Chương V
Khoảng mười một giờ rưỡi, Maigret đi xuống, bắt một chiếc taxi tới đại lộ Charonne. Jussieu với bộ mặt khó tả của những kẻ sống chui rúc trong đêm, không một tiếng động, ra khỏi bóng tối, chỉ lên phía trên đầu họ một chiếc cửa sổ còn sáng đèn ở tầng ba. Đó là thứ ánh đèn hiếm thấy ở khu vực này, một khu vực mà mọi người phải đi làm từ sáng sớm.
Nếu như trời vẫn mưa, những giọt mưa lúc này đã thưa hơn và đã thấy những ánh bạc mờ giữa những đám mây.
“Chiếc cửa sổ đó, đó là phòng ăn” Viên thanh tra nặng mùi thuốc lá, giảng giải “Trong chiếc phòng đó có lúc đèn đã tắt trong nửa tiếng đồng hồ.”
Maigret đợi vài phút, hy vọng bắt gặp được chuyện gì sau tấm rèm cửa. Nhưng không thấy, ông trở về nhà ngủ.
Theo những báo cáo và những cú điện thoại, hôm sau, ông sẽ lặp lại việc theo dõi từng giờ, từng giờ một hoạt động của vợ chồng Meurant.
Vào lúc sáu giờ sáng, khi bà gác cửa thu nhặt các thùng rác, hai viên thanh tra khác tới thay phiên, nhưng không vào sâu trong nhà vì ban ngày, chỉ còn có thể một trong hai người đứng trong cầu thang.
Báo cáo của Vacher đêm trước, lúc ngồi trên bậc thang, lúc đứng dựa cửa, mỗi khi có gì động đậy trong căn hộ, hơi có chút sai lạc.
Từ khá sớm, sau bữa ăn, trong khi ăn, hai vợ chồng hầu như không nói, Ginette vào phòng ngủ để thay quần áo. Jussieu, nhìn thấy chị ta từ phía ngoài với bóng dáng một người Trung Hoa, đang luồn áo qua đầu, và quả quyết như vậy.
Người chồng không đi theo vợ. Chị ta đến nói với chồng mấy câu, rõ ràng đã đi nằm, trong khi anh ta vẫn ngồi trong chiếc ghế bành ở phòng ăn. Tiếp đó nhiều lần, anh ta đứng lên, đi đi lại lại, rồi dừng lại, lại đi, rồi lại ngồi xuống.
Giữa đêm, chị vợ lại đến nói gì với anh ta. Từ bậc nghỉ, Vacher không rõ nói gì, nhưng nhận ra hai giọng nói. Nghe giọng nói, không phải là cãi nhau. Đó là tiếng nói đơn điệu của người vợ trẻ và thỉnh thoảng, một câu rất ngắn đúng ra chỉ là một từ của người chồng.
Chị ta lại đi ngủ, hình như vẫn một mình, ánh đèn không tắt trong phòng ăn và khoảng hai giờ rưỡi, Ginette lại trở lại nói gì đó thêm một lần nữa.
Meurant không ngủ, anh ta trả lời ngay, cộc lốc. Vacher nghĩ chị ta đã khóc. Quả là anh đã nghe thấy tiếng khóc đều đều, xen lẫn tiếng sụt sịt.
Vẫn không hề giận dữ, người chồng đuổi chị ta về giường và chắc hẳn anh ta lại ngồi thu lu trong chiếc ghế bành.
Sau đó, một đứa bé sơ sinh thức giấc ở tầng trên, rồi tiếng bước chân ầm ầm và vào lúc năm giờ, các hộ thuê nhà bắt đầu thức dậy, đèn các nhà bật sáng, mùi cà phê toả ra khắp cầu thang. Năm giờ rưỡi, một người đàn ông đi làm tò mò nhìn viên thanh tra đang không biết nấp vào đâu, rồi nhìn ra cửa và tỏ ra hiểu chuyện.
Dupeu và Baron đến thay phiên phía ngoài lúc sáu giờ. Trời không mưa nữa. Cây cối vẫn đang nhỏ nước, sương mù ngăn tầm nhìn xa ngoài hai mươi mét.
Đèn trong phòng ăn vẫn sáng. Đèn buồng ngủ đã tắt. Meurant vội vã ra khỏi nhà, râu không cạo, quần áo nhăn nheo như suốt đêm ngủ nguyên quần áo, rồi đi về phía một tiệm ăn hút ở góc phố, uống ba tách cà phê đen và ăn bánh cuốn thừng. Lúc xoay tay nắm cửa mỏ vịt để đi ra, anh ta nghĩ lại, lại quay lại quầy rượu, gọi một cognac và uống cạn một hơi.
Cuộc điều tra vào mùa xuân đã xác nhận anh ta không phải là một kẻ nghiện rượu, lúc ăn cơm, chỉ thưa thớt uống một chút rượu vang và mùa hè, thỉnh thoảng một cốc bia.
Anh ta đi bộ đến phố Roquette, không hề quay lại xem có bị theo dõi không. Đến cửa hàng của mình, anh ta dừng lại một lúc trước những ván cửa đóng kín, không vào, đi thẳng vào cuối sân, lấy khoá mở cửa xưởng thợ.
Anh ta vẫn cứ đứng đó khá lâu, không làm gì, nhìn quanh mình, chiếc bàn mộc, những dụng cụ treo trên tường, những khung tranh lủng lẳng, những tấm ván và những vỏ bào. Nước lọt qua dưới khe cửa tạo thành những vũng nước trên nền xi măng.
Meurant mở cửa lò, cho vào đó một ít củi, một chút còn lại của nợ đời, rồi lúc đánh diêm, anh ta lại nghĩ lại đóng cửa lại và đi ra.
Anh ta bước đi khá lâu, như không có mục đích nào xác định. Đến Quảng trường Cộng Hoà, anh ta lại vào một tiệm uống một cognac thứ hai trong khi đó gã bồi nhìn anh ta tự hỏi mình đã nhìn thấy mặt con người ở đâu nhỉ. Anh ta có biết được điều đó không? Hai ba người qua đường cũng đều quay lại nhìn anh ta bởi vì, ngay sáng hôm nay, ảnh anh ta vẫn còn hiện lên trong các báo với hàng chữ lớn:
GASTON MEURANT ĐƯỢC THA BỔNG.
Tiêu đề đó, tấm ảnh đó, anh ta có thể thấy được ở tất cả các quầy sách báo, nhưng anh ta không có ý tò mò mua một tờ báo. Anh ta đón xe buýt hai mươi phút sau xuống Quảng trường Pigalle và đi về phố Victor-Massé.
Cuối cùng, anh ta dừng lại trước ngôi nhà chứa, có tên là Khách sạn Sư tử do Nicolas Cajou làm chủ, đứng lại khá lâu và chăm chú nhìn mặt tiền ngôi nhà.
Rồi anh ta bỏ đi, quay xuống những đại lộ lớn bằng bước chân thất thểu, đôi khi dừng lại ở ngã tư, như thể không biết đi về đâu, dọc đường mua một bao thuốc lá.
Ở phố Montmartre, anh ta đi tới Janvier và viên thanh tra suýt mất dấu anh ta trong đám đông người. Đến Chatelet, anh ta uống cốc cognac thứ ba, vẫn một hơi và cuối cùng tới đường bờ sông Orfèvres…
Lúc này mặt trời đã lên, sương mù màu vàng nhạt bớt dày đặc. Maigret, trong phòng làm việc của mình, nhận được một báo cáo bằng điện thoại của Dupeu, vẫn làm nhiệm vụ ở Charonne.
“Chị vợ dậy lúc tám giờ kém mười. Tôi thấy chị ta mở rèm cửa rồi cửa sổ để nhìn ra ngoài phố. Chị ta có vẻ đang đưa mắt tìm chồng. Có thể chị ta không nghe thấy chồng mình đã đi và ngạc nhiên thấy phòng ăn vắng tanh, sếp ạ, tôi tin là chị ta đã thấy tôi…”
“Không sao cả. Nếu chị ta cũng đi ra, cố đừng để mất dấu chị ta…”
Trên đường bờ sông, Gaston Meurant lưỡng lự, nhìn những cửa sổ của Cảnh sát điều tra bằng con mắt vẫn như khi nhìn những cửa sổ ngôi nhà chứa. Đã chín giờ rưỡi. Anh ta lại bước tới tận cầu Saint-Michel, đã định qua cầu, lại quay chân lại, đi qua trước mặt nhân viên bảo vệ, cuối cùng tiến vào dưới vòm cổng.
Anh ta đã quen những nơi này, từ từ bước lên cầu thang màu xám nhạt, dừng lại, không phải để thở mà bởi vì vẫn còn do dự.
“Anh ta lên đấy, sếp ạ!” Baron từ tầng trệt điện thoại lên.
Và Maigret nhắc lại với Janvier cũng đang ở trong phòng:
“Anh ta lên.”
Cả hai cùng đợi. Đã khá lâu. Meurant chưa quyết định, đi lại quanh hành lang, rồi dừng lại trước cửa phòng chánh thanh tra, gõ cửa, không muốn để cho ai thấy.
“Ông định tìm gì?” Joseph, người tuỳ phái già hỏi.
“Tôi muốn nói chuyện với ông chánh thanh tra Maigret.”
“Lại đây đã. Điền vào tờ phiếu này.”
Bút chì trong tay, anh ta vẫn còn nghĩ là chuồn khỏi đây, đúng lúc ấy Janvier ra khỏi phòng ông Maigret.
“Ông đến gặp ông chánh thanh tra à? Đi theo tôi.”
Tất cả chuyện đó, đối với Meurant chắc như trải qua cơn ác mộng. Anh ta có bộ mặt của người không ngủ, hai mắt đỏ ngầu, người sực mùi thuốc lá và mùi rượu. Tuy vậy, anh ta không say, và đi theo Janvier. Janvier mở cửa để anh ta vào rồi khép cửa đi ra.
Maigret, trong văn phòng của mình, rõ ràng đang mải nghiên cứu hồ sơ, một lúc sau mới ngẩng đầu lên, quay mặt lại khách đến, không tỏ vẻ ngạc nhiên, nói khẽ:
“Đợi một lát…”
Ông ghi chú vào một hồ sơ, rồi một tệp nữa, và hững hờ nói khẽ:
“Mời ngồi.”
Meurant không ngồi, cũng không tiến thêm trong căn phòng. Không nhịn được nữa, anh ta bật ra:
“Có lẽ ông tưởng tôi đến đây để cảm ơn ông hẳn?”
Giọng nói anh ta không hoàn toàn tự nhiên, mà hơi khàn, và cố ý làm ra vẻ châm biếm trong thán ngữ.
“Ngồi xuống đã” Maigret không nhìn anh ta nhắc lại.
Lần này, Meurant bước ba bước, cầm tập hồ sơ trên một chiếc ghế đệm nhung xanh.
“Ông làm vậy để cứu tôi à?”
Ông chánh thanh tra quan sát anh ta từ chân lên đầu, bình tĩnh:
“Ông có vẻ mệt mỏi, ông Meurant.”
“Không phải chuyện tôi mà là những điều ông làm hôm qua.” Giọng nói anh ta trầm hơn, như thể cố kìm nén sự giận dữ. “Tôi đến để nói với ông rằng, tôi không tin ông, ông đã nói dối, cũng như những người đó đã nói dối, tôi thà ở tù hơn là ông đã phạm phải một hành động tồi tệ…”
Rượu đã gây trong anh ta một sự tuột hãm nào chăng? Có thể lắm. Tuy nhiên, một lần nữa, anh ta không say và những câu nói đó anh ta chắc đã nhắc đi nhắc lại trong đầu mình gần suốt đêm qua.
“Ngồi xuống đi.”
Cuối cùng, anh ta quyết định miễn cưỡng ngồi xuống như thể biết trước mình sa bẫy.
“Ông có thể hút thuốc.”
Để phản đối và để tỏ ra không mắc nợ gì ông chánh thanh tra, anh ta không hút mặc dầu đang thèm, bàn tay run run.
Việc làm cho những con người bị lệ thuộc vào cảnh sát như thể nói ra những gì ông muốn, thật quá dễ dàng đối với ông.
Rõ ràng là anh ta muốn đề cập đến Nicolas Cajou, chủ nhà chứa, và chị hầu phòng.
Maigret khoan thai châm tẩu thuốc, chờ đợi.
“Ông thừa biết như tôi, đấy là giả dối…”
Sự lo lắng làm anh ta toát mồ hôi trán. Cuối cùng Maigret nói:
“Ý ông là ông đã giết cô ông và cô bé Cécile Perrin?”
“Ông biết thừa là không phải còn gì.”
“Tôi không biết, nhưng tôi tin chắc là ông không làm điều đó.”
“Tại sao, ông lại tin tôi?”
Ngạc nhiên, Maigret không biết trả lời ra sao.
“Có rất nhiều trẻ con trong ngôi nhà ông ở, ở đại lộ Charonne phải không?”
Meurant trả lời vâng một cách máy móc.
“Ông nghe thấy chúng đi đi đến đến. Chúng đi học về, chúng chơi trong cầu thang, đôi khi ông có chuyện trò với chúng không?”
“Tôi quen chúng.”
“Dù bản thân ông không có con, nhưng tỏ tường giờ giấc đến trường và từ trường về của chúng. Điều đó khiến tôi xúc động, ngay từ lúc bắt đầu điều tra. Cécile Perrin đi học trường mẫu giáo. Bà Léontine hàng ngày đến trường tìm nó, vào lúc bốn giờ chiều, trừ ngày thứ năm. Vậy cho tới lúc bốn giờ, bà cô ông chỉ có một mình trong căn hộ bà ta.”
Meurant vẫn chưa hiểu.
“Ông đã có một phiếu đáo hạn lớn vào ngày hai mươi tám tháng hai, phải không nào. Có thể là lần cuối ông đến vay tiền, bà Léontine Faverges đã tuyên bố với ông là sẽ không cho vay nữa. Giả thiết ông đã dự định giết bà ấy để chiếm số tiền trong cái lọ Tàu và các trái phiếu…”
“Tôi không giết bà ấy.”
“Để tôi nói hết đã. Tôi đã nói giả thiết thôi, nếu ông có ý định đó ông không có lý do nào để đến phố Manuel và do đó, đã giết hai người đáng lẽ chỉ cần một. Những tên tội phạm làm việc đó đối với trẻ con không vì nhu cầu nào rất hiếm, và những tên đó thuộc một hạng người nhất định.”
Meurant đôi mắt loang loáng như sắp khóc.
“Kẻ đã giết bà Léontine và đứa trẻ, hoặc không biết đến sự tồn tại của đứa trẻ, hoặc bắt buộc phải làm cho xong chuyện lúc hết buổi chiều. Thế mà, nếu như hắn ta biết bí mật của chiếc lọ và chiếc ngăn kéo đựng trái phiếu, cũng coi như hắn cũng biết sự có mặt của Cécile Perrin trong căn hộ.”
“Ông muốn đi đến đâu vậy?”
“Hút một điếu đã nào.”
Con người đó vâng theo một cách máy móc, tiếp tục nhìn Maigret bằng con mắt nghi ngờ trong đó không còn sự giận dữ trước nữa.
“Chúng ta vẫn cứ giả thiết, phải không nào? Hung thủ biết sáu giờ ông phải đến phố Manuel. Hắn không biết rằng những thầy thuốc pháp y có khả năng xác định chỉ xê dịch một hai giờ, giờ nạn nhân bị chết trong phần lớn các trường hợp” báo chí đã nhắc lại khá nhiều lần việc này…
“Không ai biết rằng…”
Giọng anh ta cũng đã thay đổi và bây giờ mắt quay đi không nhằm thẳng vào ông chánh thanh tra nữa.
“Khi phạm tội lúc năm giờ, kẻ sát nhân gần như tin chắc ông sẽ bị nghi ngờ. Hắn không thể đoán trước một khách hàng đã có mặt ở xưởng thợ của ông lúc sáu giờ, vả chăng, ông giáo sư âm nhạc không thể cung cấp một bằng chứng xác đáng, một khi ông ta không nhớ chắc ngày đó là hôm nào.”
“Không ai biết…” Meurant lặp lại một cách máy móc.
Maigret bất ngờ đổi chủ đề:
“Ông có quen biết người hàng xóm ở Charonne không?”
“Tôi chào hỏi họ trong cầu thang.”
“Họ không bao giờ đến nhà ông ngay cả chỉ để uống một tách cà phê thôi ư? Ông có đến nhà họ không? Ông không tạo quan hệ ít nhiều có tính chất bạn bè với bất kỳ ai chứ?”
“Không.”
“Vậy thì có nhiều cơ may để họ không bao giờ được nghe nói về cô ông.”
“Bây giờ thì có đấy.”
“Nhưng trước thì không. Vợ ông và ông có nhiều bạn bè ở Paris không?”
Meurant trả lời một cách khó chịu, như thể sợ sai một ly, đi một dặm.
“Điều đó thay đổi được cái gì?”
“Thỉnh thoảng vợ chồng ông có đến ăn tối tại nhà ai không?”
“Chẳng nhà ai cả.”
“Ngày chủ nhật ông đi chơi với ai?”
“Với vợ tôi.”
“Và bà ấy không có gia đình ở Paris. Cả ông nữa, về phần em trai ông thường sống ở miền Nam và hai năm nay, ông đã cắt đứt liên hệ với anh ta.”
“Chúng tôi không cãi nhau.”
“Thế nhưng ông đã thôi không gặp anh ta.”
Và Maigret hình như lại thay đổi chủ đề:
“Căn hộ của ông có mấy chiếc chìa khoá cửa.”
“Hai, vợ tôi một, tôi một.”
“Thế đã bao giờ khi đi đâu, một trong hai người gửi chìa khoá bà gác cửa hoặc láng giềng chưa?”
Meurant thích im không trả lời, vì hiểu rằng Maigret không nói điều gì không có mục đích, song khó có thể biết được ông ta định đi đến đâu.
“Ổ khoá, hôm đó không khoá chặt, các chuyên gia đã nghiên cứu khẳng định như thế. Tuy nhiên, nếu ông không giết, có kẻ nào đó đã vào nhà ông hai lần, lần đầu lấy bộ complet màu xanh trong tủ buồng ngủ, lần thứ hai để lại bộ quần áo vào chỗ cũ rất cẩn thận để ông không nhận ra điều gì cả. Ông có thừa nhận thế không?”
“Tôi chẳng thừa nhận gì cả. Tất cả những gì tôi biết, chính là vợ tôi…”
“Khi ông gặp bà ấy, thế là đã bảy năm, lúc ấy ông còn độc thân. Tôi có nhầm không?”
“Tôi làm việc suốt ngày, tối tôi đọc sách, đôi khi đi xem phim.”
“Có phải bà ấy bám lấy ông không?”
“Không.”
“Những người khác, những khách hàng của tiệm ăn nơi bà ấy phục vụ, có ve vãn bà ấy không?”
Anh ta xiết chặt hai nắm tay.
“Thế thì sao?”
“Ông phải mất bao nhiêu thời gian khẩn khoản để bà ấy nhận lời đi chơi với ông?”
“Ba tuần.”
“Buổi tối đầu tiên, hai người làm gì?”
“Chúng tôi đi xem phim, rồi cô ấy muốn nhảy.”
“Ông nhảy khá chứ?”
“Không.”
“Bà ấy có nhạo ông không?”
Anh ta không trả lời, mỗi lúc càng bị lạc lõng, bởi câu hỏi cứ xoay đi như chong chóng.
“Tiếp đó, ông đưa bà ấy về nhà mình chứ?”
“Không.”
“Tại sao?”
“Bởi tôi yêu cô ấy.”
“Và lần thứ hai?”
“Chúng tôi lại đi xem phim.”
“Tiếp đó.”
“Đến khách sạn.”
“Tại sao không ngay nhà ông?”
“Bởi tôi sống trong một căn phòng tồi tàn ở cuối sân.”
“Lúc đó ông đã có ý định lấy bà ấy, và ông sợ làm bà ấy thất vọng?”
“Tôi muốn cô ấy làm vợ tôi ngay tức khắc.”
“Ông biết bà ấy đã có nhiều bạn trai chứ?”
“Cái đó chẳng liên quan đến ai. Cô ấy còn tự do mà.”
“Ông đã nói với bà ấy về nghề nghiệp của ông, về cửa hàng của ông chứ? Bởi vì lúc ấy ông đã có một cửa hàng ở ngoại ô Saint Antoine, nếu tôi không nhầm.”
“Chắc chắn là tôi đã nói với cô ấy.”
“Không phải với ý đồ dụ dỗ bà ấy chứ? Lấy ông, bà ấy sẽ trở thành vợ một nhà buôn kia mà.”
Meurant đỏ mặt.
“Giờ thì ông hiểu chính ông là người muốn có bà ấy và để đi tới việc ấy, ông đã không ngần ngại gian dối một chút? Lúc ấy ông mắc nợ chứ?”
“Không.”
“Tiền để dành?”
“Cũng không.”
“Bà ấy không nói với ông mong ước của bà ấy một ngày nào đó sở hữu một tiệm ăn?”
“Nhiều lần.”
“Ông đã trả lời bà ấy thế nào?”
“Có thể.”
“Ông đã có ý định đổi nghề?”
“Không phải vào thời kỳ đó.”
“Mãi sau, hai năm sau khi cưới, khi bà ấy trở lại cái khoản đó và nói với ông trong một dịp đặc biệt, ông mới quyết định như vậy.”
Anh ta bối rối và Maigret thản nhiên tiếp tục:
“Ông ghen. Do ghen, ông buộc bà ấy phải ở lỳ trong nhà, đáng lẽ được làm việc như bà ấy muốn. Lúc đó ông ở tại một căn hộ hai phòng, phố Turen. Tối nào, ông cũng đòi bà ấy cho biết thời gian biểu của bà ấy. Ông có thực sự tin rằng bà ấy yêu ông không?”
“Tôi tin chứ.”
“Không ngầm ý gì chứ?”
“Không bao giờ có chuyện đó.”
“Em trai ông, tôi nghĩ, đến thăm ông luôn?”
“Nó sống ở Paris lúc đó.”
“Anh ta đi chơi với vợ ông chứ?”
“Có lúc chúng tôi đi chơi cả ba người.”
“Không bao giờ hai người họ đi chơi với nhau à?”
“Đôi lần.”
“Em ông ở tại khách sạn, phố Ngôi sao gần Quảng trường đèn mờ, vợ ông có đến gặp tại phòng anh ta không.”
Đau khổ, Meurant gần như hét lên:
“Không!”
“Bà ấy đã bao giờ có chiếc áo pull như người ta vẫn mặc đi trượt tuyết miền núi, một áo pull trắng bằng len thô, đan tay, điểm những hình vẽ con tuần lộc màu đen và nâu không? Đã lần nào vào mùa đông, bà ấy mặc như thế với quần đen bó ống đi chơi không?”
Đôi mày cau lại, anh ta nhìn Maigret chằm chằm dữ dội:
“Ông muốn đi đến đâu?”
“Trả lời đi.”
“Có. Hiếm khi thôi. Tôi không thích cô ấy mặc quần ra đường.”
“Ông có thường gặp phụ nữ ăn mặc như thế trong các phố phường của Paris không?”
“Không.”
“Ông đọc cái này đi, Meurant.”
Maigret chọn một mảnh giấy trong một hồ sơ, bằng chứng của bà chủ khách sạn phố Ngôi sao. Bà ta hoàn toàn nhớ đã có một khách thuê là Alfred Meurant, chiếm khá lâu một phòng thuê tháng, và từ đó, đôi khi chỉ trở lại đấy vài ngày. Anh ta tiếp rất nhiều phụ nữ. Bà ta nhận ra ngay không chút ngắc ngứ nào tấm ảnh người ta đưa cho xem là ảnh của Ginette Meurant. Bà ta còn nhớ cả đã thấy cô ta ăn mặc kỳ cục… đúng như chiếc áo pull và chiếc quần chẽn.
Ginette Meurant gần đây có trở lại phố Ngôi sao không? Trả lời của nữ chủ khách sạn: Cách đây chưa đến một năm, nhân một chuyến qua Paris ngắn của Alfred Meurant.
“Gian trá!” Gaston đẩy tờ giấy đi phản đối.
“Ông có muốn tôi cho ông đọc cả tập hồ sơ không? Ít nhất cũng có ba mươi chứng cứ, tất cả đều của chủ khách sạn, một trong đó là khách sạn phố Saint-Cloud. Em ông có một xe hơi mui trần màu xanh da trời?”
Bộ mặt của Meurant đủ để trả lời.
“Không phải chỉ có anh ta. Ở vũ trường phố Gravilliers, người ta biết vợ ông có mười lăm người tình.”
Maigret, nặng nề, mặt u tối, nhồi một tẩu thuốc mới, lòng không vui vẻ gì khi xoay câu chuyện đến khúc ấy.
“Giả dối!” Người chồng vẫn gầm lên.
“Cô ta đã không yêu cầu ông trở thành vợ ông, cô ta đã không làm điều gì vì chuyện đó. Cô ta đã do dự ba tuần lễ mới đi chơi với ông, có thể chỉ làm ông khỏi khổ tâm. Cô ta đã theo ông đến khách sạn khi ông yêu cầu cô ta, bởi vì, đối với cô ta, điều ấy không quan trọng. Ông đã làm choáng lộn trước mắt cô ta một cuộc sống thoải mái, dễ dàng, sự an toàn, và chút thái quá của một hình thức sống theo lối tư sản nào đấy. Ông đã ít nhiều hứa với cô ta một ngày nào đó, ông sẽ biến giấc mơ của cô ta về một tiệm ăn nhỏ trở thành hiện thực. Rồi do ghen tuông, ông đã cấm cô ấy không được đi làm. Ông không khiêu vũ. Ông không thích xem phim lắm.”
“Tuần nào chúng tôi cũng đi.”
“Thời gian còn lại, cô ấy như bị giam ở nhà một mình. Tối, ông đọc sách.”
“Tôi vẫn luôn mơ ước tự học.”
“Và cô ta lại luôn mơ ước điều khác. Ông bắt đầu hiểu rồi chứ?”
“Tôi không tin ông.”
“Trong khi đó, ông lại tin chắc là đã không nói với ai về cái lọ Tàu. Và, ngày hai mươi bảy tháng hai, ông không mặc bộ complet xanh. Vợ ông và ông là những người duy nhất có chìa khoá căn hộ của ông ở đại lộ Charonne.”
Chuông điện thoại reo. Maigret nhấc máy.
“Tôi đây, vâng…”
Baron ở đầu máy bên kia.
“Chị ta ra ngoài lúc chín giờ, đúng ra là chín giờ kém bốn phút, và đi về phía đại lộ Voltaire.”
“Ăn mặc thế nào?”
“Một váy áo hoa và một áo khoác len nâu, không mũ.”
“Tiếp đó?”
“Vào một nhà buôn đồ dùng đi đường, và mua một vali rẻ tiền. Bây giờ đang quay lại, vali cầm tay, trở về nhà. Trong nhà chắc nóng, vì chị ta mở cửa sổ ra. Thỉnh thoảng tôi lại thấy chị ta đi đi lại lại và tôi cho rằng đang sửa soạn hành lý.”
Vừa nghe, Maigret vẫn vừa nhìn Meurant đang ngờ rằng mình là vấn đề của vợ mình, và tỏ ra lo lắng.
“Không có chuyện gì xảy ra với anh ta chứ?” Thỉnh thoảng Baron cũng lại hỏi vậy.
Maigret lắc đầu.
“Vì có điện thoại ở chỗ bà gác cửa” Baron tiếp tục “Tôi đã gọi một taxi đậu cách khoảng một trăm mét, phòng trường hợp cô ta cũng gọi một chiếc.”
“Tốt lắm. Giữ liên lạc với tôi.”
Và với Meurant.
“Đợi một lát.”
Ông chánh thanh tra vào phòng các thanh tra, nói với Janvier:
“Tốt nhất cậu hãy lấy một chiếc xe cơ quan và đến đại lộ Charonne, cho thật nhanh. Ginette Meurant có lẽ chuẩn bị cuốn gói. Có thể cô ta ngờ chồng mình đã đến đây? Cô ta chắc sợ.”
“Anh ta phản ứng thế nào?”
“Tôi thích không bị rơi vào cảnh ngộ của anh ta.”
Maigret có lẽ thích quan tâm đến chuyện khác.
“Ông có điện thoại, ông chánh.”
“Nối máy đến đây cho tôi.”
Đó là ông Tổng biện lý của Nước Cộng hoà cũng đang cảm thấy lương tâm mình không hoàn toàn yên tĩnh.
“Không có chuyện gì xảy ra chứ?”
“Họ đã về cả nhà họ. Hình như mỗi người ngủ một phòng. Meurant sáng sớm đã ra khỏi nhà và lúc này đang ở trong văn phòng của tôi.”
“Ông đã nói gì với anh ta? Tôi cho rằng anh ta chịu được những lời ông nói.”
“Tôi đang ở phòng các thanh tra viên. Anh ta còn chưa chắc đã tin tôi. Anh ta cãi, nhưng cũng bắt đầu hiểu ra cần phải nhìn thẳng vào sự thật.”
“Ông không sợ anh ta…”
“Khi trở về nhà, anh ta sẽ không thấy vợ mình đâu. Cô ta đang sửa soạn hành lý.”
“Nhưng nếu anh ta gặp lại vợ mình?”
“Sau phương thuốc tôi buộc lòng bắt anh ta phải chữa trị, anh ta không giận vợ mình lắm đâu.”
“Không đến mức tự vẫn chứ?”
“Không, chừng nào anh ta chưa biết sự thật.”
“Ông vẫn định khám phá chứ?”
Maigret nhún vai, không nói gì.
“Khi nào ông có tin gì mới…”
“Tôi sẽ điện thoại cho ông hoặc tôi sẽ qua văn phòng ông, thưa ông Tổng biện lý.”
“Ông đã đọc các báo chứ?”
“Chỉ những đầu đề thôi.”
Maigret dập máy. Janvier đã đi rồi. Tốt nhất nên giữ Meurant lại một thời gian, để tránh cho anh ta thấy vợ mình giữa những đống hành lý ra đi.
Sau đó, anh ta tìm thấy vợ, sẽ ít nghiêm trọng hơn. Thời điểm nguy hiểm nhất sẽ qua. Chính vì thế, Maigret tẩu thuốc vẫn trên miệng, đi đi lại lại, bước một, ít lâu dọc hành lang bớt nóng hơn. Rồi, nhìn đồng hồ, trở lại phòng mình và thấy một Meurant bình tĩnh hơn, vẻ nghĩ ngợi.
“Vẫn còn một khả năng mà ông chưa nói tới” Chồng của Ginette bác bỏ “Ít nhất cũng có một người phải biết bí mật của cái lọ Tàu.”
“Mẹ đứa trẻ phải không?”
“Vâng, Juliette Perrin. Chị ta đến thăm bà Léontine và Cécile luôn. Mà ngay nếu bà già không nói gì với chị ta về chuyện tiền bạc của mình, thì đứa trẻ có thể nhìn thấy…”
“Thế ông tưởng tôi không nghĩ đến điều đó à?”
“Vậy tại sao, ông không tìm theo hướng đó? Juliette Perrin làm việc trong một hộp đêm. Cô ta qua lại với đủ mọi hạng người…”
Anh ta lại bám víu một cách vô vọng vào cái hy vọng ấy và Maigret thận trọng không muốn làm cho anh ta thất vọng. Tuy nhiên đó lại là điều cần thiết.
“Chúng tôi đã điều tra về tất cả những mối liên hệ của chị ta nhưng không có kết quả. Vả lại có một thứ chẳng những Juliette mà người từng một tối hoặc thường xuyên của chị ta không thể nào kiếm ra được mà không gặp một rắc rối nhất định.”
“Thứ gì?”
“Bộ complet màu xanh. Ông có quen mẹ đứa bé không?”
“Không.”
“Ông chưa bao giờ gặp chị ta ở phố Manuel à?”
“Chưa. Tôi chỉ biết mẹ của Cécile làm nghề gái nhảy, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp gặp chị ta.”
“Ông cũng không quên rằng con gái chị ta bị giết chứ?”
Đối với Meurant, thế là một lối thoát mới cũng đã bị khép lại. Anh ta vẫn tìm, vẫn thăm dò, vẫn nhất định không chấp nhận thực tế.
“Vợ tôi có thể nhẹ dạ nói ra.”
“Với ai?”
“Tôi không biết.”
“Và nhẹ dạ cả việc đưa chìa khoá căn hộ của ông cho người ta khi đi xem phim chứ?”
Lại điện thoại. Janvier lần này vừa nói vừa thở trên một chiếc taxi.
“Tôi gọi cho sếp từ chỗ bà gác cửa. Cô nàng đã ra đi cùng với chiếc vali và một chiếc túi nâu căng phồng. May quá, tôi lại ghi được số xe. Xe đó thuộc một công ty của Levallois và sẽ dễ dàng tìm thấy Baron đang đuổi theo trên một taxi khác. Tôi đợi ở đây chứ?”
“Phải.”
“Ông vẫn làm việc với anh ta à?”
“Ừ.”
“Tôi nghĩ, sau khi anh ta về nhà, tôi vẫn ở nguyên đây chứ?”
“Như thế tốt hơn.”
“Tôi sẽ cho xe đậu gần một trong những cổng nghĩa địa. Người ta sẽ ít chú ý tới. Ông định để anh ta đi ngay chứ?”
“Ừ.”
Meurant vẫn cứ đoán và việc cố gắng này làm anh ta nhức đầu. Anh ta đã quá mệt mỏi, cũng đã thất vọng đến cùng rồi, nhưng lại tỏ ra tử tế, thậm chí gần như mỉm cười:
“Người ta đang theo dõi vợ tôi à?”
Maigret gật đầu tỏ ý đúng như vậy.
“Tôi cũng sẽ bị theo dõi chăng?”
Ông chánh thanh tra phác một cử chỉ mơ hồ.
“Tôi không có vũ khí, ông hãy tin như vậy!”
“Tôi biết.”
“Tôi không có ý định giết ai, cũng không tự giết tôi đâu.”
“Tôi cũng biết như vậy.”
“Dẫu sao cũng không phải lúc này.”
Anh ta đứng dậy, lưỡng lự và Maigret hiểu rằng cơn khủng hoảng tinh thần đã đến mức nổ tung và con người này đang kìm nén để khỏi chảy nước mắt, thổn thức, hai tay đấm vào tường.
“Can đảm lên, anh bạn.”
Meurant quay mặt, đi ra cửa, bước chân chuệnh choạng. Ông chánh thanh tra đặt bàn tay lên vai anh ta, nói lửng lơ:
“Khi nào muốn, cứ đến gặp tôi.”
Cuối cùng, Meurant đi ra, không quay mặt lại nói cảm ơn, và cửa đóng lại.
Baron, trên đường bờ sông, đã đợi sẵn để bám theo anh ta.