← Quay lại trang sách

Chương 2 Mờ mịt sát cơ

Nghe thấy câu này, khuôn mặt vốn đã tái mét của Huệ Lan lộ ra vẻ sợ hãi tột cùng. Cô rụt rè nhìn Khang Kiện một cái, lại kéo chéo áo của tú bà, lí nhí như cầu cứu: “Ma ma... con thật sự không biết chị ấy chết như thế nào, con...”

Lúc cô nói, cây trâm mành mành bằng bạc hình chim hỷ thước ngậm ngọc trai trên đầu phát ra từng chuỗi âm thanh lảnh lót, một giọt nước mắt lăn dài trên má, rõ là một tiểu mỹ nhân yếu đuối phải chịu oan ức. Tú bà thấy vậy, vỗ vai cô an ủi, rồi quay sang oán giận nói với Lý Khác: “Tên kia, ngươi nói bậy nói bạ gì vậy?”

“Nói bậy nói bạ á?” Lý Khác tiến lên hai bước, nhanh tay lẹ mắt giật chiếc khăn gấm Huệ Lan giấu trong ống tay áo ra, nhúng vào ấm trà trên bàn, rồi lại rót một chút nước trà vào chiếc chén nhỏ ở bên cạnh. Trên khuôn mặt tuấn tú ngời ngời của y lộ ra nụ cười cực nhẹ cực nhạt, giọng điệu mang theo năm phần trêu đùa, năm phần chế giễu: “Nếu Huệ Lan cô nương dám uống một ngụm nước trà này, tôi sẽ đền mạng cho Triêu Nhan chị cô ngay tại đây.”

Tiếng khóc của Huệ Lan bỗng nhiên im bặt, cô nghẹn ngào cầm chén trà đó trong tay. Nước trong chén vẫn trong veo như cũ, phản chiếu rõ nét khuôn mặt thanh tú như hoa lê thấm mưa của Huệ Lan. Cô đặt miệng chén trà lên môi, nhắm mắt lại, giống như đã lấy đủ can đảm để uống nó, nhưng cuối cùng chỉ nghe thấy một tiếng “choang” giòn tan vang lên, chén trà bị ném phăng xuống. Huệ Lan ngồi xổm trên mặt đất, tay ôm chặt lấy đầu gối, gào khóc nức nở, nước mắt từ từ làm lem luốc khuôn mặt được trang điểm vô cùng tinh tế của cô.

Mọi người đều trợn mắt há mồm, Huệ Lan lấy tay áo lau đi nước mắt đầm đìa trên mặt. Mãi sau, cô mới ổn định được tâm trạng, quỳ thẳng người nói: “Không sai! Là tôi giết cô ta! Ai bảo cô ta... ai bảo cô ta đã hủy hoại cuộc đời tôi!”

Lúc này, mụ tú bà từ kinh hoảng chuyển thành giận dữ, tay đấm chân đá Huệ Lan giống một con sư tử điên dại. Cây trâm mành mành bị đánh rơi xuống đất, toàn bộ mái tóc của Huệ Lan xòa xuống tựa thác đổ. Dường như tú bà vẫn chưa hả giận, lại giáng cho cô một cái tát nặng nề, gần như tát lệch cả mặt cô: “Cái con bé chết giẫm này! Đó là chị họ ngoại của mày mà! Sao mày có thể làm chuyện vô đạo đức như vậy! Tao khinh!”

“Dừng tay!” Lý Khác cúi người giữ tay tú bà lại, nghiêm mặt nói: “Pháp tào ở đây! Ai cho phép mụ dùng hình phạt riêng!”

Dường như đến giờ Khang Kiện mới nhận ra mình cần phải mở miệng nói: “Bắt cô ta lại!”

Bốn sai dịch vừa nghe thấy câu này, lập tức hùa nhau kéo Huệ Lan đứng dậy. Huệ Lan đầu tóc rối bù lúc này lại trợn tròn đôi mắt, nói với giọng khàn đặc nghe hết sức đáng sợ: “Trước đây tôi cũng là con gái nhà lành, chính người cha làm tiểu lại của cô ta sau khi giết người đã bỏ trốn đến nhà chúng tôi, mẹ tôi niệm tình anh em nên cho ông ta ở lại. Ai ngờ sau này... sau này vẫn bị người của nha môn tìm thấy. Mẹ tôi bị lưu đày vì chứa chấp tội phạm, chết bệnh trên đường đi. Còn tôi cùng cô ta thì bị bán vào lầu xanh này làm nô tì.”

“Nhưng mà nay, cô ta đã thành cô nương đầu bảng ở đây, còn ngươi thì vẫn là một tiểu nha hoàn bưng trà rót nước.” Dương Chính Đạo ở bên cạnh lạnh lùng nói, “Đối với cô ta, trong lòng ngươi có đến tám, chín phần ghen tị! Nghe nói gần đây có một phú thương buôn tơ lụa muốn chuộc thân và cưới cô ta về làm thiếp, phải vậy không?”

Huệ Lan như bị chạm đúng chỗ đau, người mềm nhũn, suýt nữa ngã ra: “Phải! Tôi không có được tự do, cô ta cũng đừng hòng có được. Tôi khổ sở vùng vẫy ở nơi tối tăm không thấy ánh mặt trời này, còn cô ta lại sắp ra ngoài hưởng phúc, ngài bảo tôi cam tâm làm sao đây! Cam tâm thế nào đây!”

“Vốn dĩ Triêu Nhan không muốn đi, mặt tú bà vẫn hầm hầm tức giận, nhưng giọng nói lại đượm phần thê lương, “về sau, nó đã thuyết phục vị phú thương đó chuộc cả mày ra cùng. Nó bảo mười lăm tháng sau là sinh nhật mày, định đến lúc đó sẽ nói với mày, cho mày một bất ngờ! Nào ngờ mày lại...

Nghe xong câu này, cuối cùng hai chân Huệ Lan cũng mềm oặt, cô hoàn toàn tê liệt, ngã quỵ xuống đất. Trong ánh mắt cô có hối hận, có day dứt, còn cả một nỗi sợ hãi không diễn tả nổi. Các sai dịch muốn kéo cô lên giải đi, nhưng không biết lấy sức ở đâu ra, cô đột nhiên giãy thoát khỏi tay họ, mọi người còn chưa kịp phản ứng, cô đã bất ngờ cầm ấm trà trên bàn lên. Lý Khác thầm kêu hỏng bét, nhưng khi y lao tới giật lấy ấm trà, Huệ Lan đã uống hết quá nửa nước trà bên trong.

“Không! Bây giờ cô chưa được chết!” Lý Khác nhìn đôi môi đang dần chuyển sang màu tím của Huệ Lan, không giữ được vẻ ung dung điềm tĩnh xưa nay nữa, vội vã đưa tay nâng cằm cô hỏi, “Họa tiết hoa đào trên chiếc khăn gấm của cô là do ai dạy cô thêu? Nói mau!”

Vì dùng lực quá mạnh, móng tay của Lý Khác đã bấm sâu vào da của Huệ Lan. Khóe miệng Huệ Lan ộc ra máu độc đỏ bầm, hơi thở dồn dập hẳn, đồng tử cũng đang từ từ giãn ra, Lý Khác lại cao giọng hét lên một lần nữa: “Rốt cuộc là ai?”

Hơi thở của Huệ Lan mảnh như tơ, cô nói với giọng mà chỉ có hai người mới nghe được. “Cảnh... Cảnh... Cảnh Nguyệt...”

“Cảnh Nguyệt là ai?” Lý Khác vừa hỏi dứt câu, bàn tay của Huệ Lan đã thõng xuống, máu chảy ra từ miệng cô vấy lên tay áo đỏ tươi đính tơ vàng của Lý Khác. Y buông tay, chậm rãi đứng dậy, nét mặt hết sức khó coi vì thất vọng.

Dương Chính Đạo vội bước đến bên cạnh, vỗ nhẹ lên vai y, nói nhỏ: “Khác đệ, không sao đâu, chúng ta vẫn còn cơ hội.”

Trong màn đêm, phủ đô đốc An Châu đặc biệt yên tĩnh. Cát bảy màu trong đồng hồ chầm chậm chảy xuống không ngừng. Lư hương toan nghệ bằng đồng đỏ ở hai bên bức bình phong gỗ tử đàn đang nhả ra khói biếc lượn lờ. Lý Khác nhìn cành hoa đào đã hơi úa trong chiếc bình lưu ly trong suốt, mới hôm qua đây thôi, y vừa sai người hầu hái nó trên cây đào nở rộ. Đóa hoa đẹp như vậy, lại chẳng sống được quá ba ngày.

Sau khi xử lý ổn thỏa tất cả những vấn đề còn lại, Khang Kiện mới vội vội vàng vàng đến thư phòng của Lý Khác. Trong khoảnh khắc nhìn thấy Lý Khác, mặt hắn hơi giần giật. Hắn cúi rạp mình xuống đất, gục đầu thật thấp: “Hôm nay hạ quan mạo phạm điện hạ, xin điện hạ trừng trị hạ quan tội đại bất kính.”

Hắn nói như vậy, rõ ràng là ý thức được hành vi hôm nay đã xúc phạm đến hoàng quyền. Lý Khác đứng dậy, đỡ hờ lấy hắn, nửa đùa nửa thật nói: “Nếu không phải pháp tào nhìn rõ ý của bản vương, e rằng ngày mai trăm họ toàn thành đều biết chuyện tai tiếng đô đốc An Châu quyến luyến thanh lâu, còn bị tình nghi giết chết danh kỹ lầu xanh.

Khang Kiện nở nụ cười thật thà chất phác trên khuôn mặt tròn trịa, gãi đầu nói: “Điện hạ cứ đùa. Chỉ là... có một số chuyện, hạ quan vẫn chưa hiểu lắm. Làm sao điện hạ biết trên chiếc khăn mà Huệ Lan mang theo có độc?”

“Rất đơn giản,” Lý Khác chậm rãi nói, “ngay từ lúc bắt đầu, ta đã chú ý đến vẻ mặt căng thẳng và hoảng sợ của Huệ Lan. Ngón tay của Triêu Nhan cử động một cái là ánh mắt của cô ta sẽ thay đổi một lần. Đến khi Triêu Nhan chạm phải cái dằm đó khiến ngón tay bị thương, cô ta mới đưa chiếc khăn trong tay cho Triêu Nhan cầm máu. Nhìn thấy đôi mày Triêu Nhan hơi nhăn lại vì đau, Huệ Lan mới xác nhận rằng vết thương mới có của Triêu Nhan đã chạm vào độc trên chiếc khăn, liền lộ ra nụ cười như trút được gánh nặng. Sau đó, cô ta lại rỉ tai với Triêu Nhan điều gì đó, rồi rời khỏi phòng, ta đoán, cô ta định ra ngoài xử lý chiếc khăn ấy. Có điều vừa đi ra thì cô ta đã đụng phải tú bà và hai tên say rượu gây rối, nhất thời khó mà thoát thân, thế là cô ta đành phải giấu chiếc khăn vào trong tay áo mình, vốn tưởng rằng tuyệt đối sẽ không bị người khác phát hiện ra.”

“Nhưng vẫn không thoát khỏi mắt điện hạ. Tuy trước giờ Dương Chính Đạo luôn biết người em họ ngoại này thông minh, nhưng nay nghe thấy y có thể nhạy bén nắm bắt được những thay đổi biểu cảm đầy tinh tế như vậy, trong mắt vẫn có một chút sắc thái khác lạ.

Lý Khác mỉm cười, nhìn gã nói: “Chuyện này có gì mà kinh ngạc? Biểu huynh đâu phải không biết, ta hoàn toàn không có hứng thú với cầm khúc. Trong khi biểu huynh say sưa với khúc Bình sa lạc nhạn , ta không có việc gì làm, đành chú ý tới những tiểu tiết vụn vặt đó thôi. Huống hồ, thứ Huệ Lan lấy ra lại là một mảnh khăn như thế! Chỉ tiếc là, lúc đó ta còn chưa nghĩ sâu xa, nếu không thì cũng chẳng để Triêu Nhan cô nương phải uổng mạng như vậy.”

Khang Kiện ở bên cạnh nghe mà ngẩn cả người, rất lâu sau, hắn mới sắp xếp rành mạch được những suy nghĩ phức tạp trong đầu: “Nhưng điện hạ đã có thể minh oan cho mình, sao còn để cho mụ tú bà đó coi ngài là nghi phạm, mặc mụ sỉ nhục như vậy?”

“Pháp tào không hiểu sao?” Dương Chính Đạo thấy Lý Khác không nói, liền trả lời thay y, “Điện hạ cố ý đợi người đến mới nói ra tất cả những gì mình biết, là để dạy người cách xử án đấy! Trong tay ngươi không phải còn mấy vụ vẫn chưa kết án sao? Để xem qua vụ án này, ngươi có thể có được chút gợi mở mới nào không.”

“Điện hạ dụng tâm vất vả như vậy, hạ quan nhất định sẽ không phụ lòng ngài.” Khang Kiện lại quỳ xuống đất lần nữa, nét mặt kiên định hẳn.

Lý Khác gật đầu. Y tự thấy mình giỏi nhìn người, tuy Khang pháp tào bình thường có phần không chú ý đến tiểu tiết, nhưng ngay thẳng trung thành, y có thể yên tâm sử dụng. Y ấn huyệt thái dương, xoa dịu những mệt mỏi cả ngày hôm nay: “Còn một chuyện nữa. Pháp tào biết trong thành An Châu có ai tên là Cảnh Nguyệt không?”

“Cảnh Nguyệt?” Khang Kiện nhắc lại hai chữ này, suy nghĩ rất lâu, cuối cùng vẫn lắc đầu nói: “Hạ quan chưa bao giờ nghe thấy cái tên này. Không biết người này là nam hay nữ, già hay trẻ ạ?”

Tiếng nhạn bi ai ngoài cửa sổ vọng vào, dư âm ngân nga réo rắt, xẹt qua tầng mây dày nặng trên bầu trời thành An Châu. Lý Khác thở dài thườn thượt, tuy đã đoán trước được chuyện này, nhưng vẫn không giấu nổi vẻ chán nản. Thấy Khang Kiện lộ vẻ xấu hổ vì không giúp được mình, Lý Khác an ủi: “Không có gì, ngươi về nghỉ ngơi trước đi.”

Khang Kiện dạ một tiếng, lúc ra ngoài, vừa khéo nhìn thấy Quý Thành đang đi nhanh về phía này. Quý Thành trông rất giống người em trai Quý Ân của mình, chỉ là tính cách có phần trầm ổn, thu mình hơn. Quý Thành gõ cửa bước vào, đưa bức thư trong tay cho Lý Khác: “Điện hạ, viên tiểu lại ở dịch trạm Cát Dương vừa mới gửi tới.”

Lý Khác nhận xong, liền xua tay với hắn: “Ta biết rồi, ngươi đi trước đi.”

“Thư từ Trường An tới à?” Dương Chính Đạo nghiêng người hỏi.

“Không sai, là thư hồi âm của Nhuệ ca.” Lý Khác vừa nói vừa đưa bức thư cho gã.

Người anh rể Tiêu Nhuệ này của Lý Khác là con trai trưởng của Tiêu Vũ, em trai út của Tiêu hoàng hậu nhà Tùy. Nếu luận về thứ bậc, Lý Khác còn phải gọi gã là cậu họ. Chỉ có điều hai người trạc tuổi nhau, hồi nhỏ Lý Khác thường xuyên qua lại với gã, cũng chẳng bao giờ kể đến vai vế. Mấy năm trước, được hoàng đế ban hôn, Tiêu Nhuệ đã vẻ vang rước chị cả của Lý Khác là Tương Thành công chúa về làm vợ. Từ đó, Lý Khác cũng cứ thuận theo lẽ mà gọi gã là Nhuệ ca, so với ngày trước đôi bên còn thân thiết hơn vài phần.

“Đệ với Trinh Khanh rời kinh, ta rất nhớ. Từ khi nhậm chức Đại Lý thiếu khanh, ta thấy u uất khó chịu, dù miệt mài bất kể ngày đêm, cũng khó mà phán đoán được những uẩn khúc ly kỳ của các vụ án...”

Dương Chính Đạo nhận thư, thấy cả bức toàn là những lời kể khổ, không khỏi phì cười, nói: “Bệ hạ xem trọng chàng rể cả, cũng là chú họ ta nhường ấy, còn giao cho chú nhiệm vụ quan trọng như vậy, nếu để bệ hạ đọc được những lời than phiền này, không biết lão nhân gia người sẽ giận đến mức nào đây!”

Lý Khác cười: “Nếu để huynh ấy nghe thấy huynh gọi huynh ấy là ‘chú họ, cũng không biết huynh ấy sẽ tìm huynh tính sổ như thế nào đây!”

Dương Chính Đạo không nói gì, kiên nhẫn đọc hết những lời oán thán chiếm trọn hai trang giấy đó, lại thấy ở cuối thư có viết: “Bệ hạ gần đây thân thể khỏe mạnh, tinh thần dồi dào, đệ chớ ưu tư lo lắng” Dương Chính Đạo bỏ lại lá thư vào trong phong thư, tựa như không hiểu, lại tựa như thở than, nói: “Một tháng đệ phải viết ba công văn báo cáo công việc cho bệ hạ, sức khỏe bệ hạ thế nào, tinh thần ra sao, đệ không thể tự hỏi à, sao phải vòng qua Tiêu Nhuệ?”

Lý Khác thu lại nụ cười, nói với vẻ mặt lạnh tanh: “Huynh không hiểu đâu.”

“Sao ta lại không hiểu?” Dương Chính Đạo chỉ muốn lấy một thùng nước lạnh giội thẳng lên người Lý Khác: “Thứ chắn ngang đệ và bệ hạ là một cái gai hoàn toàn vô nghĩa. Ta nói sẽ giúp đệ, nhưng tuyệt đối không đồng tình với sự cố chấp nực cười này của đệ.”

“Nực cười à?” Lý Khác bị hai chữ này đâm sâu vào tim gan đau nhói: “Mẹ ta hy sinh mạng sống của mình, chỉ vì không muốn làm người đàn ông bà yêu nhất phải khó xử. Nhưng người cha đó của ta đã làm gì cho bà hả? Dương Chính Đạo, huynh nói ta nực cười, bởi vì huynh chưa bao giờ có được.”

“Đệ nói không sai, ta không hiểu chuyện giữa mẹ con, cha con các người. Từ giờ, ta cũng sẽ không khuyên đệ nửa lời. Đệ muốn điều tra họa tiết hoa đào đó, muốn biết thích khách năm xưa là ai, ta sẽ giúp đệ. Những cái khác, ta sẽ không quản nữa. Dương Chính Đạo gắng gượng đè nén nỗi đau trong lòng, giọng nói hơi run rẩy.

“Xin lỗi, xin lỗi biểu huynh, ta không nên nói vậy, ta...” Thực ra lúc câu vừa rồi buột khỏi miệng, Lý Khác hối hận ngay. Cho dù cầm đao kề cổ y, y cũng có thể ung dung đối đáp, chỉ có động chạm đến chuyện này, y mới không kiểm soát được cảm xúc. Có lẽ, đó thật sự là một cái gai không thể đụng vào trong trái tim y, giữ lại thì đau, nhổ đi lại càng đau.

Thấy Dương Chính Đạo không nói, Lý Khác đi đến trước mặt gã vái dài một cái, đang định quỳ gối thì lại bị gã đỡ lấy tay: “Ta không nhận nổi lễ lớn như vậy của Ngô vương điện hạ. Thôi bỏ đi, ta không chấp nhặt đệ đâu.”

Từ tháng Năm, thành An Châu đã bước vào mùa mưa liên miên không ngớt. Mưa rơi rí rách rề rề từ sáng đến tối. Thư Yểu đón bát canh đậu xanh táo gai mà tiểu nha hoàn Đan Quế bê trên tay, bưng đến trước mặt Lý Khác, mắt ánh lên niềm vui dìu dịu: “Điện hạ mau nếm thử món canh thần thiếp nấu này, nghe nói nó thanh mát, giải khát tốt lắm”

Lý Khác cầm thìa húp hai miếng, mỉm cười nói: “Vương phi nấu món đặc sản dân gian này của An Châu, thật chẳng thua kém gì các đầu bếp bậc thầy ở Vinh Khánh trai.

Thư Yểu bất giác đỏ bừng cả mặt: “Đây là món mà thần thiếp dốc lòng học từ bà đầu bếp bản xứ trong phủ, điện hạ thích là được rồi.”

“Tất nhiên là ta thích. Vương phi vất vả rồi.” Lý Khác vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu với Đan Quế. Đan Quế thu dọn bát canh và thìa, lặng lẽ lui ra ngoài.

Lý Khác thấy Thư Yểu hơi cúi đầu không nói gì. Vị vương phi này của y quá trầm tính, nên mỗi khi ở một mình với nàng, y đều cảm thấy hơi lúng túng. Nhưng y dường như cũng rất khó tìm ra chủ đề trò chuyện để phá vỡ không khí ngượng ngùng này.

Giống như bây giờ, y nghĩ ngợi một hồi, lúc ngẩng đầu chợt liếc mắt thấy một bức tranh treo trên tường, liền chỉ vào nó nói với Thư Yểu: “Vương phi biết bức tranh này vẽ gì không?”

Thư Yểu quan sát tỉ mỉ hồi lâu, thấy trong tranh có rất nhiều nhân vật, mà trang phục mỗi người một khác, nhưng đều hướng về một vị quân vương đội mũ miện chín tua ngọc trai trắng, mặc áo cổn màu đen viền chỉ vàng đứng cao nhất trong tranh làm lễ triều bái. Bức tranh tao nhã, mộc mạc cổ xưa, mang khí phách hào hùng, rất có phong vị Trung Hoa sừng sững.

“Bức tranh này vẽ cảnh các nước phiên thuộc làm lễ triều bái với hoàng đế bệ hạ của Đại Đường chúng ta phải không ạ?” Thư Yểu nói rất nhẹ, có phần rụt rè vì cực kỳ thiếu tự tin.

“Chính là cảnh đấy, nhưng đối tượng thì không đúng” Lý Khác nói: “Bức tranh này tên là Phiên khách nhập triều đồ , do Lương Nguyên Đế Tiêu Dịch vẽ. Nó cùng với Thánh tăng tượng, Tuyên ni tượng được người đời sau gọi là “tam tuyệt. Bản gốc hiện đang ở chỗ Diêm Lập Bản, đệ nhất họa sư bản triều, tướng tác thiếu giám. Diêm thiếu giám rất quý trọng chúng, bản vương từng mượn ông ta ba ngày, vội vàng sao chép lại, chung quy vẫn chưa đạt được tinh túy của Tiêu Dịch.”

“Điện hạ lợi hại quá!” Mặt Thư Yểu tràn đầy vẻ kính phục, “Thần thiếp thấy, tranh của điện hạ thật sự rất đẹp!”

Lý Khác không đồng tình: “Còn kém xa! Nàng nhìn công phu dừng chuyển của nét bút này xem, so với Tiêu Dịch thì khác nhau một trời một vực. Hay ví dụ như màu đỏ của áo bào mà vị sứ giả này mặc, không thể bì được với màu đỏ trong bản gốc. Ta từng định đun sôi chu sa để làm thuốc màu, nhưng cuối cùng lại thôi.”

“Điện hạ chớ tùy tiện thử.” Thư Yểu nghe câu cuối cùng này, không kìm được vội vàng nói: “Chu sa mà gặp nhiệt sẽ sinh ra khí độc ngay, không tốt cho cơ thể.”

Lý Khác trầm ngâm nhìn nàng, nét cười trên mặt đậm dần: “Vương phi chớ lo, ta biết mà, chẳng qua chỉ nói vậy thôi.”

Vẻ mặt Thư Yểu lúc này mới hơi dịu đi, ngay sau đó nàng chậm rãi nắm lấy tay của Lý Khác, tựa đầu vào vai y: “Mấy hôm nay thời tiết khó chịu, điện hạ phải giữ gìn sức khỏe cẩn thận, nhất thiết không được quá lao lực.”

Giữa trưa, mưa phùn rả rích cuối cùng cũng ngừng một lúc, cầu vồng cong cong treo giữa bầu trời, hơi ẩm trong không khí rõ ràng đã giảm bớt mấy phần. Lý Khác thu dọn xong mười lăm bản công văn trên bàn, đứng dậy nói: “Vương phi có muốn ra ngoài phủ đi dạo cùng ta không?”

Thư Yểu hơi ngẩn người. Hồi xưa lúc ở trong khuê các, nàng gần như không ra khỏi cửa. Sau khi làm vương phi, cũng ở trong phủ cả ngày. Nàng nhớ chị mình luôn nói, cô nương nhà gia giáo không được thò đầu lộ mặt. Cô nương nhà gia giáo cũng không nên tùy tiện bàn luận chuyện yêu đương, dù là chồng tương lai cũng chỉ được kính, không được yêu. Bằng không, nếu một ngày chồng thay lòng đổi dạ, nàng sẽ chẳng còn gì cả. Thư Yểu cũng đồng ý với lời của chị. Vì vậy từ khi được gả vào vương phủ, nàng chỉ tận tâm tận lực làm một vương phi, chứ không phải là một người vợ. Nàng có thể lo liệu tốt mọi việc trong phủ cho y, nhưng chưa bao giờ thỏ thẻ làm nũng với y. Giống như chiều hôm qua, nàng đau đầu ghê gớm, nhưng vẫn cứ ngăn cản các nha hoàn, không cho họ đi nói với Lý Khác, mà chỉ nằm mê man trên giường cả buổi chiều.

“Vương phi?” Lý Khác thấy nàng lâu không trả lời, liền gọi một tiếng.

“Tất nhiên là thần thiếp muốn đi theo điện hạ rồi, xin điện hạ đợi một lát.” Đến giờ Thư Yểu mới lên tiếng như vừa tỉnh giấc mơ.

Nàng thay một bộ đồ nam với ống tay hẹp, mặc vào trông lại hơi giống một thư sinh nho nhã yếu ớt. Lý Khác thấy nàng ăn vận như vậy, bất giác thoáng ngẩn ngơ: “Thư Yểu ăn vận thế này, thật là hiếm thấy.”

Trong trí nhớ, dường như đây là lần đầu tiên y gọi nàng bằng khuê danh. Nếu không phải trên tờ canh thiếp [*] lúc hợp hôn có ghi họ tên của đôi bên, thì Thư Yểu thậm chí còn cho rằng, cả đời này y sẽ không biết tên nàng. Mà nay, y bất ngờ gọi nàng như vậy, trong lòng nàng lại có một niềm vui nhàn nhạt vô cớ. Nàng không đáp, chỉ hé một nụ cười nhẹ như gió thoảng.

Khi hai người họ đến Chu Ký trà lâu trên đường Hà Thanh thì đã là giờ Mùi ba khắc. Tòa Chu Ký trà lâu này chia làm hai tầng, tầng trên có tổng cộng sáu gian nhã phòng, tầng dưới thì đặt hơn mười chiếc bàn thấp để cho mọi người thưởng trà trò chuyện. Gã tiểu nhị trẻ tuổi tên Chu Lộc vắt một chiếc khăn vải trắng trên vai, rảo bước ra chào đón: “Mời hai vị vào trong.”

[*] - Tờ giấy ghi tên họ, ngày tháng năm sinh, quê quán, tổ tiên ba đời của cô dâu và chú rể để hai bên trao đổi cho nhau.

Lý Khác chọn chỗ gần cửa sổ, ngồi xuống nói: “Cho một ấm trà mao tiêm thượng hạng. Còn nữa... Thư Yếu muốn dùng gì?”

“Vậy cho một cốc nước mật ong đi! Thêm bốn cái bánh trà nữa!” Thư Yểu vừa nói vừa hơi nhấc cánh tay lên, rõ ràng vẫn không hoàn toàn thoải mái với chiếc áo bào trên người.

“Vị công tử này thật đúng là người sành sỏi!” Chu Lộc toét miệng, không giấu nổi nụ cười trên mặt, “Nói đến việc làm bánh trà, nếu bảo Chu Ký trà lâu của chúng tôi là số hai thì không ai dám nhận là số một!”

Đến khi Lý Khác nếm món bánh trà này, mới biết Chu Lộc không hề nói quá. Mùi vị vừa thơm mát vừa mềm dẻo này, theo y nhớ thì cũng chỉ có ngự thiện trong cung là có thể sánh được. Lý Khác quan sát Thư Yểu, song nàng lại không tỏ ra ngạc nhiên thích thú gì lắm với mùi vị của món bánh trà này. Y đang định nói thì chợt nghe thấy giọng nói hùng hồn của một người đàn ông vạm vỡ mặt tròn ở bàn bên: “Người ông bảo chính là Hạ Kỷ, chú của Hạ đại phu Hạ Thiệu Nghiêm của Từ Tế đường đó ư? Sao đột nhiên lại chết thế?”

Người đàn ông trung niên thân hình cao gầy, gò má cao sống mũi tẹt ngồi đối diện nọ bèn hạ thấp giọng: “Chính là hắn đấy! Nghe nói hôm qua sau khi say rượu hắn ngã xuống sông Lưu Vận ở phía Tây thành, lúc vớt lên thì cơ thể đã trương phình hết cả rồi!”

Người mặt tròn đút nửa cái bánh trà vào miệng, mới nhai được hai miếng, chắc là bị nghẹn, vội vàng cầm lấy ấm, rót thật nhiều nước trà vào miệng, mãi sau mới nói tiếp: “Tay Hạ Kỷ này suốt ngày chỉ biết uống rượu, tìm nữ nhân trong kỹ viện để vui vẻ. Kết cục như vậy cũng chẳng có gì lạ.”

“Ai bảo không có! Chỉ là nghe nói Hạ Thiệu Nghiêm rất đau lòng, suy cho cùng cha và chú y mất cả rồi, nhà họ Hạ cũng chỉ còn mỗi y kế thừa hương hỏa. Người cao gầy uống ngụm trà, nói với giọng đầy cảm khái.

Lý Khác nghe câu chuyện phiếm này, phiền muộn trong lòng lại trỗi dậy. Đơn thuốc đoạt mạng mà Hạ Lăng để lại, hai chị em họ là Triêu Nhan và Huệ Lan dường như có liên quan mật thiết đến Hạ gia nhưng đều đã chết, Cảnh Nguyệt không biết là nam hay nữ mà Huệ Lan nói, tiểu sư muội bí ẩn bị ép gả cho nhà quan, cùng với hai chiếc khăn gấm thêu họa tiết hoa đào giống hệt hình xăm trên cánh tay thích khách năm xưa... Giờ đây, dường như lại có thêm tai nạn là người chú phong lưu say rượu chết đuối. Vở kịch hay này của Hạ phủ đang được trình diễn lần lượt từng màn một.

Lý Khác không lắng nghe hai người này nói nữa, ngoảnh sang thấy Thư Yểu đang đưa tay xoa trán, đôi mày hơi nhíu lại, liền quan tâm hỏi: “Sao thế? Khó chịu ở đâu à?”

Thư Yểu lấy tay chống trán, hạ giọng xuống rất thấp: “Không có chuyện gì to tát đâu, chẳng qua chứng đau đầu cũ lại tái phát, là bệnh từ nhỏ của thần thiếp, điện hạ chớ lo.”

Lý Khác đang định nói “không nghiêm trọng thì tốt”, nhưng nhìn thấy mặt nàng đã hơi tái, liền đứng dậy kéo tay nàng nói: “Đã đau đến mức này mà vẫn bảo là không có gì. Dù sao phủ đệ của Hạ đại phu cũng không xa, ta đưa nàng đến khám!”

Lý Khác không bảo đi Từ Tế đường, mà nói thẳng là đi Hạ phủ, vì biết giờ này Hạ Thiệu Nghiêm tất nhiên đang chủ trì tang lễ. Nếu không đưa Thư Yểu đi khám bệnh, y cũng sẽ tìm lý do khác để đến Hạ phủ tìm hiểu ngọn nguồn. Tuy nhiên, y có tìm được lý do hay không thì cũng chẳng đáng ngại, cho Hạ Thiệu Nghiêm một trăm lá gan, hắn cũng không dám chặn đô đốc An Châu ở ngoài cửa.

Người đến Hạ phủ điếu tang nườm nượp không ngớt. Nhưng tuyệt đại đa số đều không coi cái chết của Hạ Kỷ ra gì, chẳng qua họ nể mặt Hạ Thiệu Nghiêm mà thôi. Hạ Thiệu Nghiêm mặc đồ tang trắng, tóc búi lại gọn gàng bằng một cây trâm gỗ, mắt lờ mờ tia máu đỏ, chắc là do cả đêm chưa ngủ. Sau khi chẩn mạch kỹ càng, hắn mới khẳng định: “Lý công tử yên tâm, bạn ngài chẳng qua là thể chất hư hàn, gần đây lại ngủ không ngon, uống chút thuốc ấm dạ ngủ yên này chắc chỉ ít ngày nữa là bệnh tình sẽ thuyên giảm ngay.”

Nói xong, Hạ Thiệu Nghiêm liền đưa đơn thuốc vừa mới viết cho một tiểu nô ở bên cạnh.

Lý Khác nghe thấy giọng hắn khàn khàn, rất khác với ngày thường, chắc do không cẩn thận bị cảm lạnh: “Đa tạ Hạ đại phu. Vừa nãy ta và bạn đi đến đây, mới hay chuyện của lệnh thúc, xin Hạ đại phu nén buồn gắng sống.”

Hạ Thiệu Nghiêm đứng dậy vái dài Lý Khác một vái nói: “Đa tạ Lý công tử quan tâm. Chú tôi ra đi đột ngột, trong lòng tôi thật sự...”

Giọng hắn hơi nghẹn ngào, vừa mới nói hai câu đã không nói tiếp được nữa. Đúng lúc này, tiểu nha hoàn Hồng Lăng bước vào nói với Hạ Thiệu Nghiêm: “Công tử, An đại phu và hai vị An công tử của Lô Tuyết đường đã đến linh đường tế bái.”

Hạ Thiệu Nghiêm lấy lại tinh thần nói: “Mời ba vị ấy nghỉ ngơi một lát trước đi, ta sẽ đến ngay.” Nói xong lại cáo lỗi với Lý Khác, rồi vội vàng đi theo Hồng Lăng.

Lý Khác nhìn thấy trên tường trong phòng treo một bức chữ: Kiến công lập nghiệp, thịnh đức trường lạc (Dựng công lập nghiệp, đức dày vui mãi). Hai bên là tranh cổ Nhan Uyên vấn nhân và Tử Lộ vấn chính [*] . Lý Khác nghĩ bụng: Lẽ nào Hạ Thiệu Nghiêm vẫn còn ôm mộng làm quan sao? Lại thấy trên giá sách bằng gỗ tử đàn đó chất đầy thẻ tre, tiện tay mở vài quyển thì thấy tất cả đều là sách y, phương thuốc cổ quý hiếm. Xem ra tin đồn Hạ Lăng từng làm thái y trong cung nhà Tùy chắc không phải là giả.

A Mai nãy giờ đứng hầu bên cạnh đưa một chiếc cốc nhỏ viền vàng vẽ đầy những hoa cho Lý Khác, nói: “Công tử hãy cứ ngồi đợi một lát đã, Triệu Nhị ca sẽ cầm thuốc về nhanh thôi.”

Lý Khác nhấp một ngụm xong liền nói: “Đây là...”

A Mai ngẩn ra giây lát mới kịp phản ứng: “Công tử không phải là người gốc An Châu rồi. Đây là tập quán của chúng tôi, trong nhà có tang thì đều dùng nước đường để tiếp đãi khách.”

[*] - Nghĩa là Nhan Uyên hỏi về điều nhân, Tử Lộ hỏi về chính trị. Nhan Uyên và Tử Lộ đều là học trò của Khổng Tử.

Lý Khác “à” một tiếng, lại hỏi vu vơ: “Lang chủ [*] nhà cô ra ngoài gặp bạn, lẽ nào đều không mang theo người hầu bên mình ư? Sao lại gặp phải kiếp nạn này?”

A Mai nhìn vị công tử trẻ tuổi phong thái ngời ngời trước mặt, trong lòng không khỏi nảy sinh đôi chút rung động thiếu nữ, giọng nói cũng dịu dàng thùy mị hơn nhiều: “Hà quản gia không ở đây, bình thường chính Triệu Nhị ca là người luôn bên cạnh lang chủ. Chỉ là hôm qua lang chủ lại bảo rằng phải ra ngoài gặp một người bạn cũ đã rất lâu không gặp, không cần Triệu Nhị ca đi theo. Kết quả là... đến khi người qua đường cứu lang chủ lên, quay lại báo cho công tử, thì đã không kịp nữa rồi.”

“Nói vậy thì, hôm qua lúc lang chủ nhà cô say rượu chết đuối, Hạ đại phu ở trong phòng thuốc suốt à?” Lý Khác đảo mắt tránh ánh nhìn nồng cháy đang dán vào mình của A Mai, chậm rãi vê ngón tay hỏi.

A Mai bước vài bước đến bên cạnh Lý Khác, rót thêm chút nước đường vào trong cốc của y: “Vâng ạ! Triệu Nhị ca bảo là, hôm qua công tử ở trong phòng thuốc viết đơn, sau đó giao việc bốc thuốc cho mấy người bọn anh ấy cũng đang ở đó.”

“Cũng tức là, bình thường Triệu Nhị đều ở bên cạnh lang chủ nhà cô, chỉ có hôm qua đột nhiên bị Hạ đại phu gọi đến phòng thuốc bốc thuốc giúp y. Việc này không phải rất kỳ lạ sao?” Lý Khác nhanh chóng tóm lấy ý tứ ẩn trong lời nói của A Mai, ánh mắt từ từ xoáy vào cô.

[*] - Từ để người hầu gọi chủ nhân, hoặc thê thiếp gọi chồng, hàm ý tôn trọng.

A Mai giật mình sợ hãi trước ánh mắt dữ dội đó, nhất thời không biết nên trả lời thế nào, vô thức nhìn ra bên ngoài, lại trông thấy đằng xa Triệu Nhị đang chạy tới. Triệu Nhị vừa chạy vừa lau mồ hôi trên trán, trong tay cầm hai gói thuốc và một bình nước mật ong nhỏ, thở hồng hộc nói: “Đây là thuốc bốc theo đơn mà công tử viết, pha với nước mật ong này uống là được.”

“Thay ta cảm ơn công tử nhà cậu.” Lý Khác lấy một lạng bạc từ trong tay áo đưa cho Triệu Nhị, sau đó lại nói, “Chiều qua ta đến phủ tìm Hạ đại phu, vừa rồi nghe cô nương này bảo, mới biết Hạ đại phu cùng cậu ở trong Từ Tế đường suốt.”

Triệu Nhị thu bạc về, mồ hôi làm nhúm tóc lòa xòa của hắn bết lại trên trán: “Còn không phải sao, từ sáng sớm hôm qua công tử đã bảo tiểu nhân là muốn kê một ít thuốc chữa cảm lạnh và mẩn ngứa cho mấy cụ già nhà nghèo uống.”

“Hạ đại phu quả là một thầy thuốc nhân từ.” Lý Khác thấy mặt Thư Yểu lộ vẻ mệt mỏi, liền nói với A Mai, “Mặt trời sắp lặn rồi, nhờ cô nương chuyển lời với Hạ đại phu, giờ chúng ta về phủ trước đã, mấy hôm nữa sẽ lại đến cửa cảm ơn!”

Triệu Nhị thấy bọn họ đi xa, quay đầu lại thì bắt gặp ánh mắt si mê của A Mai, liền huơ tay trước mặt cô nói: “Anh bảo này, công tử nhà ta qua lại với nhân vật hàng đầu như vậy khi nào thế? Còn nữa, em... em ngắm trúng người ta rồi phải không? Em quên hồi nhỏ từng nói là muốn làm vợ anh rồi sao?”

A Mai đỏ mặt, phớt lờ hẳn, bưng khuôn mặt nóng bừng chạy vụt ra ngoài như làn khói, suýt chút nữa đụng phải một cây lựu trong sân.

Lý Khác và Thư Yểu còn chưa vào cửa phủ đã thấy Quý Ân hớt hải chạy tới, mặt lộ vẻ sốt ruột, nói: “Điện hạ, cuối cùng ngài cũng đã về. Vương công công trong cung tới, giờ Dương công tử đang trò chuyện với ông ta!”

“Vương công công?” Lý Khác không khỏi cau mày: “Ông ta tới làm gì? Người đưa vương phi về nghỉ trước đi, bảo Tử Đằng sắc thuốc này cho vương phi uống”

Người tên Vương Trung này là đại hoạn quan hầu hạ bên mình hoàng đế, không dễ gì rời khỏi kinh đô. Bình thường nếu hoàng đế có gì cần dặn bảo y, sẽ chỉ phái một tiểu thái giám. Lần này để Vương Trung tới, chẳng lẽ trong triều xảy ra chuyện lớn gì sao?

Song, sau gần nửa canh giờ tán gẫu với Vương Trung, Lý Khác vẫn không biết vị công công già tóc bạc này tới đây làm gì. Vương Trung uống chén trà đã nhạt toẹt từ lâu, lại quan sát Lý Khác từ đầu đến chân một lần nữa, sau đó nói: “Nô tài vẫn cảm thấy điện hạ gầy đi rất nhiều. Thân thể điện hạ vẫn khỏe mạnh thật chứ?”

Lý Khác dang hai tay, cười rằng: “Nãy giờ ông đã hỏi vấn đề này ba lần rồi, ta thật sự rất khỏe.”

“Vậy điện hạ sống ở An Châu đã quen chưa? Nô tài thấy hôm nay trời nồm ghê gớm, rất dễ sinh bệnh.” Vương Trung cầm ấm trà lên, rót thêm chút trà vào chén của mình, lần này cũng không vội uống.

Lý Khác nghĩ bụng: Có chuyện gì ngươi không thể nói rõ hơn một chút được sao? Cứ vòng vo như vậy, ngươi không mệt thì ta cũng mệt lắm rồi! Có điều y vẫn nói với giọng rất ôn hòa: “Đa tạ Vương công công quan tâm. Lý Khác ở An Châu mọi thứ đều ổn cả.”

Vương Trung dường như vẫn không chịu từ bỏ, chẳng ngại phiền hà, hỏi tiếp: “Vậy các quan viên trong phủ đô đốc An Châu cũng ổn cả chứ? Không vì điện hạ còn trẻ mà làm việc lấy lệ đấy chứ?”

Lần này Lý Khác thực sự chịu hết nổi, y không kìm được ném ánh mắt cầu cứu về phía Dương Chính Đạo đang ngồi một bên im lặng đã lâu, nào ngờ Dương Chính Đạo cũng chỉ nhìn trả lại y bằng vẻ mặt bất lực, ý nói: Người ông ta hỏi là đệ, không phải việc của ta. Lý Khác thấy vậy, cuối cùng đành phải nói: “Bọn họ cũng đều ổn cả. Không biết bệ hạ phái Vương công công đến An Châu rốt cuộc là muốn truyền đạt ý chỉ gì?”

“À thì… thực ra cũng không có chuyện gì.” Vương Trung vuốt cái cằm nhẵn thín, chậm rãi nói: “Hoàng Châu lụt lớn, bệ hạ muốn nô tài truyền chỉ cho thứ sử Hoàng Châu Tăng Truyền, trao quyền tùy nghi làm việc cho ông ta, tiện đường qua xem điện hạ có ổn không.”

Đi từ Hoàng Châu, phải tiện bao nhiêu đường mới có thể đến được An Châu đây! Lý Khác bất giác thấy hơi tức cười: “Vậy thì vất vả cho Vương công công rồi. Ông đi cả chặng đường gió bụi đến đây, chi bằng vào phòng khách trong phủ nghỉ một lát trước đã, đến giờ cơm tối ta sẽ cho nha hoàn đến gọi.”

“Vậy cũng được.” Vương Trung thấy Lý Khác luôn miệng gọi mình là “ông” trong lòng thực sự nảy sinh vài phần cảm động. Ông ta đứng dậy, lúc sắp bước đến bậu cửa thì đột nhiên quay người lại gọi một tiếng: “Điện hạ...”

“Vương công công còn có chuyện gì sao?”

“Điện hạ thực sự không biết tại sao bệ hạ bảo nô tài đến An Châu ư?” Vương Trung suy nghĩ một chút, cuối cùng vẫn nói ra những lời trong lòng, “Bệ hạ nhớ ngài. Nếu nô tài trở về nói điện hạ ở An Châu có gì không thoải mái, chắc bệ hạ sẽ bảo ngài về Trường An ngay lập tức.”

Vẻ mặt của Lý Khác không chút xao động, giọng y điềm đạm, lạnh băng: “Vậy phiền Vương công công tâu với bệ hạ, Lý Khác ở An Châu, muôn việc đều toại lòng, xin ngài không cần lo lắng.”

Vương Trung nghe xong, còn muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng cũng chỉ lắc đầu bất lực, tiếp tục đi.

“Tính tình hai cha con đệ thật sự giống hệt nhau.” Dương Chính Đạo nhìn theo bóng lưng rời đi của Vương Trung, không khỏi thở dài một tiếng, vừa đảo mắt thì đụng phải ánh mắt của Lý Khác, liền dừng ngay lời đang định nói, “Được rồi, ta không chọc đệ nữa.”

“Biểu huynh vẫn còn thù ta cơ à! Mấy hôm nay ta đã xin lỗi hơn ba lần rồi mà. Lý Khác thấy Dương Chính Đạo cứ giữ bộ dạng kính trọng mà xa cách mình, bèn kéo tay áo gã như một đứa trẻ mắc lỗi, “Ta có chuyện nghiêm túc muốn nói với biểu huynh.”

Nói rồi y cũng mặc kệ Dương Chính Đạo có chịu nghe hay không, nhất nhất kể lại tình hình trong Hạ phủ mà hôm nay y đến thăm dò được cho Dương Chính Đạo. Dương Chính Đạo nghe chuyện, không khỏi cau mày: “Giữa ban ngày ban mặt Hạ Kỷ một mình ra ngoài uống rượu, đã sơ ý uống say, còn bất cẩn trượt chân rơi xuống nước, cũng thật là kỳ lạ!”

“Còn gì nữa! Ta thà tin rằng Hạ Thiệu Nghiêm ra tay giết chú của hắn, chứ không tin mấy lời bậy bạ trượt chân gì đấy!” Lý Khác bước tới gạt then cửa sổ đang cài hờ lên, khóe miệng nhếch lên đầy mỉa mai lạnh lùng.

Dương Chính Đạo nghĩ một chút rồi mới nói: “Đệ chắc chắn tay Triệu Nhị đó không nói dối chứ? Hắn thật sự ở cùng Hạ Thiệu Nghiêm cả buổi chiều sao?”

“Trông cách hắn nói chuyện thì không giống giả. Huống hồ lúc đó trong phòng thuốc còn có hai người làm thuê khác, nghe nói, họ cũng tận mắt chứng kiến Hạ Thiệu Nghiêm đưa đơn thuốc đã viết xong cho họ đi bốc thuốc... Không, không đúng!” Trong thoáng chốc, Lý Khác dường như hiểu ra điều gì đó, sau đó liền nói ra những nghi ngờ trong lòng mình bằng giọng đều đều.

“Ý của đệ là..” Dương Chính Đạo càng băn khoăn lo lắng ra mặt: “Chuyện này cũng thật khó bề tưởng tượng, sao có thể tồn tại một người như vậy chứ?”

“Sao lại không thể? Chẳng phải Khang Kiện bảo là bình thường Hạ Thiệu Nghiêm toàn giao du với đại phu sao? Chưa biết chừng có ai đó có quan hệ cực thân với hắn.”

“Dù là thân thiết tới đâu chăng nữa, lại có kẻ cam tâm tình nguyện làm những chuyện kiểu này giúp hắn sao? Còn cả thời cơ, động cơ nữa, đệ đã nghĩ đến chưa?”

“Ta không biết. Ta chỉ cảm thấy toàn bộ sự việc này đều vô cùng kỳ quặc. Khang Kiện từng nói, mối quan hệ giữa Hạ Kỷ và Hạ Thiệu Nghiêm tương đối lạnh nhạt. Song Hạ Thiệu Nghiêm mà ta thấy hôm nay lại đau lòng cùng cực, đương nhiên cái này rất có thể là vờ vịt cho người ngoài xem. Nhưng... nhất thiết phải vờ vịt sao? Vờ vịt thái quá, trái lại sẽ thành giấu đầu hở đuôi.” Nụ cười khẩy nơi khóe miệng Lý Khác càng hằn rõ.

“Nhưng đó cũng chỉ là suy đoán của đệ thôi.” Dương Chính Đạo lắc đầu, “Ta luôn cảm thấy, mối nghi ngờ của đệ đối với Hạ Thiệu Nghiêm xuất phát từ thành kiến của đệ với hắn, mà tất cả những nghi ngờ thiết lập trên cơ sở thành kiến đó, thực chất không đứng vững được, không phải sao?”

“Ta với hắn vốn chẳng quen biết, lấy đâu ra thành kiến?” Lý Khác phản bác, “Chính huynh quan sát thấy đơn thuốc đó có vấn đề trước, cũng chính huynh phát hiện ra tiểu lang quân ra vào Từ Tế đường là nha hoàn lầu xanh Huệ Lan. Giờ huynh lại bảo mối nghi ngờ của ta hoàn toàn xuất phát từ thành kiến?”

Dương Chính Đạo nói lập lờ: “Ta chỉ nói ra sự thật hiện lên bề ngoài thôi, chính đệ đã trao thành kiến cho những sự thật này... đó chỉ là suy đoán chủ quan thôi. Ví dụ như đơn thuốc đó, lẽ nào không thể chỉ là Hạ Lăng tiện bút viết bừa? Hay như Huệ Lan, chẳng nhẽ một công tử trẻ tuổi đẹp trai sáng sủa như Hạ Thiệu Nghiêm không thể tìm một, hai hồng nhan tri kỷ trong lầu xanh sao?”

Tay phải Lý Khác xoa nhẹ viên ngọc mỡ dê trên cổ tay, mắt dần tối lại: “Có lẽ huynh nói đúng, có lẽ mọi chuyện liên quan đến Hạ Thiệu Nghiêm đều chỉ là phỏng đoán của ta mà thôi.”

Dương Chính Đạo nghe y nói vậy, chợt nhớ lại tết Nguyên tiêu năm nọ, trên thảo nguyên mênh mông ở Đột Quyết, người đàn bà đó đã nói với gã bằng giọng trịnh trọng: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cháu đều phải toàn tâm toàn ý hỗ trợ nó, bất kể cháu coi nó là em trai, là bạn, hay là chủ nhân. Gã hỏi: Nếu cháu không giúp nổi y thì phải làm thế nào? Người đó nói: Làm tất cả những gì cháu có thể! Nếu vẫn không được, vậy thì đó là số mệnh của nó, cũng là số mệnh của cháu. Nghĩ đến đây, gã liền vỗ nhẹ vào tay Lý Khác: “Không sao, đó có lẽ là phỏng đoán của ta thôi. Ngày mai chúng ta cùng đến bờ sông Lưu Vận xem thử. Giờ đệ nghỉ ngơi trước đi, lát nữa dùng bữa tối không biết Vương công công còn muốn làm phiền đệ như nào nữa đâu!”

“Đợi đã biểu huynh..” Lý Khác thấy Dương Chính Đạo quay người sắp đi, liền gọi giật gã lại, “Tại sao?”

“Tại sao cái gì?” Lông mi Dương Chính Đạo khẽ động, gã không hiểu hỏi lại.

Lý Khác nghiêm nghị nói: “Tại sao biểu huynh phải đến An Châu? Từ lâu bệ hạ đã có ý coi trọng huynh, một chức tư mã phủ đô đốc có thể giữ chân được huynh sao?”

“Năm đó ta và bà nội từ Đột Quyết trở về, cho dù bệ hạ dùng nghi lễ long trọng nhất, cho dù Giang Hạ vương đối đãi với chúng ta có thừa tôn kính, nhưng ta vẫn cảm thấy sợ hãi, sợ hãi vì cảm giác lạc lõng bơ vơ” Dương Chính Đạo ung dung nói, chỉ là khó giấu nổi nét đau buồn nhàn nhạt giữa hai hàng lông mày, “Ta không dám đối mặt với ánh mắt hoặc thương hại hoặc chế giễu của một đám người lạ, vì vậy ta đã rút khỏi bữa tiệc tối đó giữa chừng. Sau đó ta gặp đệ ở đình Quy Vân, chính một tiếng ‘biểu huynh’ đó của đệ đã cho ta biết rằng, có lẽ ta có thể coi nơi đây là nhà.”

Lý Khác vì mấy câu này của gã mà thấy cay cay nơi sống mũi. Lúc đó, đại quân triều đình thắng trận trở về từ Đột Quyết, khắp nơi ăn mừng, Lý Thế Dân mở đại tiệc đãi quần thần trong điện Sùng Đức. Chẳng ai muốn nhớ đến những chuyện làm mất vui, mà hôm đó cũng là ngày giỗ của mẹ Lý Khác. Lý Khác đã rời khỏi đám đông từ sớm, một mình đi đến đình Quy Vân. Mai đỏ nở hoa, từng làn hương thơm thoang thoảng quanh quẩn trong không trung. Lý Khác thẫn thờ hồi lâu, đến khi nghe thấy tiếng bước chân đằng sau dần lại gần, mới quay đầu lại. Pháo nổ đì đùng, khói hoa lóa mắt. Lý Khác khẽ gật đầu với gã, gọi một tiếng: “Biểu huynh.”

Có lẽ vì thấy trên mặt Dương Chính Đạo có một chút bi thương chẳng ăn nhập gì với bầu không khí của buổi tiệc lớn giống mình, Lý Khác gần như không buồn suy nghĩ, kể hết những tâm sự chất chứa đã lâu cho gã. Y nói: “Biểu huynh, mẹ ta chết trong một âm mưu lớn, ta không cam lòng để chân tướng bị chôn vùi mãi mãi.”

Dương Chính Đạo yên lặng lắng nghe, đến khi nghe y nói ra câu này, mới chăm chú nhìn y, nói với giọng điệu kiên định khác thường: “Nếu điện hạ bằng lòng, ta sẽ mãi mãi ở bên cạnh giúp đỡ ngài.”

Qua song cửa, ánh chiều tà từ từ chiếu lên khuôn mặt của Lý Khác. Y không hồi tưởng lại nữa, chỉ chầm chậm siết bàn tay thành nắm đấm.

Giờ Thìn ngày hôm sau, Lý Khác và Dương Chính Đạo đích thân tiễn Vương Trung lên xe ngựa, làm ông ta cảm động suýt nữa thì lã chã tuôn rơi giọt lệ già. Tiểu thái giám Sĩ Lộc cúi người hành lễ tạm biệt họ xong, liền đánh xe chạy một mạch như bay. Dương Chính Đạo thở phào, không nhịn được ngáp một cái nói: “Đêm qua ta cùng vị Bồ tát này nói chuyện mãi đến giờ Dần, cuối cùng ông ta mới buông một câu, rốt cuộc vẫn là Dương công tử trẻ tuổi, sinh lực dồi dào. Ông ta không nhìn ra, rõ ràng ta đã díp cả mắt lại.”

Lý Khác nghe gã than phiền như vậy, không khỏi phì cười: “Dương công tử vất vả rồi, đợi cuối năm ta sẽ phát thêm một tháng bổng lộc cho huynh, được không?”

“Lần sau ông ta đến nữa, ta sẽ cho đệ ba tháng bổng lộc của mình, đệ đi mà tiếp chuyện ông ta!” Dương Chính Đạo dụi đôi mắt khô khốc, sau đó nói với Quý Thành ở bên cạnh: “Đi chuẩn bị ngựa đi, ta và điện hạ phải ra ngoài.”

Từ phủ đô đốc phi nước đại một mạch về phía Tây Bắc hơn nửa canh giờ là đến sông Lưu Vận. Nghe nói vào thời Tây Tấn, trưởng sử An Châu Du Bành kiến nghị triều đình xây đắp đê điều ở bên cạnh sông Lưu Vận, đề phòng xảy ra lũ lụt. Ai ngờ các đại thần trong triều khi đó nhìn chung đều cho rằng Du Bành lo bò trắng răng, bèn lấy lý do triều đình mới lập, quốc khố trống rỗng để bác bỏ đề nghị của ông ta. Du Bành không nản lòng, không chỉ dốc hết gia sản, mà còn động viên bạn bè người thân bỏ tiền ra xây dựng. Trong hơn ba trăm năm sau đó, con đê này đã chặn đứng ít nhất năm trận lũ lụt lớn, đến nay vẫn sừng sững chưa sập.

Bầu trời xám xịt, bốn bề mưa nhỏ lất phất, chốc chốc còn vang lên cả mấy tiếng sấm. Xung quanh sông Lưu Vận ít thấy khói bếp, dù là ban ngày nhưng vẫn có một luồng khí lạnh lẽo âm u. Lý Khác bước chậm rãi trên bờ đê thênh thang, nhìn nước sông trôi lững lờ, trong lòng càng thêm chắc chắn: “Con đê rộng lớn như này, bất kể thế nào cũng đâu đến nỗi trượt chân rơi xuống sông. Huống hồ Hạ Kỷ khi không lại một mình chạy đến đây làm gì?”

Dương Chính Đạo ngồi trên ghế đá bên bờ, lấy tay lau những giọt mưa rơi trên má: “Vậy thì Hạ Thiệu Nghiêm... đúng là có chút thú vị.”

Trong lúc nói chuyện, thấy có một chiếc thuyền nhỏ đang trôi chầm chậm về phía này, Dương Chính Đạo vội vàng vẫy tay với ông lái thuyền. Ông lái thuyền sang sảng đáp một tiếng, rồi chèo mạnh tay hơn. Khi sắp đến gần, ông lái thuyền mới bỏ nón lá trên đầu xuống, giũ nước mưa trên áo tơi, nói: “Hai vị công tử muốn qua sông à?”

Dương Chính Đạo đặt một xâu tiền xu vào trong tay ông lão: “Tôi muốn hỏi thăm ông một chuyện. Chiều hôm qua có một người đàn ông trung niên ngoài ba mươi tuổi chết đuối ở sông Lưu Vận, ông có biết không?”

Ông lái thuyền hơi ngập ngừng bỏ xâu tiền vào trong chiếc giỏ tre ở bên cạnh, gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Già không tận mắt trông thấy, chỉ nghe người anh em trong nhà kể, lúc vớt lên ấy à, khuôn mặt của cậu ta đã trương lên rất to, đáng sợ lắm! Tôi nói mấy lần rồi, sợ là ma nước dưới sông đã quấn lấy cậu ta!”

“Hả? Ông nói vậy nghĩa là sao?” Dương Chính Đạo tò mò hỏi.

Ông lão buộc thuyền vào cây liễu lớn ở trên bờ, nói: “Thấy bảo trên mặt cậu ta có mấy vết cào. Không biết hai vị đã nghe qua chưa, mấy năm trước ở vùng này có ma quỷ lộng hành.”

“Mấy năm trước sao?” Lý Khác cũng thấy hào hứng: “Mong được nghe rõ.”

Ông lái thuyền ngồi khoanh chân trên sàn, vết sẹo hằn sâu trên gò má gầy nhom: “Vào một đêm chừng ba năm về trước, người anh em đó của tôi đưa một người phụ nữ và con gái của cô ta qua sông, khi đến giữa sông, thuyền bỗng ngày càng nhẹ đi, ngoảnh đầu nhìn thì đã không thấy hai mẹ con họ đâu, làm người anh em của tôi sợ đến nỗi đổ bệnh hai ngày.”

Lý Khác thấy ông lái thuyền kể chuyện sinh động như thật, thầm nghĩ chắc ông ta có thể kết nghĩa với Khang Kiện được đây: “Sau đó thì sao? Không ai nhìn thấy mẹ con họ nữa ư?”

“Đúng thế! Không thì sao gọi là ma quỷ lộng hành chứ!” Ông lái thuyền ngồi thẳng người, xếp ngay ngắn chiếc nón lá ở bên cạnh, “Người anh em của tôi không yên tâm, còn đến nha môn báo án. Nha môn phái mấy người tới, cũng chẳng thu được kết quả gì. Sau đó còn có một lão hòa thượng vân du bốn phương qua đây, khẳng định là họ bị con ma ở dưới sông bắt đi, không thì sao lại sống không thấy người, chết chẳng thấy xác chứ! Nghĩ lại thì cái cậu chết hôm qua cũng là bị bắt đi, ai ngờ con ma đó không vừa mắt với cậu ta, nên mới đem trả lại.”

Lý Khác cúi người nhặt mấy hòn đá nhỏ ở cạnh chân ném xuống sông, mặt sông lập tức gợn sóng lăn tăn. Ma nước? Mấy lời bậy bạ này có ma mới tin. Ông lái thuyền đó chưa nhìn ra tâm tư của y, vẫn ngồi đó dông dài lải nhải những chuyện mà bản thân tin sái cổ.

Khi ông lái thuyền kể đến hôn sự của đứa con thứ năm của ma nước dưới sông, mưa đã dần mau hơn. Dương Chính Đạo đành đưa thêm cho ông lão một xâu tiền xu, mua hai chiếc nón lá và áo tơi trong khoang thuyền của ông ta, với lại để cho ông ta về nhà sớm một chút, khỏi cần kể chuyện nữa. Ông lái thuyền ước lượng số tiền xu, giận dỗi nói gì đó, rõ ràng là kể vẫn chưa hết hứng.

Hai con ngựa trắng sánh bước cạnh nhau, Lý Khác kéo dây cương, vuốt bộ bờm ngựa mềm mại nói: “Cuối cùng biểu huynh cũng biết trả người khác tiền xu, chứ không phải vàng bạc ngọc ngà nhỉ!”

Dương Chính Đạo kéo nón lá xuống thấp hơn một chút, vừa đủ để chắn nước mưa tạt thẳng vào mặt: “Đây vẫn là khoản tiền trà mà lần trước ta đã tìm Lưu lục sự đòi hoàn trả. Vị quản gia này của đệ tính toán chi li thật, không đưa thêm dù chỉ một đồng.”

Lý Khác không khỏi bật cười: “Huynh mà thiếu tiền tiêu sao?”

Dương Chính Đạo hỏi lại: “Tại sao ta không thể thiếu tiền?”

“Tuyết Lộ cũng đâu cần nhiều sính lễ của huynh như thế.” Lý Khác ngứa miệng lẩm bẩm, nhưng ngay sau đó lại cảm thấy câu này rất không hợp thời điểm, liền cố ý cao giọng hỏi: “Tối nay huynh có hứng cùng ta đến Hạ phủ một chuyến không?”

Dương Chính Đạo dường như không nghe rõ câu trước của y, chỉ nghiêng đầu nhìn y nói: “Đệ... chắc không định đường hoàng mà đến phải không?”

Lý Khác gật đầu, nói với vẻ đương nhiên: “Chúng ta trèo tường vào.”

Dương Chính Đạo dở khóc dở cười: “Nhưng đệ đường đường là...”

“Ta thật sự muốn làm trộm một lần,” Lý Khác ngắt lời gã, nghiêm túc nói, “huynh cứ ở bên ngoài canh cho ta là được rồi.”

“Đệ cho rằng trộm chạy không được mà kẻ canh chừng lại chạy được sao?” Dương Chính Đạo khẽ thở dài một tiếng, đầy hàm ý sẵn sàng bỏ mạng theo quân tử: “Cùng nhau đi thôi, mấy năm nay những nơi kỳ quái mà ta và đệ đi còn ít sao?”

“Vậy đúng giờ Tý đêm nay chúng ta sẽ xuất phát.” Lý Khác vỗ lưng ngựa một cái, con ngựa trắng phi như bay về phía trước, chỉ còn lại giọng nói của y vang vọng trong không gian.

Cho dù nhà họ Hạ không được coi là gia đình phú hào hạng nhất ở An Châu, nhưng tường bao lại được xây cao ngất ngưởng. Tuy Lý Khác chăm chỉ học cưỡi ngựa bắn cung từ nhỏ, nhưng công phu trèo tường này vẫn kém xa Dương Chính Đạo. Sau ba lần thất bại, y đành phải xé đai lưng của cả hai thành những dải vải mảnh, buộc nối chúng lại rồi cột vào hàng rào để mượn lực trèo lên. Hành động ấy gây ra động tĩnh không nhỏ, may mà hai gia đinh trông cửa của Hạ phủ sau một ngày một đêm túc trực bên linh cữu đã mệt đến nỗi ngồi trên bậu cửa ngáy khò khò.

Về khoản mù đường thì Lý Khác và Dương Chính Đạo giống nhau một cách kỳ lạ. Thế nên sau khi đi lòng và lòng vòng một lúc lâu, hai người mới tìm được linh đường của Hạ Kỷ. Hạ Thiệu Nghiêm quỳ gối trên chiếc bồ đoàn ở trước quan tài, người hơi nghiêng ngả, như thể đang ngủ gật, hai tiểu nha hoàn mặc đồ trắng ở bên cạnh vẫn ném tiền giấy vào trong chậu đồng, không biết đang nói chuyện gì.

Dương Chính Đạo lấy ra hai viên đá lửa từ trong túi áo, châm ba nén hương trong tay, mùi hương nhanh chóng lan vào trong linh đường, ba người từ từ ngã xuống. Bây giờ Lý Khác mới cởi chiếc khăn ướt che mũi miệng xuống, thở phào nói: “Hương này lợi hại thật! Ở đâu ra vậy?”

“Mê hương của Tây Vực, ta lại thêm vào trong đó mấy vị thuốc an thần, xem ra hiệu quả không tồi? Dương Chính Đạo ngắt tắt ba nén hương, tiện tay vứt vào trong bụi cỏ bên cạnh.

Lý Khác cười: “Biểu huynh làm những chuyện trộm gà bắt chó kiểu này hợp thật đấy!”

Dương Chính Đạo lườm y, cũng chẳng nói gì, chỉ lo bước nhanh về phía trước, thấy cả ba người đã nằm mê man bất tỉnh dưới đất, liền yên tâm gõ vào chiếc quan tài trước mặt. Xem ra nó được làm bằng gỗ tường thượng hạng, chất gỗ rất cứng. Lý Khác ở bên cạnh cảm khái: “Hạ Thiệu Nghiêm đúng thật là không tiếc vung tiền...

Nghe tiếng mèo kêu đêm khàn khàn từ bên ngoài vắng tới, rốt cuộc Lý Khác cũng có tật giật mình, khẽ rùng mình, nuốt ngay những lời định nói tiếp theo xuống. Dương Chính Đạo vươn tay đẩy nắp quan tài, hạ giọng: “Còn ngây ra đấy làm gì? Mau qua giúp ta đi!”

Lúc này Lý Khác mới tiến lên hai bước, đẩy mạnh nắp quan tài về phía trước vài cái. Hạ Kỷ trong quan tài mặc áo liệm màu đỏ, sắc mặt nhợt nhạt đáng sợ, như ông lái thuyền đã nói, trên má có mấy vết thương dài và mảnh, tứ chi sưng to tướng, có thứ gì đó như rêu xanh bám trong móng tay hắn. Hai tay thi thể siết chặt lại thành nắm đấm, vì đã cứng đờ từ lâu nên Lý Khác cố hết sức mới cạy ra được, thấy tay phải có nắm một mảnh nhỏ thứ gì đó dạng sợi.

Dương Chính Đạo ấn mạnh vào phần phổi của thi thể, lập tức có nước bùn từ trong mũi miệng chảy ra. Gã vừa dùng khăn lau sạch tay mình, vừa nói: “Phần phổi có một lượng nước ứ đọng lớn, vết bầm tử thi trên tay hiện màu đỏ nhạt, nang lông có tình trạng phồng lên rõ ràng. Nhìn thi thể thì đích thị là chết đuối.”

Lý Khác gật đầu, nghĩ bụng: Bình thường huynh thích đọc sách y, cuối cùng đến lúc then chốt cũng có thể dùng được đôi chút. “Nhưng nhìn vết cào trên mặt hắn cùng vết siết trên cổ tay thì không giống chẳng may rơi xuống nước mà chết. Nói rồi Lý Khác lại không kìm được nhìn xuống Hạ Thiệu Nghiêm đang ngã nằm trên mặt đất, “M