← Quay lại trang sách

Chương 1 Hoa đào đỏ máu

An Châu, tháng Hai năm Trinh Quán thứ mười một nhà Đường.

Nắng chiều uể oải chiếu xuống mặt đất, làm tan lớp sương giá mỏng đọng lại từ đêm qua. Lý Khác thu quân cờ đen đang cầm vào trong lòng bàn tay, mãi không bỏ xuống, cuối cùng dứt khoát đặt nó trở lại bàn cờ, ngẩng đầu hỏi: “Hôm đó rốt cuộc bệ hạ đã nói gì với huynh?”

Dương Chính Đạo xua tay, tiểu nha hoàn bên cạnh lập tức hiểu ý, cất bàn cờ đi. Hồi lâu, gã mới nói: “Bệ hạ muốn ta ở lại Trường An, tiếp tục xử lý vấn đề thu xếp cho người Đột Quyết.”

“Nhưng huynh lại từ chối?” Lý Khác phủi tơ liễu rơi trên vạt áo, cười nhẹ: “Xưa nay chưa có ai dám trái ý bệ hạ. Những năm qua, ông ấy luôn lạnh nhạt với ta, nhưng lại đối xử với huynh rất tốt.”

Dương Chính Đạo nghe câu nói mang ý ghen tị kiểu trẻ con của y, cũng bật cười theo: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Vị trí của điện hạ trong lòng bệ hạ đương nhiên là đặc biệt. Nhưng bệ hạ muốn đối tốt với ngài thì cũng phải đợi ngài cho cơ hội chứ! Nói cho cùng, vẫn do lòng ngài chưa buông bỏ nổi những chuyện cũ năm xưa thôi.”

Lý Khác không đồng tình nói: “Vậy trong lòng huynh, ta là người như thế nào?”

Dương Chính Đạo đứng dậy, cúi người vái nói: “Điện hạ không nên hỏi Chính Đạo câu này. Kẻ dưới bàn luận bề trên, đó là bất kính, chắc điện hạ hiểu rõ.

Lý Khác lắc đầu cười gượng: “Lúc hai ta mới quen, ta đã nói ngay với huynh nỗi đau chôn giấu ở nơi sâu nhất trong lòng. Biểu huynh, bảy năm qua, ta và huynh cùng ôn văn luyện võ, bầu bạn sớm hôm, khác chi hình với bóng. Từ lâu ta đã coi huynh là tri kỷ, vốn tưởng rằng cũng có thể trở thành tâm giao của huynh, ai ngờ, ta lại không xứng”

“Điện hạ nói như vậy là cố ý muốn làm ta không biết giấu mặt vào đâu sao? Ngài thừa biết không phải như thế mà.”

“Thật sao?” Lý Khác hờ hững nói: “Huynh thật sự nghĩ như vậy sao?”

Kể từ lần đầu tiên gặp Dương Chính Đạo bảy năm về trước, Lý Khác đã luôn gọi gã là biểu huynh, nhưng từ đầu đến cuối Dương Chính Đạo lại luôn giữ một khoảng cách vừa đủ với y. Thoạt đầu có lẽ là gã giữ lại vài phần thăm dò và phòng bị. Về sau thì chỉ là thói quen. Giống như lúc này, gã vẫn chỉ quen nếp mà cung kính nói: “Chính Đạo không dám lừa dối điện hạ.”

“Được! Nếu huynh đã muốn xa cách với ta như thế, ta cũng tuyệt đối không ép buộc huynh!” Lý Khác cảm thấy một cơn giận không tên bốc lên, đứng dậy nói luôn: “Từ nay, ta sẽ lấy thân phận thân vương tôn quý để giao thiệp với huynh, tốt nhất huynh cũng nên cư xử với ta theo lễ của kẻ bề tôi!”

“Khác đệ...” Dương Chính Đạo thấy y nổi giận thật sự, liền vội vàng đuổi theo hai bước, nói: “Cái tính này của đệ mãi chẳng chịu thay đổi gì cả.”

Đang nói chuyện, họ nhìn thấy hộ vệ Quý Ân lúc cúc chạy tới nói: “Điện hạ, công tử, đã chuẩn bị xong xe ngựa rồi ạ.”

Lý Khác ừ một tiếng, bước nhanh về phía trước, bỏ mặc Dương Chính Đạo và Quý Ân ở xa xa đằng sau. Quý Ân nhìn Dương Chính Đạo, như muốn hỏi: Điện hạ lại bị ai chọc giận vậy? Dương Chính Đạo chỉ trả cho hắn một ánh mắt bất lực, ý muốn nói: Dù sao cũng không phải ta.

Nơi Lý Khác và Dương Chính Đạo muốn đến là Từ Tế đường, y quán nổi tiếng trong thành An Châu. Nghe nói, lão chưởng quỹ Hạ Lăng vốn là một thái y cấp thấp trong cung nhà Tùy, đầu thời Trinh Quán dắt người nhà đến An Châu mở tòa Từ Tế đường này. Ba năm trước, Hạ Lăng mắc bạo bệnh qua đời. Chưởng quỹ ngày nay là Hạ Thiệu Nghiêm, con trai duy nhất của Hạ Lăng.

Lúc mới đến An Châu, Lý Khác từng bị cảm lạnh, người đến phủ đô đốc khám bệnh cho y chính là vị Hạ đại phu này. Dần dà, đôi bên cũng quen thuộc. Nhưng trên thực tế, với tư cách là quan đứng đầu An Châu, Lý Khác không tiện qua lại quá nhiều với những nhân vật địa phương nổi tiếng này. Lần này đến Hạ phủ, chẳng qua vì Hạ Thiệu Nghiêm mấy lần gửi thiệp mời, thịnh tình khó chối, nên y mới miễn cưỡng nhận lời.

Mới đến đường Hà Thanh, đã thấy Hạ Thiệu Nghiêm đứng ở cửa phủ nghênh đón. Thấy Lý Khác và Dương Chính Đạo chỉ ngồi xe ngựa bốn bánh phổ thông, lại đều ăn vận như những kẻ sĩ bình thường, Hạ Thiệu Nghiêm biết ý, chỉ chắp tay vái một cái: “Mời hai vị vào trong phủ nói chuyện.”

Vừa vào phủ là thấy một hòn non bộ ở ngoài nhà chính, hai lối đi phía sau hòn non bộ ngoằn ngoèo, hun hút, cuối đường lại chia làm ba lối nhỏ lát đá. Toàn bộ Hạ phủ quanh co phức tạp, hẳn người thiết kế đã phải hao tổn biết bao tâm trí. Sau khi dẫn hai người đến thư phòng ở nhà trong, Hạ Thiệu Nghiêm mới quỳ gối khấu đầu lạy rằng: “Thiệu Nghiêm bái kiến đô đốc, bái kiến tư mã.”

Lý Khác đỡ hờ hắn một cái, mỉm cười nói: “Mời Hạ đại phu đứng dậy. Đâu có lý nào chủ lại hành lễ với khách thế này.”

Hạ Thiệu Nghiêm đứng dậy, lại thi lễ lần nữa, rồi mới lấy ra một cái tráp từ trên giá sách ở đằng sau, lúc mở chỉ thấy bên trong đặt một cây linh chi khổng lồ. Điều đặc biệt là, trên cây linh chi đó có vân rồng hằn sâu. Hạ Thiệu Nghiêm nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Một tháng trước, Thiệu Nghiêm đi hái thuốc trong núi Bạch Triệu ở ngoại ô An Châu, ngẫu nhiên kiếm được vật này. Điềm lành như vậy, Thiệu Nghiêm không dám tự ý dùng, xin đô đốc thay Thiệu Nghiêm dâng lên bệ hạ.”

Lý Khác nghe vậy, không kìm được đưa tay xoa vân rồng ở bên trên, nói: “Đường vân này quả thật do thiên nhiên tạo thành sao? Thật là quý hiếm! Nay thiên hạ thái bình, bệ hạ thấy nó, có lẽ cũng sẽ vui mừng.”

Dương Chính Đạo bưng tách trà ở cạnh tay lên, nhấp một ngụm. Hồi nhỏ ở Đột Quyết, gã đã tận mắt nhìn thấy có người khắc bốn chữ “nghiệp bá mãi hưng” lên một tảng đá lớn, sau đó coi nó như vật thánh, tiến dâng cho Hiệt Lợi khả hãn, vì vậy gã không tin trên đời này thực sự có điềm lành gì cả. Tuy Lý Khác chỉ nhỏ hơn gã một tuổi, lại trải qua chuyện thảm thương như thế, nhưng bản tính vốn đơn thuần, có một số việc chưa chắc y nhìn thấu được.

Có điều, gã cũng không muốn vạch trần ngay lập tức, bởi vì nhất thời gã cũng chưa hiểu tâm tư của tay Hạ Thiệu Nghiêm này cho lắm. Giả như hắn thật sự muốn mượn tay Lý Khác để kiếm chút danh lợi từ triều đình, hoàn toàn có thể quang minh chính đại đến phủ đô đốc dâng vật báu, cần gì phải làm trò thần bí như này, đang không lại khiến người ta tăng thêm mấy phần nghi ngờ.

Dương Chính Đạo động não cực nhanh, tay phải nhất thời không cầm chắc tách trà, bất cẩn làm nước trà bên trong vấy lên vạt áo. Thấy vậy, Hạ Thiệu Nghiêm vội vàng lấy một chiếc khăn gấm từ trong túi ra, đưa cho gã nói: “Tư mã mau lau đi, nước trà này nóng lắm!”

Lý Khác bất giác đưa mắt về bên này, đột nhiên y tiến lên hai bước, quan sát tỉ mỉ chiếc khăn gấm đó, nhất thời mặt trắng bệch như tờ giấy, ánh mắt đầy vẻ kinh ngạc và sợ hãi. Thấy y như vậy, Dương Chính Đạo vừa đỡ y ngồi lại chỗ cũ, vừa hỏi: “Chiếc khăn này của Hạ đại phu có nguồn gốc ra sao?”

Dường như Hạ Thiệu Nghiêm không ngờ rằng bọn họ lại đồng thời quan tâm tới chiếc khăn nhỏ bé này, sững lại giây lát rồi mới nói: “Thật không dám giấu, cái... cái này là của cha để lại cho Thiệu Nghiêm. Không biết có gì không ổn?”

Nghe Dương Chính Đạo hỏi thay câu mình muốn hỏi, Lý Khác gắng sức ổn định lại tâm trạng, lắc đầu nói: “Không có gì. Nhưng ta thấy ba đóa hoa đào kia quả thực đặc biệt.”

Hạ Thiệu Nghiêm thở phào: “Hóa ra là vậy! Rất nhiều người trông thấy nó đều nói thế.”

Có cơn gió nhẹ lùa vào từ cánh cửa sổ khép hờ, thổi bay một tờ giấy vốn được đặt trên bàn xuống đất. Dương Chính Đạo nhanh tay lẹ mắt nhặt lên, thoáng thấy trên đó viết tên một số loại thuốc: thục địa ba tiền [*] , nhân sâm hai tiền, phòng kỷ bốn tiền, bạch tiền một tiền, đương quy năm tiền, lê lộ năm tiền. Nhìn thấy hai vị thuốc cuối cùng, mặt gã thoáng biến sắc. Ngay lập tức, gã nhét đơn thuốc này xuống dưới thanh chặn giấy ở trên bàn như không có gì xảy ra.

Khi hai người về đến phủ đô đốc thì đã là giờ Dậu. Gió chiều êm dịu thổi qua, từ từ hất chiếc áo choàng mà Lý Khác đang mặc lên. Dọc đường, tim y đập loạn xạ khôn kìm, đến khi vào thư phòng, ngồi quỳ trên đệm êm, mới dịu đi đôi chút.

Quý Ân phát hiện ra nét khác thường trên mặt y, đang định lên tiếng thì thấy Dương Chính Đạo lắc đầu với mình, nói: “Mời Khang pháp tào [*] qua đây, điện hạ có chuyện muốn hỏi.”

Lông mày Lý Khác khẽ động, ánh mắt mang theo vài phần an ủi, y chậm rãi nói: “Biểu huynh, những năm qua, đệ toan tính tìm hiểu chân tướng năm xưa, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Thậm chí có lúc đệ còn muốn bỏ cuộc, mãi đến hôm nay, đệ mới lại nhìn thấy họa tiết hoa đào đó.”

[*] - 1 tiền = 5 gram.

[*] - Chức quan quản lý tư pháp.

Khi nói đến hai tiếng “năm xưa”, y siết tay thành nắm đấm, móng bấu vào lòng bàn tay, đau nhói như kim châm. Tên thích khách mặt trùm khăn đen đó dùng kiếm ghì cổ mẹ, nói với cha bằng giọng điệu chế giễu nhưng chắc nịch: Nếu muốn bảo toàn tính mạng của ả, thì dùng mạng mình để đổi. Mẹ không nỡ làm cha khó xử, liền ra sức nắm lấy mũi kiếm sắc nhọn đó rồi tự vẫn. Lý Khác mãi mãi không quên ánh mắt hung ác của tên thích khách đó, và cả hình xăm hoa đào trên cánh tay hắn: Ba đóa hoa đào xếp hàng ngang, màu đỏ đậm, giống như máu dính lên người lúc mẹ nắm lấy tay y. Mẹ thì thầm bên tai y: “Khác nhị, chăm sóc cha con cho tốt.”

Y những tưởng cha sẽ đau lòng giống y. Thế mà, ngay cả lúc khâm liệm mẹ, đứa em trai ruột mới hai tuổi tên là Lý Âm nắm lấy chéo áo y, hỏi y bằng giọng trẻ con bập bẹ: “Sao mẹ lại nằm đó không động đậy gì”, y cũng chưa hề nhìn thấy dù chỉ là một chút buồn thương trong mắt cha. Tim y đau thắt, chẳng kém gì nỗi đau mất mẹ.

Dương Chính Đạo thở dài, đưa chiếc chén rót đầy trà xanh đến trước mặt Lý Khác: “Ta hiểu. Vì vậy ta sẽ giúp đệ.”

Chẳng mấy chốc Quý Ân đã dẫn pháp tào Khang Kiện đến. Tay Khang Kiện này ngoài hai mươi tuổi, dáng người thấp bé, nước da trắng trẻo, mở miệng ra là nói giọng An Châu đặc sệt, Lý Khác nghe cả tháng mới quen dần với cách nói của hắn.

“Điện hạ muốn nói đến Hạ Thiệu Nghiêm?” Khang Kiện ngồi co gối đối diện với Lý Khác, biểu cảm trên mặt vô cùng phong phú, thiếu điều muốn khoa chân múa tay nhảy dựng lên: “Người này hạ quan biết rõ. Ngài đừng thấy hắn gia cảnh giàu có, dung mạo đường đường mà lầm, hai mươi tám tuổi đầu rồi mà vẫn chưa lấy vợ đấy! Có người nói, hắn từng có một người vợ còn chưa qua cửa, nhưng cô gái đó không có phúc, mới mười lăm, mười sáu tuổi đã ngọc nát hương tan. Cũng có người bảo, hắn mắc bệnh khó nói, không muốn làm lỡ dở con gái nhà người ta. Nhưng mà, hạ quan trộm cho rằng còn có nguyên nhân khác...”

Khang Kiện nói cực nhanh, mồm miệng lại không được trơn tru cho lắm, sau một tràng dài, Lý Khác cùng lắm cũng chỉ nghe rõ sáu, bảy phần, đành bảo: “Ngươi nói chậm thôi, không vội.”

Khang Kiện gãi đầu, hạ giọng: “Dạo trước, hạ quan nhìn thấy có một tiểu lang quân trông rất tuấn tú nhiều lần ra vào Từ Tế đường. Vì vậy, hạ quan ngờ rằng... Điện hạ hiểu chứ?”

Lý Khác vừa mới uống một ngụm trà xanh, còn chưa kịp nuốt hết xuống, đột nhiên nghe thấy hắn hỏi vậy, liền ho sặc sụa mãi không thôi. Dương Chính Đạo thật hết cách với tay đồng liêu tự xưng là “ma xó”, mà trí tưởng tượng lại đi xa hơn cả chân trời này, không nhịn nổi phải mở miệng nói: “Điện hạ muốn hỏi là, thường ngày Hạ Thiệu Nghiêm qua lại với những người nào? Còn nữa, Hạ Lăng cha hắn chết như thế nào?”

Khang Kiện nhìn Dương Chính Đạo, lại trông sang Lý Khác khó khăn lắm mới lấy lại hơi, thở phào một cái nói: “Sao điện hạ không nói sớm? Điều này hạ quan cũng rõ. Hạ Thiệu Nghiêm là kẻ si mê nghề y, thường ngày ngoại trừ trau dồi y thuật với mấy vị đại phu già lão luyện trong thành An Châu, cũng không thấy hắn qua lại thân mật với những người khác, nên hạ quan mới càng tò mò về tay tiểu lang quân mặt trắng đó! Về phần Hạ Lăng, nghe nói là mắc bạo bệnh rồi đột ngột qua đời. Bây giờ chủ nhân của Hạ phủ, ngoài Hạ Thiệu Nghiêm thì chỉ còn chú hắn là Hạ Kỷ. Hạ Kỷ là tay ham mê tửu sắc nổi tiếng gần xa, không thân thiết với Hạ Lăng và Hạ Thiệu Nghiêm cho lắm.”

Lý Khác hơi thất vọng khẽ cau mày lại, vì thực sự y không thể tìm ra điểm đặc biệt nào của nhà họ Hạ qua lời Khang Kiện kể. Lẽ nào họa tiết hoa đào trông giống hệt hình xăm trên cánh tay tên thích khách năm xưa chỉ là trùng hợp thôi sao? Chân tướng y rất muốn tìm hiểu đó chẳng lẽ mãi mãi không làm rõ được sao?

Y bèn đứng dậy, thắp một cây nến chỉ còn phân nửa trên bàn. Dưới ánh nến sáng rực, khuôn mặt y lại hơi tái. Vốn dĩ y vô cùng khôi ngô thanh tú, lại văn võ song toàn, giống hoàng đế hồi trẻ đến tám phần. Chỉ là tâm tư của y quá nặng, lại không muốn giao du với triều thần cho lắm, thêm nữa thái độ của hoàng đế đối với y cũng luôn nóng lạnh thất thường, có thể đích thân dạy y cưỡi ngựa bắn tên, nhưng cũng có thể lệnh cho y làm đô đốc ở An Châu xa xôi chỉ bằng một tờ chiếu thư. Vì vậy, thân phận Ngô vương này của y trong lòng các triều thần hình như không quá quan trọng, song cũng không thể bị coi thường.

“Xin mượn bút mực của điện hạ một chút” Dương Chính Đạo đã đứng trước mặt Lý Khác tự bao giờ, lấy một chiếc bút từ trong ống tre ra, chấm mực rồi viết lên tờ giấy trên bàn mấy chữ: Thục địa, nhân sâm, phòng kỷ, bạch tiền, đương quy, lê lô.

Lý Khác nhìn những chữ tiểu khải nhỏ xíu mà đẹp đẽ dưới bàn tay Dương Chính Đạo, hồ nghi nói: “Đây là cái gì?”

Dương Chính Đạo nghiêm mặt: “Đây là một đơn thuốc rất kỳ lạ mà ta phát hiện ra trên án thư của Hạ Thiệu Nghiêm. Tuy ta không hiểu nhiều về công hiệu của dược liệu, nhưng cũng biết các phương thuốc đều chú trọng việc hỗ trợ lẫn nhau, mục đích nhắm tới cũng phải tương đồng và nhất quán. Nhưng đệ xem, thục địa là vị thuốc tốt để bổ máu; mà phòng kỷ tính hàn, chủ trị nóng sốt; còn đương quy thì lại là vị thuốc mang tính nhiệt; song điều đáng sợ hơn là, hai vị thuốc nhân sâm và lê lô vốn dĩ tương khắc, nếu không cẩn thận uống vào, rằng sẽ nguy đến tính mạng.”

“Hạ Thiệu Nghiêm thân là danh y, đáng lẽ sẽ không phạm phải sai lầm sơ đẳng như vậy. Đơn thuốc này thật khiến người ta phải suy ngẫm.” Lý Khác vuốt đi vuốt lại đơn thuốc, cuối cùng trong lòng cũng nhen lên đôi chút hy vọng. Thế là y quay đầu nói với Khang Kiện: “Trưa mai, mời Hạ Thiệu Nghiêm đến phủ một chuyến, bản vương có chuyện quan trọng muốn hỏi hắn.”

Phòng ngủ của Lý Khác nằm ở hướng chính Đông của phủ đô đốc An Châu. Hai cây hòe già ở bên ngoài rất tươi tốt. Ánh trăng hắt xuống qua kẽ lá, để lại vài cái bóng loang lổ trên mặt đất.

Ngọn nến sắp cháy tàn tỏa ra ánh sáng lờ mờ, Lý Khác bỏ bút xuống, dụi đôi mắt hơi sưng mỏi. Ba viên ngọc mỡ dê y đeo trên cổ tay hơn mười năm qua ngày càng trơn mịn và trong suốt. Y ngẩng đầu, thấy có một đôi tay đang thay ngọn nến tàn cho y, căn phòng bỗng chốc sáng sủa hơn rất nhiều.

“Vương phi đi nghỉ trước đi! Đã muộn rồi.” Lý Khác nhìn khuôn mặt có phần mệt mỏi của người con gái trước mặt, dịu dàng nói.

Thư Yểu cầm lấy chiếc áo choàng trong tay tiểu nha hoàn Tử Đằng, khoác lên mình Lý Khác, nói nhỏ: “Thần thiếp muốn ở bên điện hạ.”

Không lâu sau khi Lý Khác chào đời, hoàng đế đã làm chủ, chọn cháu gái của Trực Các tướng quân Hàn quốc công Dương Sĩ Quý nhà Tùy là Thư Yểu làm vợ y. Song phải đến khi động phòng, Lý Khác mới lần đầu nhìn thấy nàng vương phi lớn hơn y hai tuổi, đã đính ước từ nhỏ này.

Kể từ khi thành hôn đến nay, không thể bảo là Lý Khác thích nàng, đương nhiên cũng không thể bảo là y ghét. Y gọi nàng là vương phi, nàng xưng hô với y là điện hạ như bình thường, hai người kính trọng nhau như khách, song luôn mang theo vài phần xa cách khách sáo quá mức. Nhưng thế này không phải rất tốt sao? Mẹ toàn tâm toàn ý yêu cha bằng cả sinh mệnh, cuối cùng thu được kết cục thế nào đây? Một chữ “yêu” này, nghe xong rồi thôi, đừng bao giờ cho là thật.

Thư Yểu thấy Lý Khác ngẩn ngơ với tờ giấy trước mặt, cũng không cầm lòng được liếc nhìn, vừa nhìn vừa lẩm nhẩm: “Đất quen thuộc (thục). thục địa...”

Tuy Thư Yểu xuất thân tôn quý, giơ tay nhấc chân đều mang phong thái của tiểu thư khuê các, nhưng lại không biết chữ. Lý Khác từng dạy nàng nhận biết một số chữ, song thấy nàng không hào hứng cho lắm, y cũng nhanh chóng bỏ cuộc. Giờ nghe giọng như trẻ con bập bẹ học nói của nàng, y không khỏi cảm thấy hơi buồn cười. Nhưng trong thoáng chốc, một tia sáng lóe lên trong đầu, y bỗng dưng thấy hơi vui lên. Thế là y đứng dậy, xoay cần cổ ê ẩm, rồi lại nói với Thư Yểu: “Trong bếp còn gì ăn không? Bụng ta giờ đói meo rồi.”

“Điện hạ muốn ăn thì dĩ nhiên là có.” Thư Yểu mỉm cười. Dung mạo nàng tuy không xuất chúng, nhưng khi cười cũng duyên dáng hẳn lên, “Hôm nay Tử Đằng vừa mới đi mua một ít bánh mô mô thịt tươi ở Vinh Khánh trai nổi tiếng nhất An Châu, làm nóng lên là ăn được ngay.”

“Mô mô? Đó là cái gì?” Lý Khác thắc mắc.

Thư Yểu nhất thời không biết giải thích thế nào. Tử Đằng ở bên cạnh lanh miệng nói: “Bẩm điện hạ, mô mô là cách gọi ở An Châu, chính là màn thầu ạ.”

Lý Khác nhìn sang Thư Yểu, thấy trên mặt nàng thoáng hiện lên một biểu cảm kỳ lạ. Y muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng vẫn gật đầu sai Tử Đằng: “Vậy mau mang mấy cái lên đây đi! Vương phi cũng ăn cùng ta một chút.”

Giờ Tị hôm sau, Hạ Thiệu Nghiêm đến đợi trong Minh Đức đường của phủ đô đốc từ sớm. Lý Khác thấy hôm nay Hạ Thiệu Nghiêm chỉ mặc một chiếc áo rộng màu tro xám mộc mạc, có hoa văn chìm hình chim công, liền tò mò nói: “Trước đây Hạ đại phu luôn thích mặc quần áo hai màu xanh đỏ, hiếm khi thấy mặc màu này.”

Hạ Thiệu Nghiêm nhích cái đệm mềm dưới đầu gối đang quỳ về phía trước một chút, nói: “Đô đốc không biết, hôm nay chính là ngày giỗ ba năm của cha tôi.”

“Thật sao?” Lý Khác lại quan sát Hạ Thiệu Nghiêm từ trên xuống dưới một lượt, thấy vẻ mặt hắn không có gì khác thường, liền nói, “Thật trùng hợp, lần này mời Hạ đại phu qua phủ cũng chính vì chuyện của lệnh tôn.”

Đôi mày kiếm của Hạ Thiệu Nghiêm khẽ động: “Không biết đô đốc muốn ám chỉ điều gì?”

Lý Khác đi thẳng vào vấn đề: “Nguyên nhân thật sự về cái chết của lệnh tôn.”

Hạ Thiệu Nghiêm như bị người ta nhìn thấu tâm sự sâu kín, trái tim khẽ run lên không kìm chế được, nhưng ngoài mặt lại không hề biến sắc, mà tỏ vẻ kinh ngạc vô cùng hợp lý: “Ba năm trước cha tôi mất vì bệnh phổi, rất nhiều người ở An Châu đều biết, đô đốc cảm thấy có gì không ổn sao?”

Đang nói chuyện, chợt có mấy tiếng gõ cửa cốc cốc vang lên. Lý Khác đáp lại một tiếng, liền thấy Tử Đằng bưng một chiếc khay bước vào. Tử Đằng tết tóc hai búi gọn gàng, mặc áo váy màu tím thẫm có cổ hình trái đào, trông dáng người càng nhỏ nhắn xinh xắn. Cô đi đến trước chiếc bàn thấp, cúi mình đặt ấm và chén trà trong khay xuống. Lý Khác nhấp một ngụm, nghiêng đầu hỏi: “Sao lại là nước trắng?”

“Vương phi nói gần đây tì vị của điện hạ không khỏe, không nên uống trà, vì vậy mới kêu nô tì chuẩn bị ấm nước trắng này.” Tử Đằng vừa nói vừa rót đầy nước vào chén của Hạ Thiệu Nghiêm.

Hạ Thiệu Nghiêm gật đầu cảm ơn.

Lý Khác nhìn Hạ Thiệu Nghiêm, lại quay sang Tử Đằng nói: “Ngươi lui xuống trước đi.”

Thấy Tử Đằng đã đi xa, Lý Khác mới lấy đơn thuốc nọ từ trong ống tay áo ra: “Ta nhìn thấy đơn thuốc này ở trên thư án của ngươi. Giấy đã ố vàng nhăn nhúm, xem ra người thường xuyên xoa vuốt và đọc nó trên tay. Là một đại phu, ngươi không thể kê ra một đơn thuốc có thể sẽ hại đến mạng người như thế. Rõ ràng nó là của người khác để lại cho ngươi. Nếu là người bình thường thì ngươi không thể nào để tâm như vậy. Dương tư mã nghiên cứu khá sâu về mực cổ, thấy y bảo rằng, dấu mực trên đơn thuốc đó ít nhất đã được ba năm, mà cha ngươi đã qua đời chính vào ba năm trước...”

Còn chưa đợi Lý Khác nói xong, Hạ Thiệu Nghiêm đã vội vàng đứng dậy, rồi lại quỳ gối hành đại lễ với y. Trước kia tuy hắn cũng tràn đầy niềm kính trọng với vị đô đốc An Châu mười chín tuổi này, nhưng đó chỉ là sự sợ hãi đối với trưởng quan, với hoàng quyền mà thôi. Song giờ đây, hắn đã thực sự khâm phục sâu sắc con người này.

Giọng hắn trầm thấp, như đang tìm lại những ký ức đã bị thời gian chôn vùi: “Đô đốc nói không sai, đơn thuốc này đúng là cha tôi viết. Cha tôi xưa nay vô cùng khỏe mạnh, nhưng sáng sớm hôm ấy, khi Thiệu Nghiêm đến thư phòng của cha để thỉnh an thì người đã nằm đó bất động không còn thở nữa, thứ cầm trong tay chính là chiếc khăn hoa đào mà đô đốc đã thấy hôm qua. Thiệu Nghiêm đã kiểm tra kỹ thi thể cha, nhưng chẳng phát hiện ra điều gì khác thường. Nếu có, thì chỉ gói gọn trong bốn chữ: Không bệnh mà chết. Dù Thiệu Nghiêm hết sức đau buồn, nhưng cũng chỉ có thể bắt tay lo hậu sự cho cha. Song khi chôn cất xong, ngay hôm sau tôi lại tìm thấy đơn thuốc cha tôi viết này ở trong quyển sách y mà mình thường đọc.”

Lý Khác gật đầu, sờ ba viên ngọc mỡ dê trên tay theo thói quen, ánh mắt thâm trầm: “Hạ đại phu, biết tại sao ngươi tốn tận ba năm mà vẫn không nhìn ra đơn thuốc này có gì đặc biệt không? Đó là vì ngươi quá giỏi y thuật, cũng đã nghiên cứu quá sâu công hiệu và đặc tính của từng vị thuốc, nhưng lại bỏ qua ý nghĩa dễ hiểu nhất trong tên gọi của những dược liệu này.”

Hạ Thiệu Nghiêm hơi cụp mắt xuống, lắc đầu với vẻ nghi hoặc. Lý Khác chỉ tay vào đơn thuốc nói: “Thục địa nghĩa là đất quen thuộc (thục). Nhân sâm, sâm là sao Sâm, chỉ người chí thân [*] . Phòng kỷ nghĩa là phòng bị bản thân. Bạch tiền nghĩa là trước khi sáng bạch. Đương quy chữ quy có nghĩa quay về, nghĩa là chết. Còn lê lô, thư phòng của cha người tên là Li Lu [*] nhỉ. Có lẽ ông ấy muốn ám thị với ngươi, tính mạng của ông ấy đang bị uy hiếp. Sau đó, quả nhiên ông ấy đã chết một cách không rõ ràng trước rạng sáng ở thư phòng Li Lư mà ông ấy hay ở lại.

“Chuyện này thật không thể tưởng tượng nổi!” Giọng Hạ Thiệu Nghiêm cao hẳn lên, có lẽ ý thức được đó là hành vi thất lễ, hắn vội vàng uống hớp nước để giấu lúng túng: “Bình thường cha tôi đối đãi với mọi người rất tốt, đâu có kẻ thù gì? Huống hồ nếu thực sự gặp nguy hiểm, thì người hoàn toàn có thể nói với tôi, cần gì phải làm chuyện thần bí như vậy chứ?”

[*] - Chữ sâm trong nhân sâm cũng có nghĩa là sao Sâm, trong tiếng Trung lại đồng âm với chữ thân trong thân thuộc.

[*] - Li Lư và lê lô đồng âm trong tiếng Trung.

Dường như Lý Khác chẳng để tâm đến sự thất lễ của Hạ Thiệu Nghiêm, mặt y toát ra vẻ trầm ổn không tương xứng với tuổi. Y đứng dậy, đưa ánh mắt về phía vạt nắng rực rỡ nơi chân trời xa xôi, lấy tay chỉnh lại vạt áo đã hơi nhăn nhúm: “Cái này... thì cần Hạ đại phu tự mình về nhà suy nghĩ kỹ hơn. Bản vương chỉ có thể nói cho ngươi những hoài nghi trong lòng mình thôi. Không có chứng cứ, cũng không tiện nhúng tay.”

Hạ Thiệu Nghiêm nhìn bóng lưng cao lớn thẳng tắp của Lý Khác, do dự giây lát, cuối cùng vẫn lên tiếng: “Thiệu Nghiêm biết lời này là mạo phạm, nhưng vẫn muốn hỏi, tại sao đô đốc phải hao tốn tinh lực quan tâm tới việc nhà của Thiệu Nghiêm như vậy?”

“Đến lúc ngươi làm rõ việc nhà, thì có lẽ đó không chỉ là việc nhà của ngươi nữa rồi.” Lý Khác ngửi mùi thơm thoang thoảng phát ra từ song cửa sổ được chạm trổ từ gỗ trầm hương thượng hạng, thản nhiên hờ hững buông ra một câu khiến người ta phải trăn trở suy nghĩ.

Lúc Hạ Thiệu Nghiêm rời đi thì đã là giữa trưa. Quý Ân mang bữa trưa đã được hâm nóng ba lần đến, nhưng thấy Lý Khác vẫn cầm bút viết nhoay nhoáy trước bàn, hắn không kìm được phải lên tiếng: “Điện hạ dùng cơm trước đi ạ. Hạ đại phu nói rồi, tì vị của ngài không tốt phần nhiều là do không ăn uống hẳn hoi.”

Quý Ân bằng tuổi Lý Khác, nhưng lời nói ra lại giống hệt giọng điệu của bậc trưởng bối. Lý Khác nhúng chiếc bút trên tay vào trong bình lưu ly đựng đầy nước trắng rồi rửa sạch, sau đó đặt lên cái gác bút. Thấy vẻ mặt nghiêm túc của Quý Ân, Lý Khác không nhịn được cười: “Gần đây ngươi nói nhiều thật đấy!”

Quý Ân nghe y nói vậy, liền lanh trí đặt bát đũa trước mặt y, rồi gắp mấy món y thích ăn là chân ngỗng, lưỡi vịt, nấm hương, thăn bò, vừa gắp vừa nói: “Hôm nay đầu bếp già Hà Nhị xin nghỉ, người đứng bếp là đồ đệ Vương Phú của ông ta, chẳng hay điện hạ có thấy ngon miệng không ạ?”

Lý Khác nếm thử hai miếng, gật đầu nói: “Cũng tàm tạm.”

Quý Ân không nói nữa, chỉ im lặng đứng hầu ở một bên. Hắn và anh trai Quý Thành đều đi theo Lý Khác từ nhỏ. Theo hắn thấy, vị thân vương đô đốc Lý Khác này thật quá dễ hầu hạ. Có điều, ý nghĩa của cái dễ này, thay vì nói Lý Khác tốt tính, chẳng bằng bảo là dường như y chẳng để tâm đến mọi việc thì đúng hơn. Ví dụ như hồi ở Trường An, ngay cả một quan kinh [*] lục phẩm cũng rất chú ý đến chi phí ăn mặc, nhưng Lý Khác thì lại chưa bao giờ dặn dò họ một câu nửa lời về những việc này. Hắn muốn biết, thứ có thể khuấy động tâm can Lý Khác trên đời này rốt cuộc sẽ là gì? Nhưng hắn không dám dò xét thực sự, thậm chí không cả dám nghĩ kỹ.

[*] - Ý chỉ quan lại làm việc ở kinh đô, để phân biệt với quan chức địa phương.

“Được rồi, dọn xuống đi.” Quý Ân đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì bị một câu nói này của Lý Khác kéo về, hắn định trả lời thì lại nghe Lý Khác nói: “Dương công tử vẫn chưa về sao?”

Quý Ân vừa đặt bát đĩa vào trong mâm vừa nói: “Từ sáng đến giờ ti chức không thấy Dương công tử, có lẽ đã ra ngoài làm việc gì đó rồi.”

Lý Khác gật đầu, không nói nữa. Lúc Quý Ân bưng mâm ra ngoài, Lý Khác nhìn về phía mặt trời đã chếch bóng, sắc trời cũng hơi âm u, không khỏi nhỏ giọng làu bàu: “Cái thời tiết quái quỷ ở An Châu này, sao vừa bảo đổi đã đổi ngay rồi!”

Sắc trời xám xịt khiến người ta chán ngán này kéo dài suốt cả buổi chiều. Tuy đã đến An Châu được vài tháng, nhưng Lý Khác vẫn chưa quen lắm với khí hậu kỳ quái thay đổi thất thường này. Có đôi lúc, y cũng nhớ đến ánh nắng dịu dàng ấm áp trong thành Trường An, giống như nụ cười tươi tắn của mẹ khi vuốt má y hồi nhỏ. Lý Khác cầm thanh bảo kiếm Thanh Hồng có chạm hoa văn kỳ lân ở trên giá kiếm lên. Năm đó, y tận mắt thấy mẹ dùng một mũi kiếm sắc nhọn như thế này tự cắt cổ mình không chút do dự. Vò nát hoa đào, cánh rơi đầy đất. Y đã mất đi sự dịu dàng sâu kín nhất trong trái tim mình, cũng mất đi quãng thời gian tươi đẹp vô tư của tuổi thiếu niên như vậy đấy.

Lý Khác rút bảo kiếm. Y nhìn mắt mình trên thanh kiếm, đôi mắt đó giống hệt cha y, song cũng chỉ là giống mà thôi. Tay phải y nắm chặt chuôi kiếm, vận hết sức đâm ra, tiếp đó lại múa một trận như mưa dông gió giật, như rồng thần lui tới, làm mây rắc mưa. Từng chút sức mạnh của y đều tập trung trên kiếm, thanh kiếm đó tựa như một bộ phận của cơ thể y, liên kết chặt chẽ với từng tấc da tấc thịt.

Chợt cảm thấy có một bóng người vụt qua bên cạnh, Lý Khác cảnh giác đâm kiếm sang. Dương Chính Đạo nghiêng người, linh hoạt né một chiêu kiếm này. Gần như cùng lúc, gã cũng rút thanh trường kiếm đeo ở bên hông ra, nhanh chóng nghênh tiếp.

Hai người đều là cao thủ dùng kiếm, mỗi một chiêu kiếm đánh ra đều mạnh mẽ dứt khoát, không chút chần chừ dây dưa. Tiếng trường kiếm chạm nhau leng keng chói tai, ngay cả chim chóc cũng chẳng dám lại gần. Trong chớp mắt, lá trên cành cây bên cạnh rụng sạch, rơi lả tả lên quần áo của hai người. Dương Chính Đạo đưa tay trái khẽ gạt lá cây dính trên mép tóc, tay phải nắm chặt chuôi kiếm, người hơi nghiêng về phía trước, dùng động tác gập gối xoạc chân để tránh chiêu kiếm đâm thẳng của Lý Khác, rồi đưa tay khẽ túm chéo áo y.

Dương Chính Đạo bỗng đứng thẳng người dậy, tua kiếm dài lướt qua trước mắt Lý Khác, Lý Khác không khỏi phân tâm, liếc theo tua kiếm. Chính vào chớp mắt phân tâm đó, Dương Chính Đạo lùi lại, vung kiếm đâm về phía ngực Lý Khác, khi chỉ còn cách ngực y hai tấc thì kịp thời thu lại.

Lý Khác thở hắt ra, đặt kiếm Thanh Hồng lên trên bệ đá bên cạnh, khó chịu nói: “Dương công tử có thể thu kiếm muộn hơn một chút.”

Dương Chính Đạo cúi người nhặt bao kiếm dưới đất lên, phản bác: “Rõ ràng là tự đệ phân tâm. Nếu thực sự gặp phải kẻ xấu thì đã đoạt mạng đệ trong khoảnh khắc rồi.”

“Thật sao?” Lý Khác nhướng mày nói: “Nếu thực sự là kẻ xấu, ta sẽ không cho hắn nhiều cơ hội như thế, ngay chiêu kiếm đầu tiên ta đã có thể đâm vào yết hầu hắn, huynh có tin không?”

Dương Chính Đạo nhìn vẻ mặt nghiêm túc của y, không khỏi phì cười: “Tin! Sao lại không tin? Ngô vương điện hạ nói gì ta cũng tin.”

Hai người bước vào nhà, chợt có một tiếng sấm xuân vang lên. Trong khoảnh khắc, mưa lớn đổ xuống như trút nước, chỉ một chốc, trên nền đá xanh đã nổi lên rất nhiều bọt nhỏ li ti. Cơn gió ngày xuân vẫn mang theo hơi lạnh se se của mùa đông, táp cành cây bên ngoài nghiêng ngả.

Dương Chính Đạo giở cuốn sách trên bàn mà Lý Khác vừa xem, nói: “Khác đệ còn đọc cả huyện chí các huyện ở An Châu à? Dựa vào trí nhớ của đệ, không phải đã thuộc như cháo chảy từ lâu rồi sao?”

Lý Khác trừng mắt với gã: “Ta là người, không phải thần, hai mươi quyển sách đấy! Dăm bữa nửa tháng có thể đọc xong sao? Huynh đề cao ta quá đấy.”

Dương Chính Đạo chẳng để tâm đến lời trách móc của y, vẫn tiếp tục nói: “Còn không phải sao, bệ hạ chẳng thường nói đệ giống ông ấy, ba tuổi biết chữ, bốn tuổi thuộc làu Vương chế [*] , năm tuổi có thể làm văn, thiên phú khác thường còn gì!”

Bệ hạ ư? Lúc đó, cha y chưa phải hoàng đế, mới là Thiên Sách thượng tướng chiến công hiển hách. Nhưng trong mắt y hồi nhỏ, ông ấy chỉ là một người cha rất tốt với y. Mẹ nói, lúc y chào đời, cha còn đang đánh trận bên ngoài. Đến khi cha trở về ôm lấy cơ thể bé bỏng mềm mại của y, y lại biết u ơ gọi một tiếng “cha”. Đó là sự ăn ý ngầm giữa những kẻ máu mủ ruột rà, vậy mà nay lại chỉ còn sự gượng gạo trong những lời khách sáo đường hoàng đứng đắn.

[*] - Một thiên trong sách Lễ ký, viết về chế độ, phép tắc cai trị thiên hạ của quân vương.

Lý Khác gượng cười, nhanh chóng giấu đi nỗi bơ vơ của bản thân, đổi chủ đề: “Không nói mấy chuyện đó nữa. Cả ngày hôm nay huynh đã đi đâu?”

Dương Chính Đạo tháo chuỗi vòng bằng gỗ tử đàn lá nhỏ trên cổ tay xuống, cầm chơi và nói: “Ta đi uống trà ở Thẩm gia trà lâu đối diện Từ Tế đường, qua một tuần trà, quả nhiên nhìn thấy Hạ Thiệu Nghiêm tiễn tay tiểu lang quân mặt trắng mà Khang Kiện nói đó ra ngoài cửa, chiếc khăn gấm mà tay tiểu lang quân đó cầm đúng là cũng có ba đóa hoa đào. Thế là ta liền lặng lẽ bám theo sau hắn, kết quả lại khiến ta vô cùng kinh ngạc.”

“Ta còn tưởng rằng biểu huynh không thèm làm những chuyện rình mò theo dấu này cơ!” Dương Chính Đạo còn chưa nói xong, Lý Khác đã ngứa miệng lên tiếng.

Dương Chính Đạo thấy y bóp méo trọng điểm trong lời mình nói, cũng chẳng buồn để ý, chỉ lo nói tiếp: “Ta thấy tay tiểu lang quân đó vào Mộ An các, hỏi tiểu nô trông bên ngoài thì mới biết, người này hóa ra là con gái, hơn nữa còn là nha hoàn bên cạnh Triêu Nhan cô nương, một danh kỹ của Mộ An các cũng có chút tiếng tăm quanh đây.”

Nghe đến mấy câu cuối, Lý Khác mới thu lại vẻ mặt đùa cợt, hơi nhoài người về phía trước, chậm rãi nói: “Một nha hoàn lầu xanh nhiều lần cải nam trang, ra vào nhà của kẻ si mê nghề y, thực là thú vị. Tức là lời đồn vì vợ chưa cưới qua đời nên Hạ Thiệu Nghiêm nhiều năm trời vẫn chưa kết hôn, xem ra cũng hoàn toàn vô căn cứ. Hơn nữa ta luôn canh cánh trong lòng về chiếc khăn gấm trong tay Hạ Thiệu Nghiêm, lúc đó hắn ấp a ấp úng nói đó là đồ vật của cha hắn, nhưng nhìn đường kim thì chắc chắn từ bàn tay phụ nữ mà ra, đến giờ nghĩ lại, cũng thấy vô cùng đáng ngờ.”

Dương Chính Đạo đeo lại chuỗi vòng vào cổ tay mình, nói: “Nếu vậy, tiền uống trà ở Thẩm gia trà lâu hôm nay, còn cả tiền đút cho tiểu nô của Mộ An các, phải chăng nên thanh toán với đô đốc An Châu?”

“Đô đốc An Châu cũng không có tiền.” Lý Khác lấy ra mấy đồng xu từ trong hầu bao màu tử đàn thêu hoa hải đường đeo ở hông, đặt lên bàn nói, “Muốn tiền thì có thể tìm Lưu lục sự, ông ta phụ trách tiền bạc của quan.”

Dương Chính Đạo uống ngụm nước trắng trong cốc, đứng dậy bước hai bước ra ngoài.

“Vội đi thế à!” Lý Khác thấy gã định đi thật, liền la lên ngăn cản, “Hôm nay Lưu lục sự xin nghỉ đi uống rượu đầy tháng cháu trai nhà cậu hai của ông ta, ngày mai huynh đi cũng chưa muộn.”

Dương Chính Đạo day huyệt thái dương hơi ê ẩm của mình, thấy mưa bên ngoài đã tạnh, liền xoay người nói: “Ta đâu sợ đệ ăn quỵt! Tranh thủ còn chưa đến giờ giới nghiêm, ta định đi Mộ An các lần nữa, tìm gặp trực tiếp Triêu Nhan cô nương đó để thăm dò ý tứ. Đệ có muốn đi cùng không?”

Nếu bị ngôn quan [*] phát hiện đô đốc An Châu nhậm chức chưa đầy nửa năm đã cùng tư mã trong phủ đi chơi lầu xanh, tìm cô nương đầu bảng, mỗi người không dâng một bản tấu sớ lên bệ hạ thì mới là chuyện lạ! Nghĩ đến đây, Lý Khác bật cười vô cớ. Dương Chính Đạo tò mò xem xét biểu cảm của y, nhưng thực sự không nghĩ ra sao y lại cười. Thế là Dương Chính Đạo lại hỏi một câu: “Rốt cuộc đệ có muốn đi không?”

“Đi chứ! Giờ chúng ta đi luôn!”

Hoàng hôn là lúc thành An Châu náo nhiệt nhất, hai bên đường Hải Yến thuộc khu vực chính của thành đầy những người bán hàng rong đang rao hàng khản cả cổ. Lý Khác đội mũ da báo màu đen, mặc một bộ áo bào gấm xẻ hồng màu đỏ tươi, có hình đầu gấu và chữ triện kỳ lân, ở thắt lưng đeo một con rùa vàng sống động như thật, khí chất ngời ngời ấy không khỏi khiến những cô nương chưa kết hôn ở trên đường vén mũ mạng lên len lén nhìn theo. Dương Chính Đạo nói nhỏ bên tai Lý Khác: “Lần sau đệ ra ngoài, thử hỏi mượn người làm vườn trong phủ một chiếc áo dài vải gai, xem họ có còn nhìn đệ nữa không”

Lý Khác ngoảnh đầu, nào ngờ chạm phải ánh mắt tình tứ dịu dàng của một thiếu nữ, vội vàng nhìn lảng đi, lại vừa khéo trông thấy mặt nghiêng góc cạnh đang cười tủm tỉm của Dương Chính Đạo. Đột nhiên y nhớ hồi nhỏ có nghe nhũ mẫu nói rằng, trong hoàng thất triều Tùy, nam nhân ai nấy đều ấm nhuần như ngọc, nữ nhân ai nấy đều xinh đẹp cương nghị.

[*] - Chức quan có nhiệm vụ can gián vua và đàn hặc các quan.

Hồi đó, khi Đậu Kiến Đức kiêu hùng đánh chiếm được Giang Đô, ông ta nhìn thấy trưởng nữ của Tùy Dạng Đế là Nam Dương công chúa, dù đã ba mươi tuổi nhưng vẫn phong tư tài mạo tót vời, lòng muốn giết đứa con duy nhất của nàng cũng mềm đi vài phần. Dương Chính Đạo là hậu duệ trực hệ duy nhất của hoàng thất triều Tùy, dung mạo đương nhiên được di truyền từ đời trước. Thế là Lý Khác cũng hạ giọng: “Sao biểu huynh biết mấy cô nương này không phải nhắm vào huynh? Hồi ở Trường An, số cô nương thích huynh còn ít sao?”

“Hai vị công tử... hai vị công tử xin dừng bước.” Một giọng nói khàn khàn khó nghe từ phía sau vọng đến. Hai người đồng thời nhìn lại, chỉ thấy một lão hòa thượng ăn mặc rách rưới, bị thọt một chân, loạng choạng bước tới, chẳng để họ kịp phản đối đã kéo tuột cả hai đến một lối nhỏ vắng vẻ hơn cạnh đó.

Dương Chính Đạo đang định bỏ một lạng bạc vụn giắt bên mình vào chiếc bát sứt mẻ của lão hòa thượng, nhưng lại bị ông ta giơ tay từ chối. Lão hòa thượng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt gã rất lâu, rồi mới trịnh trọng nói: “Tướng mạo của công tử thật là đại quý, song có mệnh mà không có vận, vì vậy đối với mọi việc không nên yêu cầu khắt khe quá, cứ thuận theo tình thế mà làm, mới có thể giữ được một đời bình an suôn sẻ.”

Không đợi Dương Chính Đạo trả lời, lão hòa thượng lại nắm lấy tay Lý Khác bằng bàn tay gầy như que củi, gương mặt lộ ra vẻ bi thương khó giấu: “Bi kịch số phận của cậu là những vướng mắc kiếp trước mà cậu mãi mãi không thoát khỏi được. Chỉ có buông bỏ chấp niệm thì mới có một tia hy vọng sống. Công tử, nhớ kỹ nhé! Phải nhớ là đừng quá cố chấp.”

Nói xong, ông ta hất mạnh tay Lý Khác ra, nhanh chóng lần vào đám đông, trong khoảnh khắc cái chân thọt lại lành lặn như một phép mầu. Nghĩ về những lời nói điên rồ không rõ ràng của ông ta, hai người đều sững cả lại. Sau một lúc lâu, Lý Khác mới thốt ra mấy từ như nói mớ: “Biểu huynh, lời ông ta nói... rốt cuộc có ý gì?”

“Ý là phải đi làm việc của chúng ta mau lên.” Dương Chính Đạo kéo tay áo của Lý Khác, “Mấy lời linh tinh xằng bậy kiểu này, đệ quan tâm làm cái gì?”

Cuối đường Hải Yến chính là Mộ An các. Nghe nói mấy năm trước, nơi đó vẫn mang tên Thúy Hồng lâu. Về sau, tú bà không biết kiếm đâu ra một cô nương tên là Mộ An muôn phần xinh đẹp, lại gảy tỳ bà hay. Vì muốn dùng nàng để thu hút thêm nhiều khách hơn, tú bà liền đổi Thúy Hồng lâu thành Mộ An các, chưa kể đổi tên như thế lại làm tăng thêm mấy phần chất thơ, thu hút đông đảo tài tử phong lưu thích khoe mẽ đến đây tìm giai nhân. Thế là Thúy Hồng lâu vốn không có gì nổi bật này một bước trở thành Mộ An các, lầu xanh số một số hai trong thành An Châu.

Tú bà nhìn thấy hai vị công tử tuấn tú ngời ngời này từ xa, trong mắt lập tức nở một nụ cười như đóa mẫu đơn, vội vàng ra nghênh đón, vẫy chiếc khăn thơm nồng nặc trong tay, uốn eo lắc hông, nói với giọng nịnh hót cực kỳ khoa trương: “Chẳng trách hôm nay mí mắt trái của tôi cứ nháy suốt! Hóa ra là gặp được quý nhân! Mời hai vị công tử mau mau vào trong, ngài muốn cô nương nào bầu bạn thì cứ việc nói, a, hai ba cô đều được cả. Hay là để Tôn ma ma tôi giới thiệu cho hai vị nhé!”

Dương Chính Đạo mỉm cười, nhưng lại hơi nghiêng mình ra bên ngoài, vừa khéo tránh được đôi tay vươn về phía gã của cô gái áo đỏ bên cạnh mụ tú bà. Gã rút một miếng ngọc bội chạm hình mây từ trong đai lưng ra, đặt vào tay tú bà: “Muốn Triêu Nhan cô nương bầu bạn. Cái này đủ chứ?”

Miếng ngọc bội đó trong suốt, không chút tạp chất, cầm trên tay nặng trĩu, ủ lâu dường như có hơi ấm, chỉ một chốc đã ấm áp hẳn lên. Tú bà từng tiếp đãi nhiều quan lớn quý nhân, đương nhiên cũng thấy nhiều đồ tốt, nhưng đây là lần đầu tiên bắt gặp thứ đồ tốt vừa nhìn đã khẳng định được luôn như này. Mụ không cầm lòng được quan sát hai người trước mặt, nhất thời quên cả trả lời, đến khi bị cô gái áo đỏ huých vào cánh tay, mụ mới sực tỉnh, nói liến thoắng: “Đủ rồi đủ rồi! Đủ lắm rồi! Mộc Cận đâu, mau đi gọi Triêu Nhan lên nghênh tiếp khách quý.”

Lúc lên lầu, Lý Khác khẽ hỏi: “Biểu huynh biết miếng ngọc bội đó trị giá bao nhiêu bạc không?”

Dương Chính Đạo lắc đầu: “Những thứ này đều là năm xưa bà nội ta mang từ hành cung Giang Đô đến Đột Quyết. Ta chỉ chọn đại mấy cái cầm đến An Châu, thật không ngờ lại có chỗ dùng đến.”

“Đó là ngọc trắng cao cấp nhất trong ngọc Hòa Điền, sản lượng cực ít. Miếng ngọc của huynh, e là trị giá hơn trăm lượng, đủ để mụ tú bà này tiêu ba đời.” Lý Khác cười cười, ánh mắt toát ra một vẻ không biết là cảm khái hay tiếc nuối.

Tú bà dẫn họ vào trong một căn nhã phòng ở tầng hai. Vừa ngồi xuống, liền có tiểu nô đến hầu trà. Tú bà cúi người nói với họ: “Xin hai vị đợi một lát, Triêu Nhan đang trang điểm chải chuốt, chút nữa sẽ đến. Nói xong, mụ lại đưa mắt ra hiệu với tiểu nô ở bên cạnh, tiểu nô lập tức hiểu ý rời đi.

Không bao lâu sau, quả nhiên thấy một thiếu nữ mặc áo tay dài và váy ôm màu đỏ anh đào, đội mũ triều dương ngũ phụng cài trâm ngọc trai, thướt tha bước tới. Nàng trang điểm tươi tắn nhẹ nhàng, khác hẳn những cô gái tô đậm trát dày vừa thấy ban nãy, nụ cười trên mặt cũng rất chừng mực. Song Lý Khác và Dương Chính Đạo trông thấy, lại chỉ hơi gật đầu tỏ ý. Trong lòng tú bà không khỏi có chút ngạc nhiên: Người bình thường vừa nhìn thấy sắc đẹp của Triêu Nhan, đều hận không thể lập tức nhào tới để hưởng hương thơm, hai vị này lại đàng hoàng đứng đắn, khá là thú vị. Có điều giả sử mình trẻ lại mười mấy tuổi, chuyện tốt như vậy còn đến lượt con ranh Triêu Nhan này sao? Mụ càng nghĩ càng không phục, nhưng cuối cùng vẫn biết điều đóng cửa rời đi.

“Hai vị công tử muốn nghe tỳ bà hay cổ cầm?” Giọng nói của Triêu Nhan uyển chuyển êm tai, rất hợp với dung mạo hoa nhường nguyệt thẹn của nàng.

Lý Khác đang định bảo là y không muốn nghe gì, chỉ muốn ngay lập tức biết nha hoàn của nàng có quan hệ gì với Hạ Thiệu Nghiêm, biết được bao nhiêu về chiếc khăn gấm đó. Nhưng y còn chưa kịp mở miệng, đã nghe thấy Dương Chính Đạo cao giọng nói: “Cổ cầm, khúc Bình sa lạc nhạn .”

Mặt Triêu Nhan chợt ửng hồng. Nàng đã tiếp rất nhiều khách, rất hiếm người có vẻ thực sự đến để nghe nhạc như thế này. Thế là nàng vội vàng sai tiểu nha hoàn Huệ Lan ở bên cạnh đặt cây thất huyền cầm của mình lên trên bàn. Trong lúc chỉnh âm, Dương Chính Đạo quay đầu nói với Lý Khác hai câu bằng khẩu hình: Bỏ ra cả trăm lạng đấy! Nghe một khúc cũng không quá đáng đâu!

Bình sa lạc nhạn vốn mang khí thế hùng hồn, nhưng qua tay nữ nhân gảy, nhất là một cô gái nhu mì yểu điệu như Triêu Nhan, tự dưng lại có ý vị riêng, mới mẻ xa xăm. Tầng mây muôn dặm, vang tận chân trời, một tiếng cuối cùng đó ngân rất dài, dư âm quanh quẩn trong phòng lâu thật lâu, giống như tiếng kêu não lòng bất tận của cánh hồng nhạn giữa đại mạc mênh mang.

Dương Chính Đạo chợt ngẩn ngơ, tựa như nhìn thấy nụ cười tươi tắn của cô nương luôn thích mặc váy áo hồng cánh sen và cũng giỏi gảy đàn đó. Triêu Nhan thấy gã có vẻ hơi lơ đãng, liền bước tới, đặt một chén bạch ngọc nhỏ đựng đầy rượu tang lạc lên tay gã, hờn dỗi nói: “Là khúc Bình sa lạc nhạn mà chính công tử muốn nghe, lẽ nào công tử không thích sao?”

“Sao lại không thích? Chỉ cần là nàng gảy, ta đều thích hết. Dương Chính Đạo nhận lấy chén rượu, một hơi uống cạn, ánh mắt xa xăm nhìn về phương xa, tựa như đang nói với Triêu Nhan, nhưng lại giống đang nói với một người ở trong sâu thẳm trái tim hơn.

Lý Khác vừa ngửi thấy mùi rượu liền không kìm được ho sù sụ mấy tiếng. Y thực sự không có duyên với rượu, không chỉ uống một ngụm là say, mà cả ngửi cũng không nổi. Dương Chính Đạo quay sang nói với Huệ Lan: “Đi lấy một bình nước trắng lại đây. Cô nương không biết chứ, cậu em này của ta bình thường gặp rượu là say. Lần say rượu trước, y ngủ mê man suốt một ngày một đêm, may mà có thuốc của Hạ đại phu Từ Tế đường mới tỉnh dậy được.”

Lý Khác liếc Dương Chính Đạo bằng ánh mắt bất mãn, nghĩ bụng: Huynh muốn nhắc đến Hạ Thiệu Nghiêm thì cũng nên tìm một lý do hay ho hơn chứ, gì mà say rượu ngủ mê man, thật là hoang đường! Có điều lời đã ra khỏi miệng, y cũng đành tát nước theo mưa hùa vào nói: “Còn không phải sao? Hạ đại phu có y thuật cao siêu, thích làm việc thiện, trông lại khôi ngô đoan chính, thật sự là một lang quân tốt hiếm có. Nếu không phải hắn đã kết hôn thì ta còn muốn gả em gái nhà ta cho hắn đấy!”

Triêu Nhan nghe đến đây, hàng mi khẽ run lên, đôi mắt đẹp lăn tăn gợn sóng, buột miệng nói: “Hạ đại phu vẫn chưa kết hôn mà!”

“Thật sao? Chuyện này lạ quá!” Lý Khác và Dương Chính Đạo nhìn nhau, ánh mắt cả hai như vừa vỡ lẽ, “Tuổi của hắn cũng không còn trẻ nữa, chẳng nhẽ không có bà mối nào đến cửa mai mối cho sao?”

Triêu Nhan sững lại giây lát, do dự không biết có nên nói ra những lời đã đến đầu môi không, nhưng thấy hai người trước mặt đang nhìn mình với ánh mắt vô cùng mong đợi, lại không kìm được nói: “Hạ đại phu vì chị của thiếp nên mới không muốn lấy vợ.”

Lý Khác nhận lấy chén trà Huệ Lan vừa dâng lên, nhấp một ngụm nước ngọt thanh, lơ đãng cọ nhẹ vào đầu hổ chạm nổi trên thân chén: “Chị nàng? Chẳng lẽ cũng là cô nương trong Mộ An các này sao?”

“Không! Nói chính xác thì chị ấy là chị nuôi của thiếp.” Lời nói của Triêu Nhan ôn hòa, nhưng giọng điệu lại có vài phần buồn bã, “Bốn năm trước, thiếp vẫn còn là một nha hoàn bưng trà rót nước trong Mộ An các. Mùa đông năm đó đặc biệt lạnh, thiếp bị cảm lạnh mấy ngày liền không thấy đỡ, đến tối hôm thứ năm thì sốt đến mức chỉ còn thoi thóp hơi tàn. Sau đó Huệ Lan bất chấp gió tuyết đi mời đại phu cho thiếp, nhưng tuyết trắng xóa đất trời như thế, lại nghe nói bệnh nhân chỉ là một nha hoàn lầu xanh, hầu hết các đại phu đều không muốn đi khám. Cuối cùng người tới lại là một tiểu cô nương mười lăm, mười sáu tuổi, cô ấy châm cứu, lại còn đích thân đi mua thuốc cho thiếp. Chỉ sau vài hôm, thiếp thực sự đã khỏi bệnh.

“Quả là một nữ đại phu lương thiện. Lý Khác nghe tiếng gió nghẹn ngào ngoài cửa, vô thức nắm lấy vạt áo: “Trải qua chuyện như vậy, hai người đâm ra thân nhau, hơn nữa còn gọi chị xưng em?”

Triêu Nhan gật đầu: “Vâng. Sau đó thiếp mới biết, hóa ra chị ấy là đệ tử của Hạ Kỷ đại phu của Từ Tế đường, cũng chính là tiểu sư muội của chưởng quỹ Hạ Thiệu Nghiêm hiện nay. Bỗng một ngày, chị ấy hẹn thiếp ra ngoài, khóc lóc tỉ tê với thiếp, có một công tử nhà quan đặt lời cầu thân với sư phụ chị ấy, muốn lấy chị ấy làm vợ. Chị ấy và Hạ Thiệu Nghiêm đã tâm đầu ý hợp từ lâu, mà nay lại bị chia loan rẽ phượng trắng trợn.”

Đó chẳng qua là một câu chuyện cũ rích! Dương Chính Đạo ở bên cạnh nghe, ánh mắt tràn ngập vẻ không đồng tình. Đây chắc là điểm khác biệt lớn nhất giữa gã và Lý Khác, Lý Khác quá dễ hành động theo cảm tính, đối với con em hoàng thất thì đây có lẽ là điểm yếu trí mạng trong tính cách. Nghĩ đến đây, Dương Chính Đạo không nhịn nổi nói thẳng: “Vậy rốt cuộc những ngày gần đây có nhiều lần bảo nha hoàn của cô ra vào Từ Tế đường để làm gì?”

Câu này vừa thốt ra, không chỉ dọa Triêu Nhan giật nẩy mình, mà ngay cả Lý Khác cũng cau mày nhìn gã, ý muốn nói: Không phải đã bảo là tiến dần từng bước sao, thay đổi sách lược cũng không biết nháy mắt trước với ta. Triêu Nhan không còn vẻ mặt buồn rầu ban nãy nữa, mà đảo mắt đầy cảnh giác, trầm giọng hỏi: “Rốt cuộc các ngài là ai? Tại sao muốn...”

Đúng lúc vừa thốt ra từ “muốn”, khóe miệng Triêu Nhan chợt rỉ ra một vệt máu, sau đó nàng nhổ ra một búng máu tươi, mặt lập tức trắng bệch, đôi mắt hạnh trợn to, ngã xuống đất co giật hai ba cái rồi bất động. Dương Chính Đạo vội vàng bước tới kiểm tra hơi thở của nàng, lại bắt mạch cho nàng, rồi lắc đầu nói: “Không cứu được nữa rồi.”

Lý Khác nhìn xung quanh, trong phòng khách rộng lớn lúc này chỉ có hai người là y và Dương Chính Đạo, ngay cả Huệ Lan ban đầu ở bên bưng trà rót nước cũng không biết đã chạy đi đâu. Đúng lúc này lại có tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng vào.

“Mới hôm qua Tôn ma ma còn đồng ý để hôm nay Triêu Nhan cô nương uống rượu trợ hứng cùng anh em bọn ta, sao nói mà không giữ lời thế?”

“Đúng đấy! Mau mau bảo Triêu Nhan ra đây, tự phạt ba chén trước, sau đó cùng chúng ta mở cuộc vui vầy!”

“Vương công tử, Tưởng công tử... Ai dà, Tôn ma ma tôi đâu có lừa các vị... Giờ trong phòng Triêu Nhan quả thực có khách quý. Đợi họ đi rồi, tôi sẽ bảo nó tiếp các vị cả đêm được không?”

“Mụ bớt gạt bọn ta đi, lần trước mụ cũng nói như vậy! Có khách quý gì được cơ chứ? Bọn ta cứ muốn xông vào đấy!”

Nghe tiếng ồn ào càng lúc càng gần, tiếp theo lại là một tràng tiếng gõ cửa dồn dập vẳng tới. Dương Chính Đạo chỉ vào cửa sổ phòng khách nói: “Dựa vào công phu của hai ta, nhảy từ tầng hai xuống chắc không phải là chuyện khó. Nếu không thì cứ ngồi đây để họ coi chúng ta là nghi phạm giết người.”

Lý Khác nhìn cô gái vừa nãy còn cười nói chuyện trò với họ mà bỗng chốc trở thành một xác chết, trong lòng thực sự cũng có mấy phần thương cảm. Y bước đến bên cây thất huyền cầm mà Triêu Nhan vừa gảy, ánh mắt đột nhiên sáng lên: “Biểu huynh vừa mới nghe khúc nhạc này, có phát hiện ra điều gì bất thường không?”

Thấy nói một đằng y lại đáp một nẻo, Dương Chính Đạo cũng chẳng bận tâm, mà trả lời thành thật: “Ngón đàn của Triêu Nhan tuy không thể so được với những bậc thầy thực sự, nhưng xét tổng thể thì không tồi. Song, ở nốt búng lên cuối cùng, rõ ràng cô ta không thể đàn được, nên hơi bị vỡ tiếng, chỉ có điều cô ta đã che đậy rất khéo léo.”

“Quả nhiên là vậy!” Lý Khác dùng ngón tay bật dây đàn, dây đàn phát ra một tiếng trầm đục, “Biểu huynh vẫn ở lại cùng ta làm nghi phạm giết người chứ?”

Dương Chính Đạo nhún vai: “Cũng chẳng ngại gì.”

Cửa bị xô bật ra một cách thô bạo, hai gã say rượu ồn ào và tú bà cùng bước vào. Tú bà vừa đưa tay chắn trước mặt bọn say, vừa nói với giọng the thé: “Xin lỗi hai vị công tử. Triêu Nhan à, con ra chào một tiếng trước đi!”

Khi lại gần thêm mấy bước, nhìn thấy cảnh tượng trong phòng trong, mụ tú bà không kìm được hét “á” một tiếng, vội vàng sải bước về phía trước, lay Triêu Nhan đang nằm bất động trên mặt đất, lau giọt lệ không hề tồn tại trong mắt, gào khan: “Triêu Nhan, con gái yêu của ta! Con sao thế này? Tên chết đâm chết chém nào lại nhẫn tâm làm con ra nông nỗi này?”

Tiếng gào này làm hai gã say tỉnh rượu, chúng hò nhau kêu la: “Giết người! Triêu Nhan cô nương bị người ta giết chết rồi!”

Tiếng to như vậy, ngay lập tức thu hút gần như toàn bộ khách trên tầng hai. Huệ Lan và Mộc Cận ba chân bốn cẳng chạy lại nhào tới bên cạnh Triêu Nhan, khóc nức nở, liên tục gọi “chị ơi”, đang khóc, lại quay đầu nhìn Lý Khác và Dương Chính