tĩnh:

“Từ từ! Từ từ! Xin các vị đừng quên rằng tôi còn chưa biết gì, và tôi cũng chưa từng thấy những gã đó…” Ông đẩy cửa phòng làm việc của mình và hứa. “Có lẽ trong vòng hai hoặc ba giờ nữa, nếu như tôi có gì mới cho các vị biết…”

Rồi đóng cửa lại nói với Janvier:

“Cậu đi xem Lapointe đã đến chưa.”

Ông lại thấy lại những điệu bộ trước kỳ nghỉ hè, hầu như cũng có tính chất nghi lễ đối với ông cũng như với các vị quan toà, các nghi lễ của toà Đại hình. Cởi áo khoác, bỏ mũ treo cả vào tủ tường, ở đấy có cả một vòi nước phun để rửa tay. Rồi ông ngồi vào bàn làm việc, gõ khẽ tẩu thuốc trước khi nhồi thêm một liều.

Janvier trở lại cùng với Lapointe.

“Vài phút nữa tôi sẽ gặp hai tên khốn kiếp của các cậu.” Rồi với chàng Lapointe trẻ. “Thế nào, chị ta đã làm gì?”

“Dọc các hành lang và trên cầu thang lớn, chị ta bị các nhà báo nhà nhiếp ảnh bâu quanh, chưa kể những người khác đợi bên ngoài, còn thấy cả một chiếc xe của hãng phim thời sự đậu cạnh vỉa hè. Về phần tôi, tôi chỉ nhìn thấy mặt chị ta hai ba lần qua khe giữa hai đầu người. Người ta cảm thấy chị ta sợ hãi và hình như chị ta van xin họ hãy để chị ta yên. Bất thình lình, Lamblin rẽ mọi người ra, nắm lấy cánh tay chị ta và kéo chị ta về phía một xe taxi mà hắn ta đã có đủ thì giờ để đi tìm. Hắn đỡ chị ta lên xe, và chiếc xe đi về phía cầu Saint-Michel. Tất cả diễn ra như một trò ảo thuật. Phần tôi, vì không tìm được một taxi, tôi không thể đuổi theo. Chỉ mấy phút sau, Macé của tờ Figaro trở lại Toà. Anh ta gặp may, vì xe của anh ta đậu gần nên đã bám theo được chiếc taxi kia. Theo Macé, tay Lamblin đã đưa Ginette Meurant vào một tiệm ăn ở Quảng trường Odéon, có đặc sản trái cây miền biển và món súp thập cẩm. Họ đã ăn gì đó, riêng hai người với nhau, không tỏ ra vội vã gì. Lúc này, mọi người đã trở lại chỗ của mình trong phòng xử và chỉ còn đợi Toà ra nữa thôi.”

“Cậu quay lại ngay đó. Thỉnh thoảng gọi cho tôi. Tôi muốn biết, liệu lời khai của chị hầu phòng có gây ra điều gì bất ngờ không.”

Maigret đã nhận được điện thoại của ông chủ tịch cho phép vắng mặt buổi chiều ở Toà.

Năm viên thanh tra được tung ra buổi sáng trong phòng xử không phát hiện được điều gì. Họ đã nghiên cứu quần chúng bằng con mắt cảnh giác như những nhà tướng diện học của những sòng bạc. Không kẻ nào trong những người có mặt ứng với sự miêu tả của Nicolas Cajou về người bạn trai của Ginette Meurant. Còn như Alfred Meurant, em trai của bị cáo, hắn không có mặt ở toà, cũng không ở Paris, theo như Maigret đã biết do một cú điện thoại của đội cơ động ở Toulon.

Hai thanh tra còn lưu lại trong phòng xử, thêm cả Lapointe, rất bất ngờ mượn lối hành lang phía trong tới ngồi bên cạnh.

Maigret gọi Lucas là người phụ trách vụ cướp[2] ngân hàng.

“Thưa sếp, tôi không muôn thẩm vấn chúng trước khi sếp gặp chúng. Lúc nãy, tôi đã thu xếp để các nhân chứng nhận mặt lúc đi qua mặt chúng.”

“Họ đều nhận ra cả hai đứa chứ?”

“Vâng. Nhất là tên đã bị mất mặt nạ, đương nhiên rồi.”

“Cho đứa ít tuổi hơn vào đi.”

Tên này tóc quá dài, mụn đầy mặt, vẻ ốm yếu, bẩn thỉu.

“Cởi còng tay cho y…”

Gã đưa mắt nhìn ông nghi ngờ, vẻ cả quyết không chịu sa vào chiếc bẫy ông sẽ không bỏ lỡ dịp giăng ra cho gã.

“Hãy để mình tôi với cậu ta.”

Trong những trường hợp đó, Maigret thích chỉ còn lại một mình đối đầu với kẻ bị tình nghi, còn sau mới là thời gian lấy lời khai của gã bằng văn bản và để cho gã ký.

Ông hút vài hơi thuốc.

“Ngồi xuống đi.”

Ông đẩy về phía gã một bao thuốc điếu.

“Cậu hút chứ?”

Bàn tay gã run run. Đầu những ngón tay dài và vuông, những móng tay bị gặm như móng tay trẻ con.

“Cậu không còn bố à?”

“Không phải tôi.”

“Tôi không hỏi có phải chính cậu hoặc không phải cậu đã diễn trò. Tôi chỉ hỏi cậu có còn bố không.”

“Ông ấy chết rồi.”

“Về chuyện gì?”

“Ở viện điều dưỡng.”

“Là mẹ cậu bảo cậu thế à?”

“Tôi cũng làm việc ở đấy.”

“Việc gì?”

“Tôi là thợ mài bóng.”

Như vậy là mất thì giờ. Nhưng do kinh nghiệm Maigret biết tốt nhất nên từ tốn.

“Cậu kiếm khẩu súng tự động ở đâu?”

“Tôi không có khẩu tự động.”

“Cậu có muốn tôi cho gọi ngay lập tức những nhân chứng đang đợi không?”

“Đó là những kẻ dối trá.”

Chuông điện thoại reo. Đó là Lapointe.

“Thưa sếp, Geneviève Lavancher đã khai. Người đã hỏi chị ta những câu gần giống như hỏi chủ chị ta, không hơn một câu nào. Ông chủ tịch hỏi vậy chứ ngày hai mươi lăm tháng hai, chị ta không thấy gì đặc biệt trong sự ứng xử của hai vị khách ư, và chị ta đã trả lời rằng, đúng là chị ta đã rất ngạc nhiên nhận ra chiếc giường không hề bị lộn xộn.”

“Những nhân chứng được gọi hầu toà chính thức đều trình diện chứ?”

“Vâng. Lúc này việc đó diễn ra rất nhanh. Nghe được họ cũng vất vả đấy.”

Phải mất bốn mươi phút mới làm đứa bé hết chống đỡ, và cuối cùng khóc nức nở.

Chính nó là kẻ đã cầm khẩu tự động trong tay. Chúng không phải hai mà ba đứa, vì một tên đồng minh ngồi đợi ở tay lái một chiếc xe hơi đánh cắp, vẫn tên này hình như đã nghĩ ra việc ăn cướp, và đã chuồn không đợi hai tên kia ngay khi nghe thấy tiếng kêu cứu. Mặc dầu vậy, gã trai có tên là Virieu, không chịu khai ra tên nó.

“Nó nhiều tuổi hơn cậu chứ?”

“Vâng, nó hai ba tuổi và đã kết hôn.”

“Nó có kinh nghiệm chứ?”

“Nó cho là như vậy.”

“Chốc nữa tôi sẽ lại hỏi cậu, khi tôi đã nghe tên bạn cậu.”

Người ta dẫn Virieu đi, và cho Girancourt, tên bạn nó vào và cũng tháo còng tay cho tên này, và cả hai khi gặp nhau đã có thời giờ đưa mắt trao đổi nhau.

“Nó đã cắn câu rồi ư?”

“Cậu cho là nó sẽ câm miệng à?”

Lệ thường thôi. Việc ăn cướp đã hỏng. Không ai chết, không ai bị thương, đập phá cũng không, trừ một ô cửa.

“Ai đã nghĩ ra chuyện mặt nạ?”

Ý nghĩ đó vả chăng cũng chẳng có gì độc đáo. Những kẻ chuyên nghiệp ở Nice vài tháng trước, cũng đã sử dụng mặt nạ hội giả trang đã tấn công một xe bưu điện.

“Cậu không giữ vũ khí chứ?”

“Không.”

“Chính cậu là người đã nói, lúc cô nhân viên tiến về phía cửa sổ: “Bắn đi, đồ ngốc…”.”

“Tôi chẳng biết tôi đã nói gì. Lúc ấy tôi đang điên đầu…”

“Chỉ có, thằng bạn nhỏ của cậu đã vâng lời, và nó đã bóp cò.”

“Nó không bắn.”

“Nghĩa là may thôi, phát súng sịt. Có lẽ không có đạn trong nòng chăng?”

Có thể là khẩu súng đã hỏng?

Các nhân viên ngân hàng, cũng như một nữ khách hàng giơ hai tay lên trời. Lúc đó là mười giờ sáng.

“Chính cậu, vừa bước vào vừa hét lên “Tất cả úp mặt vào tường, đưa hai tay lên. Đây là vụ cướp!” Hình như cậu còn thêm: “Cướp thật đấy!””

“Tôi nói vậy, bởi vì một bà phá lên cười.”

Một nữ nhân viên bốn nhăm tuổi, lúc này đang đợi trong chiếc lồng thuỷ tinh với những người khác khi ấy đã vơ lấy chiếc chặn giấy ném vỡ kính cửa sổ và kêu cứu.

“Cậu chưa bị kết án bao giờ chứ?”

“Một lần.”

“Vì động cơ gì?”

“Vì đã ăn cắp một chiếc máy ảnh trong một chiếc xe hơi.”

“Cậu biết, lần này, cậu phải trả giá thế nào không?”

Gã trai nhún vai, cố tỏ ra mình là một kẻ can trường.

“Năm năm đấy chú mình ạ. Còn về bạn cậu, dù súng có nổ hay không, cũng không có đủ mọi cơ may để cậu ta thoát khỏi dưới mười năm đâu…”

Đúng là như vậy. Người ta sẽ tìm thấy tên thứ ba một ngày này hay ngày khác. Việc điều tra sơ bộ sẽ diễn ra rất nhanh và vì, lần này không có vụ nghỉ hè của ngành pháp lý khiến công lý bị chậm trễ trong vòng ba bốn tháng nữa, Maigret lại một lần nữa sẽ phải ra làm chứng ở toà Đại hình.

“Mang hắn đi, Lucas. Không còn lý do gì để chia rẽ hắn với bạn hắn nữa. Chúng muốn, cứ để chúng chuyện trò thoải mái. Đưa nhân chứng thứ nhất vào cho tôi.”

Không chỉ là những thủ tục thôi mà còn vấn đề giấy tờ phiền phức nữa. Và, theo Lapointe điện cho ông, mọi việc còn diễn ra nhanh hơn ở Toà, một số nhân chứng chỉ đứng trước Toà độ năm phút, lại trở lại tìm chỗ ngồi trong đám đông, mắt trố lên, hơi thất vọng.

Đến năm giờ, Maigret vẫn còn làm việc về vụ cướp và phòng làm việc của ông, đèn đã bật sáng và đầy khói thuốc.

“Người ta vừa cho bên nguyên phát biểu. Ông Lioran đã có một bài phát biểu ngắn. Căn cứ vào những sự phát triển bất ngờ trước hết ông ta tán thành những kết luận của phó chưởng lý.”

“Ông phó chưởng lý đang nói lúc này à?”

“Được hai phút rồi.”

“Lúc nào ông ấy nói xong, gọi lại cho tôi.”

Nửa giờ sau, Lapointe gọi cho ông trình bày lại khá chi tiết. Ông công tố viên Aillevard đã nói về phần cốt lõi: “Chúng ta ở đây để tiến hành vụ án của Gaston Meurant, bị khởi tố vì ngày hai mươi bảy tháng hai đã cắt họng cô mình Léontine Faverges, và làm chết ngạt một cô bé bốn tuổi Cécile Perrin mà mẹ cháu đứng nguyên đơn.”

Bà mẹ, tóc nhuộm màu hung đỏ vẫn mặc chiếc áo choàng lông, hét lên một tiếng, và người ta phải đưa ra ngoài phòng xử, vẫn nấc lên thổn thức.

Ông phó chưởng lý lại tiếp tục:

“Chúng ta đã nghe ở vành nhân chứng những chứng cứ bất ngờ mà chúng ta đã không đếm xỉa đến những gì liên quan đến vụ án. Những gánh nặng đè lên chống lại bị cáo không hề thay đổi và những câu hỏi mà những vị bồi thẩm phải trả lời vẫn là những câu hỏi đó.

Gaston Meurant có khả năng thực tế phạm hai lần tội ác một lúc và lấy cắp của để dành của bà Léontine Faverges không?

Có thể cho là anh ta biết bí mật của chiếc lọ Tàu, và đã nhiều lần người cô đã lấy tiền ở đấy trao cho anh ta.

Anh ta đã có động cơ đầy đủ chưa? Hôm sau ngày xảy ra tội ác, ngày hai mươi tám tháng hai, người ta đã cho anh ta xem một hối phiếu anh ta đã ký, và anh ta không đủ số tiền cần thiết để thanh toán, tới mức bị đe vỡ nợ.

Cuối cùng, chúng ta có được những bằng chứng về sự có mặt của anh ta ở phố Manuel chiều hôm đó không?

Sáu ngày sau, người ta đã tìm thấy trong tủ tường ở nhà anh ta, một bộ complet màu xanh nước biển của anh ta, trên ống tay và lót áo có những vết máu không thể xác minh nguồn gốc.

Theo các chuyên gia, đó là máu người và chắc chắn có thể là máu của Léontine Faverges.

Còn lại những chứng cứ như có vẻ phản bác lại, trái với chứng cứ đáng tin nhất của các nhân chứng. “Bà Ernie, khách hàng của bà láng giềng cùng hành lang với nạn nhân, đã nhìn thấy một người mặc một bộ complet xanh ra khỏi căn hộ bà Léontine Faverges lúc năm giờ chiều và bà ta tin rằng có thể thề là người đó có tóc màu nâu sẫm.

Mặt khác, các vị đã nghe giáo sư piano, ông Germain Lombras nói với các vị là sáu giờ tối, ông còn trao đổi với bị cáo trong xưởng thợ ở phố La Roquette. Tuy nhiên ông Lombras cũng thú nhận ông ấy vẫn còn hơi có chút nghi ngờ về cái ngày ông ta tới đó.

Trước mặt chúng ta là một tội ác của quỷ sứ do một người không những chỉ lạnh lùng tấn công một người đàn bà không thể tự bảo vệ, mà còn không do dự giết một em bé gái.

Vâng không thể là vấn đề của những trường hợp giảm tội, mà chỉ là tội đại hình.

Mong các vị bồi thẩm cho biết, bằng linh hồn và lương tâm của mình, liệu các vị có tin Gaston Meurant là thủ phạm tội ác kép này không.”

Maigret đã xong việc với những tên cướp tài tử, miễn cưỡng mở cửa phòng, đôi mặt với các nhà báo.

“Chúng đã thú nhận rồi chứ?”

Ông quả quyết lắc đầu:

“Không có nhiều tin lắm đâu, thưa các vị tôi xin các vị đấy. Nhất là đừng có thêm phấn sáp vào. Đừng đem lại cho những kẻ muốn bắt chước chúng cái cảm giác những tên nhãi đó đã hoàn thành một chiến công. Đó là những giống người tội nghiệp, xin các vị hãy tin tôi…”

Ông trả lời vắn tắt câu hỏi, cảm thấy nặng nề, mệt mỏi. Đầu óc ông vẫn đang để vào phòng xử toà Đại hình đang đến lượt viên trạng sư trẻ nói.

Ông được mở chiếc cửa bịt kính ăn thông với Toà án để kết nối với Lapointe. Nhưng được ích gì? Ông hình dung ra bài biện hộ đang bắt đầu theo cách một cuốn tiểu thuyết bình dân.

Pierre Duché có trở lại nổi những việc đủ xa trong quá khứ không? Một gia đình ở Le havre, nghèo khó, lúc nhúc con cái phải tự xoay xở càng sớm càng tốt. Từ mười lăm, mười sáu tuổi đã bước vào nghề, nghĩa là đến Paris nơi họ bị kiểm tra khi hành nghề. Cha mẹ làm sao có thì giờ và phương tiện để lo trước việc đó. Tháng một lần, họ gửi thư về, nét chữ nắn nót, đầy lỗi chính tả đôi khi kèm theo một giấy gửi tiền khiêm tốn.

Hai chị em đã ra đi theo kiểu ấy. Léontine, lúc đầu bước vào một cửa hàng lớn như một người bán hàng thuê, và đã vội lấy chồng. Hélène, cô em, vào làm việc ở một cửa hàng bơ sữa, rồi tại một hiệu tạp hoá phố Hauteville.

Chồng cô chị chết. Còn cô em, không lâu phát hiện ra những vũ trường khu phố. Họ có còn tiếp xúc với nhau nữa hay không? Chắc là không, chồng bị chết trong một tai nạn, Léontine đã lui tới những quán bia, phố Hoàng gia và những nhà chứa khu Madeleine trước khi tới sinh sống ở phố Manuel.

Hélène, người em gái, có hai con không biết mặt bố và đã nuôi nấng chúng được chăng hay chớ trong ba năm. Rồi một buổi tối, người ta mang chị ta đến bệnh viện để mổ và không bao giờ ra khỏi đấy nữa.

“Khách hàng của tôi, thưa các vị bồi thẩm, được hội cứu trợ xã hội nuôi nấng…”

Đúng vậy, và Maigret đã có thể cung cấp thêm cho viên luật sư, về chủ đề này, những con số thống kê thú vị, tỷ lệ phần trăm chẳng hạn những đứa trẻ được nuôi dưỡng ở đó, trở thành xấu xa và về sau người ta gặp lại chúng trên những ghế dài của toà án. Những đứa này là những kẻ bất trị, những kẻ oán giận xã hội về cảnh ngộ nhục nhã của mình.

Thế mà trái với điều mọi người nghĩ, chắc hẳn cả với điều các vị bồi thẩm nghĩ, họ chỉ gồm một thiểu số.

Còn chắc chắn hơn, chúng còn bị ghi sổ đen giữa những người khác. Suốt đời chúng, chúng không thoát khỏi cảm giác hạ đẳng. Những phản ứng của chúng, đúng ra, là để chứng tỏ với bản thân, chúng cũng có giá trị như bất kỳ ai.

Người ta đã dạy cho chúng một nghề, và chúng nỗ lực để trở thành những thợ thủ công hạng nhất. Lòng kiêu hãnh của chúng là xây đắp một gia đình, một gia đình đúng nghĩa, một gia đình bình thường với lũ con dắt tay đi dạo ngày chủ nhật. Rồi một ngày nào đó, biết đâu chẳng được đền bù một cách tốt đẹp, trở thành những ông chủ nhỏ, mở xưởng ngay tại nhà mình?

Pierre Duché có nghĩ tới những điều đó không? Có phải anh ta đang nói với họ điều đó trong cái phòng xử mà sự mệt mỏi bắt đầu làm ủ rũ các khuôn mặt? Lần thứ ba, Ginette đến cảnh sát hình sự, trong văn phòng của ông, ông chánh thanh tra đã tình cờ hỏi chị ta:

“Bà chưa có con bao giờ à?”

Rõ ràng là chị ta không ngờ tới câu hỏi đó, bởi chị ta tỏ vẻ ngạc nhiên:

“Tại sao ông hỏi tôi vậy?”

“Tôi cũng không biết nữa… Tôi có cảm giác rằng chồng bà thuộc loại đàn ông thích có con… Tôi nhầm chăng?”

“Không.”

“Ông ấy hy vọng có con với bà chứ?”

“Vâng, lúc đầu thôi.”

Ông thấy do dự một cái gì đó khá rắc rối, rồi khơi sâu thêm:

“Bà không thể có con à?”

“Không.”

“Ông ấy có biết khi lấy bà không?”

“Không. Chúng tôi chẳng bao giờ nói về chuyện đó.”

“Khi nào thì ông ấy biết?”

“Mấy tháng sau. Vì anh ấy luôn hy vọng và vì tháng nào anh ấy cũng hỏi tôi câu ấy, tôi thích thú nhận với anh ấy sự thật… Không hoàn toàn sự thật… rút cục, cái chính là…”

“Nghĩa là?”

“Là tôi đã từng bị bệnh trước khi quen biết anh ấy, và phải đi mổ…”

Tính từ đó, đã bảy năm. Trong khi Meurant hy vọng có một gia đình, anh ta chỉ có trơ một cặp vợ chồng.

Anh ta bắt tay vào chuyện làm ăn. Rồi, đành chịu theo sự nài nỉ của vợ mình, anh ta đã thử chuyển sang một nghề khác với nghề của mình trong một thời gian. Vì phải trông mong vào nghề mới, nhưng điều đó đã trở thành một tai hoạ. Anh ta đã nhẫn nhục trở lại nghề buôn bán khung tranh.

Cái đó hợp thành một tổng thể, trước con mắt của Maigret, dù đúng dù sai, bất ngờ gắn một tầm khá quan trọng vào vấn đề con cái đó.

Ông chưa đạt tới mức khẳng định Meurant vô tội. Ông đã gặp những con người mờ nhạt như anh ta, bề ngoài cũng trầm tĩnh, cũng hiền như thế, trở nên hung dữ. Hầu như luôn luôn, bởi tại lúc đó vì lý do này hay lý do khác, họ bị tổn thương nơi sâu kín nhất của lòng mình.

Meurant, do ghen tuông thúc đẩy cũng có thể mắc tội ác. Có lẽ anh ta cũng có thể đánh cả một người bạn trai đã báng bổ anh ta. Cũng có thể, nếu như người cô đã từ chối không chịu cho anh ta vay tiền, mà anh ta đang cần gấp…

Tất cả đều có thể, trừ một điều, chánh thanh tra hình như thấy đối với một người đàn ông, khao khát một đứa con đến thế, lại có thể từ từ ấn chết ngạt một bé gái bốn tuổi…

“Alô, sếp…”

“Mình nghe đây.”

“Xong rồi. Toà và các bồi thẩm đã rút lui. Một số người đoán rằng, việc đó sẽ kéo dài. Một số khác, trái lại, lại tin chắc mọi trò đã diễn xong.”

“Thái độ Meurant thế nào?”

“Suốt cả buổi chiều người ta đã có thể tin rằng không còn là vấn đề của anh ta nữa. Anh ta vẫn lơ đãng, mắt tối sầm. Hai ba lần luật sư của anh ta hỏi, anh ta chỉ nhún vai. Cuối cùng khi ông chủ tịch hỏi anh ta có muốn phát biểu gì không, anh ta tỏ vẻ không hiểu. Người ta phải nhắc lại câu hỏi, anh ta chỉ lắc đầu.”

“Có lúc nào anh ta nhìn vợ mình không?”

“Không một lần nào.”

“Cảm ơn cậu. Nghe kỹ đây: cậu đã xác định được Bonfils[3] ngồi chỗ nào trong phòng xử chứ?”

“Vâng. Ngồi gần Ginette Meurant.”

“Cậu tới nhắc cậu ấy không được rời mắt khỏi chị ta khi đi ra. Để chắc chắn cậu ta khỏi bị đánh lạc mục tiêu, cần phải cử Jussieu giúp. Một trong hai người phải xoay sở có được một chiếc ô tô đúng tầm.”

“Tôi hiểu. Tôi sẽ báo cho họ chỉ thị của sếp.”

“Chắc chắn cuối cùng thế nào chị ta cũng trở về nhà, vậy phải có một người luôn thường trực trước nhà chị ta ở đại lộ Charonne.”

“Và nếu…”

“Nếu Meurant được tha, tôi sẽ cử Janvier đến đó, để mắt đến anh ta.”

“Sếp tin rằng…”

“Tôi không biết gì cả, chú em ạ.”

Đúng vậy. Cậu ta đã hành động tốt hơn. Cậu ta tìm sự thật nhưng chẳng có gì chứng tỏ cậu ta đã tìm thấy sự thật, ngay cả một phần sự thật cũng chưa.

***

Việc điều tra diễn ra tháng ba, rồi đầu tháng tư với những ngày mặt trời nóng gắt ở Paris, mây xanh ngắt, vài trận mưa rào bất ngờ đổ xuống những buổi sáng sớm mát mẻ.

Thủ tục tố tụng tiến hành vào một mùa thu đến sớm, bức bối, với mưa rơi, bầu trời thấp và đầy mây, những hè đường loang loáng nước.

Để giết thì giờ, ông ký các văn bản, lượn quanh các bàn làm việc của các thanh tra rồi chỉ thị cho Janvier: “Anh sắp xếp mọi việc, giữ liên lạc với tôi, ngay cả giữa đêm.”

Mặc dầu bề ngoài bình thản, ông vẫn bồn chồn, bất chợt lại lo lắng, như thể tự trách mình đã giữ một trách nhiệm quá nặng nề.

Khi chuông điện thoại réo trong phòng làm việc của ông, ông chồm tới.

“Kết thúc rồi, sếp!”

Không chỉ nghe thấy giọng nói của Lapointe mà còn những tiếng ồn khác, cả một sự nhốn nháo.

“Có bốn câu hỏi đặt ra, hai cho mỗi nạn nhân. Câu trả lời không cho cả bốn. Trạng sư, ngay lúc đó, cố gắng dẫn Meurant đến phòng lục sự, mặc dầu quần chúng…”

Tiếng của ông công tố viên bị lạc đi một lúc trong tiếng ầm ầm.

“Xin lỗi sếp… Tôi đã nhận được cú điện thoại đầu tiên gọi tới… Lúc nào có thể trở về phòng được là tôi về ngay.”

Maigret lại đi đi lại lại, nhồi thuốc, rồi lại nhồi lại vì lần trước tắt, mở rồi khép cửa ba bốn lần.

Những hành lang của cảnh sát điều tra lại trở nên vắng vẻ, và chỉ còn mỗi một khách quen, một tay chỉ điểm ngồi đợi trong lồng kính.

Khi Lapointe đến, người ta cảm thấy anh ta vẫn chưa hết trạng thái bị kích động ở toà Đại hình.

“Nhiều người tiên đoán là như thế, nhưng điều đó dẫu sao cũng vẫn tạo ra hiệu quả… Tất cả phòng xử đều bật dậy… Mẹ đứa bé, khi trở lại chỗ ngồi đã ngất đi và suýt nữa bị giẫm bẹp…”

“Còn Meurant?”

“Anh ta tỏ ra không hiểu gì. Anh ta để mặc người ta dẫn đi chẳng hiểu điều gì đang xảy ra. Những nhà báo có thể đến gần anh ta cũng chẳng moi được điều gì. Thế là họ lại lao đến chị vợ mà Lamblin đang như một vệ sĩ của chị ta. Ngay sau khi tuyên án chị ta định lao tới Meurant, như để chồm lên cổ chồng mình. Nhưng anh ta quay lưng lại phòng xử…”

“Chị ta hiện ở đâu?”

“Lamblin đã dẫn chị ta vào một văn phòng nào đó tôi không biết, gần buồng luật sư… Jussieu theo dõi chị ta.”

Đã sáu giờ rưỡi, Phòng Cảnh sát điều tra bắt đầu trống vắng, những chiếc đèn đã tắt.

“Tôi về nhà ăn tối đây.”

“Còn tôi, tôi phải làm gì đây?”

“Cậu cũng đi ăn tối rồi đi ngủ.”

“Ông có tin sẽ xảy ra chuyện không?”

Ông chánh thanh tra đang mở tủ tường để lấy áo khoác ngoài và lấy mũ nhún vai.

“Cậu có nhớ lần khám nhà không?”

“Rất nhớ.”

“Cậu có tin chắc trong nhà không có vũ khí không?”

“Chắc chứ. Tôi tin chắc Meurant không bao giờ mang vũ khí. Anh ta cũng không làm nghĩa vụ quân sự, do quan điểm của anh ta…”

“Mai gặp lại, chú em.”

“Chào sếp, mai gặp lại.”

Maigret bắt xe buýt rồi với tấm lưng tròn, cổ áo kéo lên, đi dọc mặt đại lộ Richard-Lenoir. Vừa đặt chân lên bậc nghỉ cầu thang nhà mình, cửa đã mở ra, vẽ một hình chữ nhật ánh sáng ấm cúng và mùi bếp nấu toả ra.

“Hài lòng chứ?” Bà Maigret hỏi.

“Tại sao?”

“Vì anh ta được tha bổng.”

“Làm sao em biết?”

“Em vừa nghe ở radio.”

“Người ta nói về chị vợ thế nào?”

“Nói vợ anh ta đợi anh ta ở lối ra và hai người thuê một chiếc taxi về nhà họ.”

Ông lại đắm chìm vào thế giới thân quen và tìm lại những thói quen hàng ngày, tìm đôi giày đi trong nhà.

“Anh đói lắm à?”

“Anh không biết. Có gì ăn tối không?”

Ông đang nghĩ đến một căn hộ khác, nơi họ cũng chỉ có hai người, ở đại lộ Charonne. Ở đó, chắc họ không có bữa tối đã nấu, nhưng có thể có thịt nhồi và phó mát ở tủ thức ăn. Ngoài phố hai viên thanh tra đang bước hàng trăm bước dưới mưa, trừ phi họ tìm được chỗ trú trước cửa nhà.

Điều gì đang diễn ra? Gaston Meurant ngồi bảy tháng trong tù giờ đây đang nói gì với vợ? Anh ta nhìn vợ mình thế nào? Cô nàng có định ôm hôn anh ta, đặt tay mình lên tay anh ta không? Chị ta có chửi tất cả những gì người ta nói về phần chị ta là sai toét không? Ngày mai, liệu anh ta có quay lại cửa hàng của mình, trong cái xưởng thợ làm khung ở cuối sân không?

Maigret ăn một cách miễn cưỡng và bà Maigret biết đây không phải là lúc hỏi chồng mình.

Chuông điện thoại lại reo:

“Alô, vâng… Tôi đây… Vacher hả?… Jussieu vẫn cùng với ông chứ?”

“Tôi điện thoại cho ông từ một quán rượu vùng phụ cận để báo cáo với ông… Tôi không có gì đặc biệt để nói, nhưng tôi tự nhủ rằng ông muốn biết…”

“Họ về đến nhà rồi chứ?”

“Vâng.”

“Mỗi mình họ à?”

“Vâng, vài phút sau, đèn bật sáng ở lầu ba. Tôi đã nhìn thấy những bóng người đi đi lại lại sau rèm cửa…”

“Tiếp đó?”

“Khoảng nửa giờ sau, người vợ đi xuống, tay cầm ô, Jussieu đã bám theo. Chị ta không đi xa, mà vào một hiệu bán thịt, rồi một hàng bánh mì, sau đó trở về nhà mình…”

“Jussieu có nhìn thấy chị ta gần không?”

“Khá gần. Qua tủ kính cửa hàng thịt.”

“Chị ta có vẻ thế nào?”

“Hình như đã khóc. Đôi gò má đỏ lên, đôi mắt loáng nước…”

“Không tỏ vẻ lo lắng ư?”

“Jussieu cho là không.”

“Và từ bao giờ?”

“Tôi cho là họ đã ăn xong. Tôi lại nhìn thấy bóng Ginette trong căn phòng hình như là buồng ngủ.”

“Chỉ có thế?”

“Vâng. Chúng tôi ở lại đây cả hai chứ?”

“Như thế thận trọng hơn. Tôi muốn lát nữa, một trong hai người vào hẳn trong nhà cảnh giới. Những người thuê nhà chắc đi ngủ sớm. Jussieu chẳng hạn, ở vị trí hành lang khi mọi người đã ngừng đi lại. Cậu ấy có thể báo cho bà gác cửa biết và yêu cầu bà ấy hãy kín miệng.”

“Được thôi thưa sếp.”

“Dẫu sao hai giờ cũng gọi lại đến đây cho tôi.”

“Nếu quán rượu còn mở cửa.”

“Nếu không, có thể tôi sẽ ghé qua đấy.”

Không có vũ khí trong nhà, được, nhưng hung thủ giết Léontine lại không dùng một con dao mà người ta vẫn không tìm thấy ư? Một con dao rất sắc, các chuyên gia đã khẳng định thế, khiến nghĩ tới có thể là con dao hàng thịt. Người ta đã hỏi tất cả những người đánh dao, và những người bán hàng sắt ở Paris và đương nhiên chẳng đem lại điều gì.

Rút cục người ta chẳng biết gì, ngoài việc một người đàn bà và một bé gái bị chết, một bộ complet xanh nào đó có vết máu là của Gaston Meurant và vợ anh ta vào thời kỳ xảy ra tội ác mỗi tuần nhiều lần gặp lại người tình trong một nhà chứa ở phố Victor-Massé.

Tất cả chỉ có thế. Không đủ chứng cứ, bồi thẩm đoàn vừa tha người thợ làm khung tranh. Nếu như họ không thể khẳng định anh ta phạm tội, họ cũng không thể khẳng định anh ta vô tội. Trong thời gian chồng bị tạm giam, Ginette Meurant sống mẫu mực, ít khi ra khỏi nhà, không gặp gỡ kẻ nào đáng ngờ cả. Không có điện thoại trong chỗ ở của chị ta, và người ta cũng đã theo dõi thư từ của chị ta mà không có kết quả.

“Có thật anh định đến đấy đêm nay không?”

“Chỉ là đi một vòng trước khi đi ngủ thôi mà.”

“Anh sợ điều gì ư?”

Ông trả lời sao đây? Họ chỉ có hai người, quá ít điều để chung sống với nhau, trong cái căn hộ lạ lùng, nơi cuốn Lịch sử nhiếp chính và Đế chế để cạnh những con búp bê bằng lụa và những tạp chí về đời riêng các ngôi sao điện ảnh, trên các ngăn của góc ấm cúng.