← Quay lại trang sách

Chương 9 Từng qua bể lớn

Từ khi mang thai, Kỳ Úc luôn cảm thấy uể oải, ngay cả sân cũng chẳng mấy khi ra chứ đừng nói là ra ngoài phủ. Thân hình nàng hơi đẫy đà ra, nhưng so với thời con gái tự nhiên lại tăng thêm mấy phần duyên dáng mặn mà.

Cẩm Quỳ thấy cơ thể Kỳ Úc ngày càng nặng nề, không khỏi xót xa nói: “Hóa ra mang thai em bé lại vất vả như thế, sau này em sẽ không ghét mẹ hay cằn nhằn nữa.

Kỳ Úc cười: “Là hai em bé đấy! Tam lang nói, trai hay gái chàng đều thích cả. Nhưng theo ý riêng thì ta lại thích con trai hơn. Hai đứa con trai giống chàng, nghĩ thôi đã thấy thú vị lắm rồi.”

Cẩm Quỳ kê một cái gối dựa vào sau gáy Kỳ Úc, để nàng nằm được thoải mái hơn, rồi cầm chiếc quạt tơ tằm phe phẩy bên cạnh nàng, vừa quạt vừa nói: “Không phải lần trước vương phi bảo đầu bếp của Dương phủ nấu món gà xào bát bảo và xương cá xốt rất ngon sao? Vừa nãy An Lăng huyện chúa đặc biệt sai người mang hai món này sang, đến bữa tối hâm nóng lại là ăn được rồi.”

“Tuyết Lộ tỉ tỉ thật tốt! Chị ấy còn đang trong tháng mà vẫn nhớ ta thích ăn gì. Kỳ Úc cầm quyển Chiêu Minh văn tuyển ở bên cạnh lên, đọc được một chút thì lại đặt xuống nói, “Đang là giờ gì rồi?”

Cẩm Quỳ nhìn chiếc đồng hồ cát cạnh bức bình phong gỗ thông đỏ khảm ngọc rồi nói: “Mới qua giờ Thân, nếu vương phi thấy mệt thì ngủ một lúc đi ạ.”

Kỳ Úc gật đầu, đang định tháo cây thoa ngọc hình hoa dâm bụt đỏ cài trên tóc xuống, thì nghe thấy bên ngoài vọng tới tiếng bước chân nhẹ nhàng, theo sau là tiếng gọi khe khẽ của Bạch Đàn: “Tứ cô nương chậm thôi, chắc vương phi đang nghỉ trưa!”

Miên Man mặc một bộ áo váy màu cánh sen hình trăm bươm bướm bay xuyên hoa, tóc búi kiểu bách hợp gọn gàng, bên trên cài hai đóa hoa nhỏ màu hồng cùng một chiếc thoa mẫu đơn, trông rất xinh đẹp đáng yêu. Cô chạy vào từ phía sau bức bình phong, lanh lợi nói: “Nhũ mẫu nói rồi, người có thai không được nằm suốt ngày. Em đến nói chuyện với tỉ tỉ, không phải rất tốt sao?”

Vốn dĩ Kỳ Úc cũng không buồn ngủ mấy, thấy cô tới, tất nhiên vô cùng hào hứng, vội chào hỏi: “Tứ muội sao lại đến vào giờ này?”

Miên Man cầm một chiếc quạt tròn trên bàn lên, quạt thật lực cho mình, mãi đến khi thấy mát hơn đôi chút mới xua tay, bảo đám hầu gái trong phòng ra ngoài đợi, còn mình thì ngồi xuống bên cạnh Kỳ Úc cười ngượng ngùng: “Tất nhiên là có việc mừng muốn kể với tỉ tỉ.”

Kỳ Úc thấy cô như vậy, tuy trong lòng đã đoán được tám chín phần, nhưng chỉ day huyệt thái dương, giả bộ trầm tư nói: “Việc mừng gì? Cha em được thăng quan, hay là anh trai em lại sắp thành hôn?”

Miên Man dẩu môi, khẽ giậm chân, hai mắt sáng lên, dáng vẻ động lòng người: “Đều không phải, không phải! Là việc của chính em, em sắp xuất giá đến nơi rồi!”

Kỳ Úc thấy cô không giấu nổi niềm vui trên khuôn mặt, khóe môi cũng hé nở nụ cười tươi tắn: “Là vị lang quân tài giỏi nào có phúc như vậy, tam công tử của Phòng tướng gia hay ngũ công tử của Trưởng Tôn công gia, hình như Kỷ vương điện hạ cũng đến tuổi thành hôn rồi thì phải?”

“Tỉ tỉ cứ đoán mối tốt hơn nữa đi!” Miên Man cúi đầu xoa nghịch chiếc nhẫn bạch ngọc trên ngón tay, mặt lộ vẻ đắc ý mà chính cô cũng chưa phát hiện ra, “Lẽ nào tỉ tỉ quên những lời em nói hồi đó rồi sao?”

“Là thái tử?” Kỳ Úc hơi cau mày lại. Tuy đúng là năm ngoái Miên Man từng nói rằng, không phải thái tử thì không lấy, nhưng Kỳ Úc luôn cảm thấy đó chỉ là lời nói đùa mà thôi, không ngờ cô bé lại cho là thật. Cho dù vật đổi sao dời, thái tử hiện nay không phải là thái tử lúc đó, Miên Man cũng không quan tâm ư? Người Miên Man muốn lấy, lẽ nào chỉ là “thái tử” thôi sao? Kỳ Úc kéo tay cô nói: “Tứ muội thật lòng muốn lấy thái tử sao? Nếu không muốn, ta sẽ bảo ông trẻ nói với bệ hạ, cũng không phải là không có lý do để thoái thác.”

Miên Man không nhìn ra nỗi lo của Kỳ Úc, vẫn hết sức hào hứng, đôi mắt lấp lánh rạng rỡ dưới ánh mặt trời, đầy khát khao và mong mỏi: “Tỉ tỉ nói đùa à, chính Tiêu công tiến cử em với bệ hạ làm lương đệ [*] của thái tử. Cha vui vẻ, trong lòng em cũng vui vẻ. Hơn nữa, em thường nghe người ta nói, thái tử hiện nay không giống thái tử trước kia, là một lang quân cực tốt.”

[*] - Một tước hiệu của phi tần của thái tử.

Là ông trẻ tiến cử sao? Kỳ Úc thầm lấy làm lạ. Nàng bỗng nhớ đến lời ông trẻ nói trước khi mình xuất giá: “Đối với con, đối với họ Tiêu nhà chúng ta, có lẽ y không phải là chàng rể phù hợp nhất. Mà lúc cha còn sống cũng từng buột miệng nói rằng: “Ông trẻ của con thích Ngô vương, chỉ đáng tiếc, với thân phận của Ngô vương, sợ là không được như những gì ông ấy muốn.”

Trước đây nàng không hiểu ý tứ trong đó, bây giờ thì đã đoán được tám, chín phần. Có lẽ ban đầu người mà ông trẻ muốn nàng lấy nhất là Tấn vương, cũng chính là thái tử hiện nay. Ông ấy biết thái tử lúc đó và Ngụy vương như hai hổ tranh nhau, ắt đều sẽ có thương vong, và chỉ Tấn vương là được lợi. Ông ấy muốn nàng ở bên cạnh Tấn vương để làm tai mắt, thường xuyên kể cho ông ấy động tĩnh của Tấn vương, tiếp đó, giúp Ngô vương nên chuyện. Nhưng Ngô vương sẽ không bằng lòng, nàng biết. Cho dù có rất nhiều người đẩy chàng tiến tới, nhưng không bằng lòng vẫn là không bằng lòng. Kỳ Úc nghĩ ngợi, bất giác thấy lòng lạnh hẳn đi.

Miên Man nắm chặt đôi tay hơi run rẩy của Kỳ Úc, tâm hỏi: “Trời nóng thế này, sao tỉ tỉ lại rùng mình?”

Kỳ Úc thở dài một hơi, cố bình ổn lại tâm trạng: “Cha em có nói với em, sau khi gả cho thái tử sẽ phải làm những gì không?”

“Làm gì cơ?” Miên Man chớp đôi mắt sáng, suy nghĩ rồi nói, “Tất nhiên bảo em phải lo liệu chuyện trong cung cùng thái tử phi cho tốt, không để thái tử phải lo lắng về sau.”

Kỳ Úc buông tay cô ra, bấy giờ mới hơi yên tâm, ngắm nhìn đôi uyên ương sinh động như thật được thêu trên chiếc màn thất bảo, mãi sau mới nói: “Tứ muội phải biết, thái tử phi xuất thân họ Vương ở Thái Nguyên, thân phận cao quý. Không chỉ thái tử kính trọng cô ta, mà ngay cả bệ hạ cũng khen cô ta là ‘vợ quý’ đấy!”

Gương mặt Miên Man hơi mơ màng, nhưng ngay lập tức lại lộ ra vẻ khinh thường: “Em biết. Nhưng con cháu họ Tiêu chúng ta không kém gì nhà họ Vương bọn họ, tài mạo của em ngẫm cũng không thua thái tử phi. Tỉ tỉ cứ yên tâm, Ngô ưng điện hạ đối xử với tỉ tỉ thế nào, sau này nhất định em cũng có thể khiến thái tử đối xử với em thế ấy.”

Kỳ Úc xoa nhẹ bụng dưới, chỉ cảm thấy con đang khẽ duỗi hai chân ở bên trong, niềm hạnh phúc sắp được làm mẹ đã dễ dàng át đi bao ưu sầu không đâu vừa thoáng qua trong đầu: “Ngô vương... tất nhiên là rất tốt rồi.”

“Rất tốt là tốt như thế nào?” Miên Man đứng dậy, nghịch giọt nến đọng trên giá nến bằng gỗ vân rồng, rồi lại ngồi xuống, khẽ khàng nói với giọng điệu thẹn thùng thiếu nữ: “Hiện giờ tỉ tỉ đã mang thai được hơn năm tháng rồi, lẽ nào Ngô vương vẫn chịu đựng được không đi tìm cô gái khác sao?”

“Em là một cô nương chưa xuất giá, trong đầu lại toàn nghĩ cái gì thế hả?” Kỳ Úc không khỏi ngượng ngùng, vỗ mu bàn tay cô khẽ mắng.

“Rốt cuộc có hay không?” Miên Man sán lại gần thêm, gặng hỏi.

Đôi mắt Kỳ Úc sóng sánh ánh nhìn trong veo, nàng nói khẽ: “Là tự chàng không đi tìm, chị chưa từng ngăn cản chàng.”

“Tỉ tỉ thật là hạnh phúc.” Miên Man ngạc nhiên mừng rỡ nói, song ngay sau đó lại đâm ra lo lắng, “Nhưng nếu cứ tiếp tục như vậy, e là tỉ tỉ sẽ mang tiếng là vợ dữ uống giấm giống Phòng phu nhân.

Phòng Huyền Linh và vợ lớn lên cùng nhau từ nhỏ, tình sâu nghĩa nặng, ông ta không chỉ không nạp thiếp, mà ngay cả hầu gái trong phòng cũng không có. Lý Thế Dân nghĩ đến Phòng Huyền Linh vất vả nhiều năm, nhân dịp tết có ban cho ông ta ba, bốn cung nữ dung mạo xinh đẹp. Nào ngờ Phòng phu nhân không chấp nhận, lập tức ép Phòng Huyền Linh trả về. Lý Thế Dân cảm thấy mất mặt, sai Vương Trung đưa cho Phòng phu nhân một chén rượu độc trị tội kháng chỉ. Phòng phu nhân chỉ nói một câu, thà chết cũng không cho Phòng Huyền Linh nạp người phụ nữ khác, rồi lập tức một hơi uống cạn rượu độc, uống xong lại cảm thấy rượu độc có vị chua chát, hóa ra là một chén giấm cũ lưu cữu. Từ đó, từ “uống giấm” được lưu truyền rộng rãi trong thành Trường An.

Kỳ Úc không khỏi phì cười: “Không có đâu. Người đời nếu biết, sẽ chỉ nói tam lang sợ vợ thôi. Nhưng xem ra chàng cũng sẽ lấy đó làm vui.”

Tam lang. Miên Man nhấm nháp hai chữ này trong lòng, giống như ăn miếng bánh hoa quế khiến người ta mê say, chỉ cảm thấy ngọt lịm nơi đầu lưỡi. Cô nhìn Kỳ Úc lần nữa, bên tai lại văng vẳng lời cha nói mấy năm về trước: “Người như Kỳ Úc tỉ tỉ của con, đương nhiên phải được gả cho người đàn ông tốt nhất trên đời. Cô hỏi cha: “Ai mới là người đàn ông tốt nhất?” Cha cô suy nghĩ hồi lâu rồi mới bứt râu than thở: “Có lẽ không phải hoàng đế bây giờ, mà là hoàng đế sau này.”

Mấy người anh trai của Miên Man đều làm quan ở ngoài, chị hai, chị ba đã mất khi còn nhỏ, chị cả và cô tuổi tác chênh nhau rất lớn, lại không phải cùng một mẹ, tất nhiên không có tình cảm gì. Vì vậy, khi Tiêu Huyễn dẫn Kỳ Úc tới nhà cô làm khách lần đầu tiên, cô đã thích mê, nằng nặc đòi cha giữ Kỳ Úc ở lại thêm vài ngày. Ở cùng Kỳ Úc càng lâu, cô càng ngưỡng mộ. Kỳ Úc có tướng mạo xuất chúng, giỏi văn hay võ, tương lai lại có thể được gả cho “người đàn ông tốt nhất”, dù sau đó Tiêu Huyễn qua đời, nhưng vẫn có rất nhiều người thương yêu, quan tâm Kỳ Úc.

Nhưng bỗng một hôm, cô nghe được Ngô vương đã làm ra những hành vi đáng kinh ngạc ở Tô phủ, biết người Kỳ Úc sắp lấy không phải hoàng đế cũng không phải thái tử, mà là Ngô vương. Chẳng biết tại sao, trong lòng cô bỗng nhẹ nhõm chưa từng có. Kỳ Úc đã không lấy thái tử, vậy thì để cô lấy! Có lẽ chỉ như vậy, cô mới có thể sống tốt hơn Kỳ Úc. Chắc ngay cả bản thân cô cũng không nhận ra, hôm nay cô đến kể cho Kỳ Úc chuyện mình được hứa gả cho thái tử, thực ra cũng có ý định khoe khoang. Nhưng vừa rồi, khi nghe Kỳ Úc kể về tình cảm giữa mình và Ngô vương một cách tự nhiên như thế, cô bỗng nhiên lại thấy hơi trống rỗng trong lòng. Song sự trống rỗng đó cũng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc, cô ngẩng đầu lên, cắn môi vẻ tự phụ.

“Tứ muội đang nghĩ gì vậy?” Kỳ Úc nhìn khuôn mặt không ngừng thay đổi biểu cảm của Miên Man, “Hôn sự đã định, giờ chắc trong nhà đang chuẩn bị của hồi môn cho em nhỉ?”

Miên Man sực tỉnh, trong mắt lại có thêm vài phần hí hửng: “Của hồi môn đã chuẩn bị xong từ mấy năm trước rồi, chỉ là vẫn thiếu một ít đồ ngọc, tỉ tỉ đi chọn cùng em được không?”

Kỳ Úc nhìn bụng dưới đã lùm lùm của mình, vô thức lắc đầu: “Không được, hôm trước thái y đến khám vừa bảo, song thai hiếm có, nhưng sợ lúc sinh sẽ khó khăn, cho nên thường ngày vẫn cần tĩnh dưỡng là trên hết.”

Miên Man lắc tay Kỳ Úc, nũng nịu: “Em không chịu! Trước đây tỉ tỉ thích ra ngoài cưỡi ngựa bắn cung như thế, giờ đã tĩnh dưỡng tận mấy tháng trời, lẽ nào không khó chịu sao? Đi đi mà... xe ngựa nhà em đang ở bên ngoài, tỉ tỉ mang theo hai ba nha hoàn để hầu hạ, đảm bảo là không có chuyện gì.”

Kỳ Úc do dự một lát rồi mới khẽ gật đầu: “Vậy gọi Bạch Đàn, Cẩm Quỳ vào đây đi.”

Trong ngày, từ giờ Dậu cho đến hoàng hôn là thời điểm các phường của thành Trường An náo nhiệt nhất, cửa nẻo các nhà đều mở rộng, họ đi khắp hang cùng ngõ hẻm, gặp người quen thì hàn huyên vài câu, có lúc đang mải chuyện lại chợt nhớ ra trên bếp đang đun nồi cơm, thế là đành nói câu đắc tội, rồi tất tả chạy về nhà.

Đầu đội mũ sa nhẹ, người mặc áo cộc tay, Trương Nhị Bảo cầm khăn lau trên tay, đang lau chùi cẩn thận từng li một đôi ngọc bội Bồ Tát hoa sen vừa mới mài xong hôm qua, nhưng miệng thì lại chửi chưởng quỹ keo kiệt, ngay cả một lạng tiền công mà còn nợ đến hai ngày. Bỗng hắn liếc thấy cỗ xe ngựa bốn bánh nguy nga lộng lẫy dừng ở ngoài quán nhỏ, bất giác mắt sáng lên, thầm nhủ có khách quý đến cửa, vận may tới rồi, bèn tiện tay vứt chiếc khăn lau lên con lạc đà bằng bạch ngọc thời Hán ở đằng sau, ba chân bốn cẳng chạy ra cửa.

“Mời các vị vào. Trương Nhị Bảo tươi cười vồn vã, liên tục cúi người nịnh nọt, “Vừa nhìn đã thấy phu nhân có tướng đại quý rồi, tiểu công tử trong bụng phu nhân sau này nhất định cũng có mệnh công hầu!”

Miên Man khoác tay Kỳ Úc, vừa nghe thấy câu này liền không vui: “Nói linh tinh gì thế! Con của tỉ tỉ ta sao có thể là công hầu? Nó sinh ra sẽ là..”

“Tứ muội!” Kỳ Úc nghe thấy cô sắp buột miệng nói ra thân phận của mình, liền vội vàng ngắt lời, “Vì là của hồi môn của em nên phải chọn cho cẩn thận. Chỗ chưởng quỹ có ngọc tốt gì thì cứ lấy ra cho chúng tôi xem.

“Chưởng quỹ ra ngoài giao hàng rồi, tôi chỉ là người làm thuê thôi.” Trương Nhị Bảo xấu hổ gãi đầu, lấy mấy món đồ ngọc đặt trên khay vàng từ trong tủ quầy ra, nói, “Chỗ chúng tôi, dù là vòng ngọc, ngọc bội, nhẫn ngọc, hay những đồ chạm ngọc khác, đều đứng đầu phường Tường Hòa này. Phu nhân và cô nương cứ chọn cho kỹ, giá cả thì... từ từ thương lượng!”

Ánh mắt Miên Man lướt qua từng món đồ ngọc một, thỉnh thoảng lại lộ vẻ kinh ngạc trước vẻ đẹp của một món nào đó, thấy Kỳ Úc ở bên cạnh vẫn điềm nhiên như không, liền thì thào bên tai nàng: “Xưa nay em không hiểu những thứ này, tỉ tỉ hiểu rộng biết nhiều, hay là tỉ tỉ chọn giúp em đi!”

Kỳ Úc gật đầu, sau đó ngẩng lên nhìn Trương Nhị Bảo nói: “Ngươi nói không ngoa, những đồ ngọc này đều là tinh phẩm.”

Trương Nhị Bảo vừa mới lộ ra vài phần đắc ý thì lại nghe thấy Kỳ Úc nói tiếp: “Song cũng chỉ là tinh phẩm, chứ chẳng phải là cực phẩm!”

“Tào mỗ kinh doanh buôn bán đồ ngọc ở đây đã gần mười năm, chưa từng nghe ai nói như vậy!” Trương Nhị Bảo vừa định phản bác thì thấy chưởng quỹ Tào Phương Thạc dáng người cao lớn khôi ngô đang sải bước đi vào, không hài lòng hỏi: “Thỉnh giáo phu nhân, những đồ ngọc này tại sao không phải là cực phẩm?”

Thấy bộ dạng cau có của Tào Phương Thạc, Kỳ Úc ung dung thong thả nói: “Theo Thuyết văn giải tự , ngọc có năm đức. Trơn bóng ấm áp, là chỗ của nhân; hài hòa bên ngoài, có thể biết trong, là chỗ của nghĩa; tiếng nó du dương, chuyên nghe từ xa, là chỗ của trí; thà gãy chứ không cong, là chỗ của dũng, mảnh vỡ sắc nhọn nhưng trong sạch không gây hại, là chỗ của khiết. Ngọc của chưởng quỹ ấm nhuần sáng bóng, màu sắc trong ngoài đều nhau, vừa nãy thiếp thân tiện tay gõ vào một viên, nghe tiếng trong trẻo, tính chất cứng chắc, đúng là ngọc tinh phẩm. Có điều, nếu thật sự phải nói là cực phẩm, thì vẫn kém một chút...”

“Hả? Còn kém cái gì?” Tào Phương Thạc biết lần này gặp phải chuyên gia, liền thu lại vẻ mặt kiêu ngạo hỏi.

“Là diễm lệ! Ngọc của chưởng quỹ quá tinh khiết thuần chất, xem lâu không khỏi cảm thấy tẻ nhạt.”

Tào Phương Thạc nhướng mày, nghiền ngẫm ý tứ trong câu này, rồi vẫn nói với giọng hoài nghi: “Cách nhìn của phu nhân lạ thật, e rằng trong tiệm của chúng tôi không có thứ phu nhân muốn.”

“Cũng chẳng phải, Kỳ Úc giơ tay chỉ vào chiếc vòng trông xám xỉn, bị lấy làm chặn giấy ở trên bàn, “nếu thiếp thân không nhìn nhầm thì đó chính là ngọc cực phẩm! Chưởng quỹ không phiền thì cho thiếp thân xem thử.”

Tào Phương Thạc nghe thấy câu này, không khỏi trợn tròn hai mắt, kinh ngạc đến nỗi biến sắc mặt liên tục, sau đó mới đưa mắt ra hiệu cho Trương Nhị Bảo. Trương Nhị Bảo vẫn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, chỉ vâng dạ quay người lấy chiếc vòng ngọc đưa qua tay Bạch Đàn giao cho Kỳ Úc. Kỳ Úc lấy khăn lụa trong tay áo ra, cẩn thận lau bụi bên trên, rồi quan sát kỹ càng một lúc dưới ánh chiều tà. Chiếc vòng ngọc này toàn thể óng ánh, có thể thấy nó được mài từ ngọc Hòa Điền thượng hạng.

Miên Man phản bác: “Lẽ nào tỉ tỉ không nhìn thấy những sợi bông trong chiếc vòng ngọc này sao? Có tì vết rõ ràng như vậy, cùng lắm chỉ được coi là hàng trung phẩm thôi, nói cực phẩm thì không khỏi quá khoa trương rồi.”

Kỳ Úc đeo vòng ngọc lên cổ tay Miên Man, to thêm một phân thì rộng, nhỏ hơn một phân thì chật, đây lại vừa vặn đến lạ thường. Nàng chỉ vào cái gọi là tì vết ở bên trong, nói: “Tứ muội nhìn xem những sợi bông này giống gì?”

Miên Man ghé lại nhìn gần hơn, rất lâu sau mới trầm ngâm nói: “Hình như là hoa đào?”

“Đúng, là hoa đào!” Kỳ Úc cười nhẹ, “Trong đá thô tự nhiên gần như đều có sợi bông, thợ ngọc giỏi sẽ tránh những tì vết này, cố hết sức mài thành ngọc tinh phẩm đẹp hoàn mỹ, giống như hầu hết đồ ngọc trong tiệm này; nhưng thợ ngọc hàng đầu thì sẽ lợi dụng những tì vết này, cộng thêm khéo léo chạm khắc, để làm tăng vẻ đẹp cho ngọc. Như sợi bông hình hoa đào trong chiếc này vậy, rất tuyệt. Muốn tạo thành một chiếc vòng ngọc như vậy, không phải thợ ngọc lão luyện có mười, hai mươi năm kinh nghiệm tốn mất ba năm trở lên thì chắc chắn không được.”

Kỳ Úc vừa dứt lời thì thấy Tào Phương Thạc quỳ xuống đất, vẻ mặt đầy cảm phục, dập đầu thành tiếng ba cái liên tục, rồi hỏi bằng giọng hơi nghèn nghẹn: “Phu nhân thật sự là người hiểu nghề hiếm có trên đời. Không biết phải xưng hô với phu nhân như thế nào?”

“Nhà chồng thiếp thân họ Lý. Sao chưởng quỹ lại hành đại lễ như vậy?” Kỳ Úc nghiêng đầu nhìn sang, bắt gặp ánh mắt kinh ngạc y hệt của Trương Nhị Bảo, không khỏi nghi hoặc, “Vòng ngọc này có điển cố gì sao?”

Tào Phương Thạc đứng dậy, bước đến trước cửa, quan sát đám đông qua lại trên đường giây lát, rồi lại ngoảnh đầu nói: “Tào mỗ gặp được Bá Nhạc [*] thì không giấu giếm nữa. Hai mươi năm trước, Tào mỗ được người ta ủy thác, mài một món đồ ngọc vân hoa đào, dù thành ngọc bội, nhẫn ngọc hay trâm ngọc đều được. Vị khách đó cực kỳ hào phóng, đặt cọc hẳn ba mươi lạng bạc, còn bảo tôi cứ từ từ làm, ba năm sau mới đến lấy...

[*] - Một người rất giỏi xem tướng ngựa, ở đây chỉ mắt nhìn sáng suốt của Kỳ Úc.

“Ba năm? Lẽ nào ông ta không sợ ông lấy món tiền đó rồi không làm nữa sao?” Miên Man nghe đến đây, không kìm được nói chen vào.

Tào Phương Thạc rõ ràng hơi khó chịu: “Cô nương nói gì vậy? Tổ tiên tôi ba đời đều làm thợ ngọc, trong phường Tường Hòa này ai mà không biết? Vị khách đó rõ ràng cũng đã dò hỏi rồi mới tìm đến tôi!”

Suy cho cùng Miên Man vẫn là một cô bé, bất ngờ bị người ta mỉa mai như vậy, cô không khỏi cảm thấy hơi mất mặt, liền cúi đầu vân vê dây tua đỏ trên eo. Kỳ Úc vỗ vỗ tay cô, ngẩng đầu hỏi Tào Phương Thạc: “Sau đó thì sao?”

Tào Phương Thạc cầm chén rượu nhỏ bằng sứ trên bàn lên, hào sảng uống một ngụm rồi nói tiếp: “Đồ chạm ngọc hoa đào dù tinh xảo đến đâu, vào tay tôi thì chỉ tối đa ba tháng là có thể hoàn thành, nhưng tôi nghĩ, đã cầm nhiều bạc của ngươi ta như thế, tất nhiên phải làm ra thứ đặc biệt một chút mới xứng với danh tiếng trăm năm của tiệm tôi. Bèn chọn từ trong đống đá thô thu thập được trước kia lấy một viên vào hàng thượng đẳng, nhưng có chút tì vết để làm nguyên liệu, chuẩn bị mài thành một chiếc vòng tay, tổng cộng tốn mất hai năm lẻ tám tháng mới hoàn thành. Vị khách đó thấy chiếc vòng ngọc này, thoạt đầu cũng không xem trọng, chỉ nói một câu ‘vất vả rồi, sau đó đưa nốt ba mươi lạng tiền công còn lại.

“Nhưng chỉ năm hôm sau, y đột nhiên bước vào tiệm với vẻ mặt rạng rỡ, lại đưa cho tôi đủ một trăm lạng bạc, nói là chủ nhân của y hết lời khen ngợi chiếc vòng đó, tinh xảo như quỷ đẽo thần mài. Tôi rất muốn hỏi xem chủ nhân của y là ai, nhưng cuối cùng vẫn kìm lại. Đến những năm Vũ Đức, vào một đêm nọ, có một người trẻ tuổi mắc bệnh nặng ngất xỉu trước cửa tiệm của tôi, tôi mời đại phu cho cậu ta, cứu cậu ta một mạng. Người trẻ tuổi đó cảm kích ơn cứu mạng, liền tặng tôi chiếc vòng tay mang theo bên mình coi như quà cảm ơn. Lý phu nhân, phu nhân biết lúc đó tôi kinh ngạc thế nào không?”

Kỳ Úc hít sâu một hơi, chậm rãi nói: “Chính là chiếc vòng ngọc này.”

“Không sai!” Tào Phương Thạc gật đầu, “Lúc đó tôi truy hỏi thân phận của cậu ta. Cậu ta thú thật rằng mình từng là một thị vệ trong hành cung Giang Đô, năm Đại Nghiệp thứ mười bốn, vào đêm họ Vũ Văn ép vua thoái vị rồi giết chết, cậu ta và mấy đồng bạn chia nhau rất nhiều châu báu trong hành cung, nhân loạn mà trốn ra. Mãi đến lúc đó, tôi mới biết vị khách nọ rất có khả năng là người trong Tùy cung”

Tùy cung. Trái tim Kỳ Úc bỗng chốc như bị một sợi dây mảnh thít chặt kéo lên đến cổ họng, tiếp đó lại rơi bịch xuống, trán rịn mồ hôi lấm tấm. Cảm giác giống như sắp nắm bắt được cái gì đó, nhưng lại chẳng chạm được vào bất cứ thứ gì. Đang nghĩ ngợi lung tung thì nghe thấy giọng nói véo von của Miên Man: “Đúng thật là kỳ ngộ! Tỉ tỉ nói xem có phải không?”

Chẳng qua chỉ là một vật trong Tùy cung có liên quan đến hoa đào mà thôi, đúng là trong thời gian mang thai nàng đã nghĩ lắm nghi nhiều. Kỳ Úc nghĩ vậy, liền nắm lấy tay Miên Man, nói với Tào Phương Thạc: “Không biết chưởng quỹ có đành lòng nhường món này cho em gái tôi không?”

Tào Phương Thạc vuốt râu cười sang sảng: “Đương nhiên rồi. Đã có duyên với cô nương, nên tôi sẽ tặng nó cho cô nương luôn!”

“Chưởng quỹ nói thật chứ?” Miên Man lại ngắm kỹ chiếc vòng một lần nữa, càng thấy rõ hơn vẻ đẹp của nó.

“Tào mỗ chưa bao giờ nói chơi.” Tào Phương Thạc nói, “Tôi cũng từng nghĩ đến việc bán nó đi, nhưng nhiều năm qua, không một ai có thể nhìn ra vẻ đẹp của nó. Về sau tôi cũng nản, đặt đại nó sang một bên, chỉ cần ai đó có thể nhận ra món hàng cực phẩm này, tôi nhất định dâng tặng bằng cả hai tay, tuyệt đối không lấy một xu. Hôm nay may mắn gặp được Lý phu nhân, cũng là phúc phận của chiếc vòng này.”

“Vậy thì cung kính không bằng tuân lệnh.” Kỳ Úc cũng chẳng từ chối, chỉ hơi chắp tay nhún mình với Tào Phương Thạc.

Miên Man cũng cúi người thi lễ nói: “Đa tạ chưởng quỹ. Chưởng quỹ nhất định sẽ làm ăn ngày càng phát đạt. Tỉ tỉ, giờ không còn sớm nữa, chúng ta về thôi!”

Trương Nhị Bảo nhìn theo bóng cả đám bọn họ chầm chậm đi dưới ánh hoàng hôn, không khỏi tò mò hỏi: “Sư phụ tổn nhiều tâm sức với chiếc vòng kia đến thế, sao lại tặng nó đi như vậy, lẽ nào ngài không xót của sao?”

Tào Phương Thạc cài then cửa, đi vào phòng trong, dùng cối xay trà từ từ nghiền bánh trà vừa mới bỏ vào hồi sáng thành trà vụn, quay sang nhìn bộ dạng ngốc nghếch của Trương Nhị Bảo: “Ta kiếm được một trăm sáu mươi lạng bạc nhờ chiếc vòng đó, đã hòa vốn từ lâu rồi, có gì mà phải xót? Huống hồ.” Ông ta dừng lại một chút, thấy nước trong nồi trà đã hơi sủi tăm, liền cho thêm hai thìa muối vào, rồi lại nói, “Vị Lý phu nhân đó thực sự không đơn giản. Để cô ta nợ một ân tình như vậy, chúng ta cũng chẳng thiệt đi đâu đâu.”

Trương Nhị Bảo bĩu môi không tỏ rõ ý kiến, vừa khuấy nồi trà bằng kẹp tre, vừa lẩm bà lẩm bẩm: “Sư phụ chỉ biết hào phóng với người khác thôi...”

Nước trong nồi trà sôi ùng ục, vừa khéo át đi lời nói của Trương Nhị Bảo. Tào Phương Thạc cho thêm một thìa nước vào để nó dừng sôi: “Khoản nợ ở chỗ tướng công họ Hoàng vẫn chưa đòi về được, một lạng bạc của người để tháng tới lấy sau đi!”

Mãi đến khi xe ngựa ra khỏi phường Tường Hòa, Miên Man vẫn chưa thôi phấn khích, cô khoác tay Kỳ Úc, dựa đầu vào vai nàng, dịu dàng nói: “Rốt cuộc tỉ tỉ học được tài thưởng ngọc đó ở đâu vậy? Đừng nói là đọc trong sách mà biết nhé! Ngón nghề này nếu không có người cầm vật thật truyền thụ cho thì nhất định không thể học được.”

Kỳ Úc uống một ngụm sữa ngựa mà Bạch Đàn đưa cho, chỉ thấy trong miệng đậm đà thơm ngát: “Là Ngô vương dạy đấy”

“Là Ngô vương thích nên tỉ tỉ mới học, hay là Ngô vương thấy tỉ tỉ thích, sau đó dạy cho?” Miên Man nghiêng đầu, vì sợ cây thoa mẫu đơn cài trên búi tóc sẽ khiến Kỳ Úc bị cộm, nên cô đã lấy nó xuống cầm nghịch trong tay từ lâu.

Kỳ Úc không hiểu ý, hỏi lại: “Có gì khác nhau chứ?”

Miên Man gật đầu rất nghiêm túc: “Tất nhiên là có, điều này có thể chứng minh Ngô vương yêu tỉ tỉ hơn, hay là tỉ tỉ yêu Ngô vương hơn.”

Kỳ Úc vừa định mở miệng thì nghe thấy tiếng ngựa hí, cỗ xe lắc lư dữ dội, chiếc khay mã não nhỏ và bốn cái cốc bạc đặt trên bàn nhỏ trong xe rơi xuống, nửa cốc sữa ngựa còn thừa bất ngờ đổ hết lên bộ áo váy mới tinh của Miên Man. Kỳ Úc giơ tay ôm bụng dưới theo phản xạ, đầu đập mạnh vào thành xe ngựa, đau đến nỗi không kìm được khẽ rên một tiếng.

Miên Man cực kỳ tức giận, vừa sai nha hoàn Kim Chung lau vạt váy cho mình, vừa đứng dậy sải bước qua chiếc bàn, vén rèm xe lên mắng: “A Lâu, ngươi đánh xe kiểu gì đấy?”

Bạch Đàn, Cẩm Quỳ chẳng màng đến đầu gối sưng đỏ vì ngã, một người che trước mặt Kỳ Úc, một người giơ tay chống vào vách xe, đồng thanh hỏi: “Vương phi không sao chứ?”

Kỳ Úc vừa định thần lại sau cơn kinh hồn, thở phào nhẹ nhõm: “Không sao. Chỉ sợ làm các con giật mình thôi.”

Bản thân A Lâu cũng sợ hết vía, mặt mày tái mét, quay đầu khom người lia lịa: “Cô nương chớ giận. Cô xem, có một đám người chắn ở đằng trước, vừa nãy lại có năm sáu thường dân nhảy ra từ dưới gốc đại thụ, nếu A Lâu không kịp thời ghì cương ngựa, e là đã đâm phải bọn họ rồi.”

“Vậy thì sao? Tại bọn họ lao ra, sao lại bắt chúng ta phải chịu?” Vẻ mặt Miên Man vẫn chưa nguôi giận: “Còn không mau nghĩ cách đi vòng qua!”

“Đợi đã,” Kỳ Úc ngồi thẳng người dậy, tiện tay đặt lại chiếc khay mã não lên bàn, “A Lâu, ngươi xuống xem thử xem! Rốt cuộc đằng trước đã xảy ra chuyện gì?”

A Lâu dạ một tiếng, vội vàng xuống xe ngựa, chen vào đám đông rồi một lúc lâu sau mới lại chật vật chen ra. Chiếc áo dài của hắn đã ướt đẫm mồ hôi, dính chặt lên người, sợi dây gai buộc búi tóc cũng lỏng ra, hắn thở hổn hển nói: “Vương phi, trong đình Thu Hà có một người mắc bệnh gì đó bị ngất xỉu, có vẻ sắp chết rồi, nghe người ta nói, hình như... hình như là một vị tể tướng nào đó.”

“Tể tướng?” Kỳ Úc thoáng suy nghĩ rồi ra lệnh: “Đậu xe ngựa sang một bên, chúng ta xuống xem xem.”

Tuy Miên Man đầy vẻ miễn cưỡng, nhưng cô vẫn đỡ tay Kỳ Úc từ từ xuống xe ngựa.

Vì có các sai dịch của phủ Ung Châu đến, đám người vây quanh xem cũng đã tản đi quá nửa. Chỉ thấy người đó ngã nghiêng trên lan can của đình, sắc mặt xanh đen, môi trắng bệch, thở hổn hển không ngừng, trông bộ dạng cực kỳ đáng sợ. Miên Man chỉ nhìn một cái đã sợ hãi hét lên, trốn ra sau lưng Kỳ Úc, luôn miệng nói: “Có người sắp chết kìa, xui xẻo quá! Tỉ tỉ đừng nhìn!”

Hoàng bổ đầu vừa nghe thấy tiếng kêu, liền ngoảnh đầu bực bội quát bọn họ: “Đây là chỗ để làm ồn sao? Còn không di mau!”

Miên Man vốn định rời đi ngay lập tức, nhưng nghe gã nói thế, đột nhiên lại nổi nóng: “Tỉ tỉ của ta là Ngô vương phi, ta là lương đệ tương lai của thái tử, một tên bổ đầu nhỏ bé như ngươi cũng dám lớn tiếng quát tháo bọn ta ư?”

Hoàng bổ đầu từng thấy Kỳ Úc trong Tô phủ, vốn cảm thấy nàng hơi quen mặt, nghe Miên Man nói vậy lập tức nhớ ra, vội vàng quỳ gối lạy: “Ti chức Hoàng Trì tham kiến vương phi. Việc xảy ra đột ngột, đã đắc tội nhiều, xin hai vị thứ tội!”

Hoàng bổ đầu còn muốn nói thêm, nhưng lại nghe thấy người đằng sau thều thào gì đó. Gã nhất thời cũng chẳng màng đến việc thất lễ, vội đứng dậy bước tới hỏi: “Trung thư đại nhân nói gì cơ?”

“Thiền sư, thiền sư...” Người đó trợn tròn hai mắt, hơi mảnh như tơ, miệng bỗng nôn ra một búng máu lớn, nhưng vẫn nhắc đi nhắc lại hai chữ ấy. Đột nhiên, ánh mắt chấp chới của ông ta như tìm được mục tiêu, nhìn chằm chằm vào ai đó trong đám đông. Miên Man cảm thấy ánh mắt đó dừng trên người mình, không kìm được lùi lại một bước. Nhưng ngay sau đó, cô đã phát hiện ra, không phải người đó đang chăm chú nhìn mình, mà là nhìn chiếc vòng trên cổ tay mình. Ông ta dùng hết chút sức lực cuối cùng, nói ngắt quãng: “Xin lỗi... xin lỗi...”

Âm thanh càng lúc càng nhẹ, cho đến khi không còn nghe thấy nữa. Hoàng bổ đầu lấy ngón tay thăm hơi thở mũi của ông ta, lắc đầu nói: “Đã chết rồi.”

“Hoàng bổ đầu,” Kỳ Úc nhìn Hoàng Trì lúng túng nghệt ra, tay bị Miên Man nắm chặt đến mức hơi đau, “mau cho người đến phủ của trung thư lệnh báo tang. Còn nữa, bảo Tề trưởng sử cấp báo cho Ngô vương và Tiêu thiếu khanh biết.”

Hoàng bổ đầu dạ vâng rối rít, nghĩ bụng, gã mới làm bổ đầu được có hai hôm đã gặp phải chuyện như thế này, thực sự không biết là kiếp nạn hay là cơ hội. Gã hằng giọng, gọi bốn thủ hạ ở đằng sau: “Còn không đi mau!”

Miên Man buông tay Kỳ Úc ra, cúi đầu nhìn bóng mình đổ dài dưới ánh tà dương. Tâm trạng dần dịu lại, cô ngáp một cái nói: “Tỉ tỉ, vậy chúng ta...”

“Về phủ thôi.”

Trên giá nến hoa sen vàng, một đôi nến thơm kỳ lân đang tỏa ra mùi hương dễ chịu, ánh nến chầm chậm lay động chiếu lên khuôn mặt say ngủ của Kỳ Úc. Nàng chỉ mặc một chiếc áo trong màu trắng, gục đầu vào khuỷu tay, tay cầm một quyển Văn tuyển mà gần đây nàng rất say mê, một chiếc trâm hoa mai khảm mã não đỏ rơi trên đầu gối nàng.

“Cô ngốc này sao lúc nào cũng như vậy?” Lý Khác vuốt mái tóc đen buông đến thắt lưng của nàng, bất lực thở than. Nói xong, y cúi người xuống, cẩn thận bế nàng lên, rón rén đi vào phòng trong, đặt nàng nằm thoải mái trên giường.

Ban nãy vừa có một trận mưa to như trút nước, lúc này nước mưa trên mái hiện bên ngoài vẫn đang nhỏ xuống từng giọt. Mưa qua gió mát, xua đi rất nhiều cái oi bức của cuối hè. Kỳ Úc dụi đôi mắt ngái ngủ, khẽ gọi: “Tam lang.”

Lý Khác thổi tắt một ngọn nến, ôm nàng vào lòng: “Vẫn làm nàng thức giấc rồi.”

Kỳ Úc lắc đầu: “Thiếp vốn định đợi tam lang về nói chuyện, nhưng không chịu nổi ngủ quên mất. Giờ đang là giờ gì rồi.”

“Sắp đến giờ Tý rồi.” Lý Khác hơi cau mày, “Phụ hoàng giữ ta lại nói chuyện gần một canh giờ. Vũ Văn Sĩ Cập chết một cách kỳ lạ, ông ấy lại mất đi một người phò tá giỏi, trong lòng cứ bứt rứt mãi. Ông ấy bảo ta ngày mai hãy đến phủ Vũ Văn lần nữa, phải điều tra rõ việc này nhanh nhất có thể.”

“Thái y bảo sao?”

“Có dấu hiệu trúng độc. Có trời mới biết ông ta ăn phải thứ gì đó hỏng, hay là bị người ta bày mưu ám hại.”

Kỳ Úc nghe y nói với vẻ lạnh nhạt coi thường, không kìm được nói: “Tam lang ghét Vũ Văn Sĩ Cập nhỉ.”

“Ông ta có lỗi với nhà họ Dương!” Lý Khác cấm cảu nói, “Biểu huynh không ưa ông ta, ta cũng không ưa ông ta. Ta thực sự không muốn lo việc của ông ta.”

“Nếu bệ hạ nghe được Đại Lý tự khanh của ông ấy nói như vậy, nhất định sẽ giận lắm đấy” Kỳ Úc không kìm được mỉm cười nói.

“Phụ hoàng cũng có chỗ khó xử và bất đắc dĩ của mình” Lý Khác khẽ thở dài, “hơn nữa sao ta có thể thật sự không đi cơ chứ? Phải đặt người đã khuất lên trên hết. Huống hồ những năm qua Vũ Văn Sĩ Cập hết mực trung thành với triều đình, ngày đêm không nghỉ, tiếng tăm tuy không bằng ông trẻ và Phòng tướng, nhưng cũng tạm chấp nhận được. Những yêu ghét cá nhân của ta, chẳng qua chỉ là mấy lời oán trách riêng tư thôi.”

Kỳ Úc nhích người, gối lên cánh tay của Lý Khác: “Như vậy cũng xem như là Vũ Văn Sĩ Cập có phúc.”

Lý Khác cười nhẹ: “Sáng mai chúng ta cùng qua phủ Vũ Văn!”

Kỳ Úc thắc mắc: “Tại sao lại là chúng ta cùng đi? Vậy có hợp lý không?”

“Về công thì không, về tư lại rất hợp. Lý Khác hơi nhếch khóe môi, “Vợ của Vũ Văn Sĩ Cập là Thọ Quang huyện chúa, theo vai vế chúng ta còn phải gọi bà ấy một tiếng cô cô. Chuyện của Vũ Văn Sĩ Cập vô cùng kỳ quái, ta cũng hơi tò mò. Kỳ nhi có sự nhạy bén của phụ nữ, có những chuyện chắc nàng có thể nhìn chuẩn xác hơn ta.”

“Được, vậy chúng ta cùng đi? Kỳ Úc gật đầu, giọng nói càng lúc càng nhỏ, xem ra đã buồn ngủ lắm rồi.

Lý Khác nghiêng đầu nhẹ nhàng hôn lên trán nàng, vỗ vai nàng: “Sau khi con của chúng ta ra đời, ta sẽ xin phụ hoàng cho nghỉ một tháng, chúng ta cùng đi Giang Nam chơi. Năm xưa mẹ rất thích Giang Nam. Dương Châu, Tô Hàng, Việt Châu... đều rất đẹp."

Vì đến với thân phận hậu bối, nên Lý Khác và Kỳ Úc đều mặc thường phục màu trắng. Trước khi đi, Bạch ma ma không khỏi lo âu nắm lấy tay Kỳ Úc, lại nhìn Lý Khác vài lần, khẽ nói: “Nay vương phi đang mang thai, linh đường là nơi không sạch sẽ, không thể đi được!”

“Ta và Kỳ nhi đều không tin điều này!” Lý Khác nghe vậy liền khoác vai Kỳ Úc nói, sau đó thêm “Ma ma yên tâm đi! Dù thật sự có chuyện, vẫn có ta che chắn cho Kỳ nhi cơ mà, dẫu là ác quỷ đến đòi mạng, thì cũng sẽ đòi mạng ta trước...”

Kỳ Úc còn chưa nghe hết, đã vội vàng bịt miệng y lại: “Còn nói nhảm nữa, thiếp sẽ mặc kệ chàng ba canh giờ!”

Tính ra Thọ Quang huyện chúa còn chưa đến bốn mươi tuổi, nhưng trông đã lộ rõ vẻ già nua. Vì không thoa phấn nên nước da hơi ngả vàng, nếp nhăn ở khóe mắt càng rõ nét dưới ánh nến chiếu rọi. Dáng bà nhỏ bé gầy gò, so với hai nha hoàn hầu hạ bên cạnh thì thấp hơn nửa cái đầu. Có lẽ do khóc gần như cả đêm hôm qua, đôi mắt phượng của bà sưng đỏ như quả hạch đào.

Giọng bà hơi nghẹn ngào, khiến người nghe không khỏi xót xa: “Đa tạ Ngô vương điện hạ và vương phi đích thân đến viếng vong phu.”

Lý Khác khom người nói: “Cô cô khách sáo rồi. Vũ Văn công thanh cao chính trực, ngồi ở ngôi tể phụ quan trọng, nay đột nhiên qua đời, vãn bối đến tiễn đưa cũng là phải nhẽ.”

Nói xong, y liền đến trước linh đường thắp ba nén hương, cúi người vái ba vái. Thọ Quang huyện chúa và các vị nữ quyến trong nhà đều vái lại trả lễ. Lý Khác thấy người vợ lẽ là Lưu phu nhân đang ôm cô con gái duy nhất của Vũ Văn Sĩ Cập và Thọ Quang huyện chúa là Vũ Văn Tu Đa La trong lòng, nhỏ nhẹ dỗ dành. Vũ Văn cô nương này hồi nhỏ đã được hứa hôn với em trai thứ mười ba của Lý Khác là Triệu vương Lý Phúc, có điều nhìn tình hình hiện tại, hôn sự chắc phải lùi lại. Thọ Quang huyện chúa nhìn cô bé nói: “Tu nhi đừng khóc, không được thất lễ trước mặt Ngô vương.”

Lúc này Vũ Văn Tu Đa La mới rời khỏi vòng tay của Lưu thị, gắng gượng nín khóc, nghẹn ngào nhún người chào một tiếng: “Tham kiến Ngô vương điện hạ.”

Lý Khác đỡ hờ cô bé một cái, giọng nói bình tĩnh ôn hòa: “Không cần đa lễ.”

Thọ Quang huyện chúa cũng không để tâm đến cô bé nữa, lấy khăn trong tay áo ra, lau tro rơm dính trên tay, nói: “Mời điện hạ, vương phi đến tiền sảnh nghỉ ngơi.”

Mấy người vừa ngồi xuống phòng khách thì thấy một tiểu nha hoàn có khuôn mặt trái xoan bước đến bên cạnh Thọ Quang huyện chúa nói: “Phu nhân, chuỗi ngọc đeo tay của lang chủ cũng phải chôn cùng ạ?”

Trong mắt Thọ Quang huyện chúa hiện ra vẻ đau khổ cố kìm nén: “Cứ để đây trước đã.”

Lý Khác cảm thấy chuỗi ngọc tú oánh này rất quen mắt, hồi lâu mới hít sâu một hơi, sực nhớ ra nói: “Đây là thứ năm xưa Lưu lục sự nhờ ta từ An Châu mang cho Lưu phu nhân sao?”

Lưu thị gật đầu: “Năm đó trong thư chú có nói, cái đó là của một người bạn cũ tặng cho ông ấy. Vì thím không thích ngọc đá, chú lại không có con gái, nên tặng nó cho thiếp thân. Thiếp thân vừa thấy đã rất thích, đeo lên cổ tay ngay.”

Lý Khác nghi ngờ hỏi: “Đã là như vậy, tại sao vừa nãy nha hoàn lại bảo là ‘chuỗi ngọc đeo tay của lang chủ’?”

“Chuyện này cũng thật kỳ lạ.” Lưu thị cau mày, suy nghĩ rất lâu rồi mới nói, “Lang chủ vừa thấy thiếp thân đeo chuỗi ngọc tú oánh ấy, ánh mắt liền sáng lên. Điện hạ, thiếp thân không hề phóng đại, lúc đó lang chủ vô cùng kích động, tháo nó khỏi cổ tay thiếp thân, cũng không hỏi lai lịch, chỉ đòi lấy nó đi, từ đó, lúc nào cũng mang theo bên mình.”

“Không ngờ một người đàn ông thân cao bảy thước như Vũ Văn công lại thích thứ đồ của nữ nhi này, cơ mà đúng là nó được chạm trổ rất khéo léo tinh xảo.” Kỳ Úc tò mò cầm chuỗi ngọc trên tay ngắm kỹ một lượt. Chuỗi ngọc này dùng mười lăm viên ngọc tú oánh tròn bóng đầy đặn xâu thành, ở giữa có gắn một con ngựa bạc nhỏ, trông sống động như thật.

Đang nói chuyện thì có tiểu nha hoàn hầu trà rót thêm trà vào tách của mọi người. Lý Khác nhìn làn khói bảng lảng bốc lên, cảm thấy hai mắt hơi cay, không chịu nổi đưa tay lên dụi mấy cái, rồi lại chớp chớp mắt: “Vũ Văn công đột ngột qua đời, thật là đáng tiếc. Không biết bình thường ông ấy thích ăn những món gì? Có phải ăn nhầm thứ gì đó không sạch nên mới dẫn đến ngộ độc không?”

Thọ Quang huyện chúa chậm rãi lần chuỗi tràng hạt gỗ lim tơ vàng trong tay, cụp mắt xuống, nhưng rồi lập tức lại ngước lên đón lấy ánh mắt của Lý Khác, từ tốn nói: “Ba năm trước, lang chủ từng vì ăn quá nhiều thịt dê mà lâm bệnh mấy chục ngày, đại phu nói, lang chủ bị nóng gan, thực ra không nên ăn những đồ ăn tính nóng. Từ đó về sau, ông ấy không bao giờ ăn những thứ như vậy nữa, nào ngờ lần này vẫn mất mạng vì nó.”

“Thật sự là như vậy sao?” Lý Khác lại một lần nữa nghiêm túc quan sát hai người đàn bà có vẻ đau lòng đến nỗi dung nhan tiều tụy ở trước mặt, hỏi dò: “Lẽ nào cô cô chưa từng nghĩ đến việc Vũ Văn công bị người khác hại sao?”

Thọ Quang huyện chúa và Lưu thị đưa mắt nhìn nhau, dường như thật sự không nghĩ đến việc này. Sau một lúc lâu, Thọ Quang huyện chúa mới nói: “Sao có thể như vậy được? Kẻ nào lại to gan thế chứ?”

“Tất nhiên hy vọng là không phải vậy.” Lý Khác nói, “Có điều Vũ Văn công là tể phụ, ta lại luôn coi ông ấy là trưởng bối, nên không thể không xử lý cẩn thận. Chẳng hay hai người có biết Vũ Văn công đang làm những gì, thích qua lại với người nào không?”

Lưu thị vừa nghĩ vừa nói: “Hình như gần đây lang chủ xem địa chí Tân La suốt, luôn nói đến những chuyện kiểu như người Tân La bị Cao Câu Ly đánh rất đáng thương. Mấy năm nay, cơ thể của ông ấy không được nhanh nhẹn cho lắm. Trừ những buổi chầu lớn và đến trung thư tỉnh điểm danh, thì bất đắc dĩ mới ra ngoài. Có lúc hai vị đồng liêu là trung thư xá nhân Lai Tế và gián nghị đại phu Chử Toại Lương đến phủ hàn huyên với ông ấy, nhưng cũng không thường xuyên, đại để một tháng chỉ có hai, ba lần thôi!”

Kỳ Úc chậm rãi xoa con ngựa bạc nhỏ trên chuỗi ngọc, bỗng không kìm được ho nhẹ mấy tiếng, phải uống hết cốc nước trắng mới hít thở bình thường được. Nàng nhìn Thọ Quang huyện chúa nói: “Vậy thiền sư thì sao? Trước lúc lâm chung Vũ Văn công liên tục kêu hai chữ này. Cô cô có biết ông ấy từng qua lại với vị thiền sư nào không?”

“Huyền Giác thiền sư!” Thọ Quang huyện chúa và Lưu thị đồng thanh trả lời.

Lý Khác cũng khá quen thuộc với cái tên này. Huyền Giác thiền sư cũng là một truyền kỳ, nghe nói trong những năm cuối niên hiệu Vũ Đức, vào một buổi sáng sớm tiểu hòa thượng Biện Minh của chùa Đại Hưng Thiện xuống núi múc nước, nhìn thấy trên mặt sông có một người đang đạp lên sương mỏng từ từ bay tới, tay còn cầm hai viên dạ minh châu sáng lấp lánh. Biện Minh kêu lên thần tiên hạ phàm, lập tức quăng thùng nước xuống, lảo đảo chạy về chùa gọi các sư huynh sư đệ cùng đi xem.

Tuy nhiên, khi bọn họ tới bờ sông lần nữa thì lại chỉ thấy một thanh niên hơn hai mươi tuổi, toàn thân ướt sũng, nằm thoi thóp trên mặt đất. Các hòa thượng cũng chẳng màng đến thần tiên gì nữa, vội mang thanh niên đó về chùa, tìm đại phu cứu chữa hai ngày hai đêm mới tỉnh. Lúc tỉnh dậy hỏi tên tuổi quê quán thì y chẳng biết gì, chỉ mở miệng tụng một đoạn dài trong Pháp Hoa kinh . Hỏi tiếp học nó từ đâu thì y cũng không nói ra được.

Bấy giờ người đức cao vọng trọng nhất trong chùa là Huyền Trang thiền sư cho rằng người thanh niên này có duyên với nhà Phật, liền quyết định để y ở lại chùa, nhưng không cho y cái tên hàng chữ “Biện” như các đệ tử khác mà lại đặt tên là “Huyền Giác”, xưng hô huynh đệ với y, cùng nhau dùi mài giáo lý nhà Phật. Về sau, Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh kinh, chúng tăng trong chùa Đại Hưng Thiện đều coi Huyền Giác là đại sư thúc, vô cùng tôn trọng ông ta.

“Tính ra Huyền Giác thiền sư cũng là ân nhân của nhà chúng tôi” Thọ Quang huyện chúa nói tiếp, “Thiếp thân được tiên đế ban hôn gả cho lang chủ từ năm Vũ Đức thứ ba, suốt mười năm trời không có con. Trong lòng thiếp thân vô cùng sốt ruột, ngoài nạp Lưu muội muội làm vợ lẽ cho lang chủ, còn đi đến rất nhiều chùa miếu thắp hương lễ Phật. Sau này mới gặp được Huyền Giác thiền sư ở chùa Đại Hưng Thiện. Ông ấy nói với thiếp thân, chỉ cần mỗi ngày rửa tay thành tâm sao chép kinh Phật, đốt dâng Phật Tổ, không đầy ba tháng, nhất định sẽ có phúc về đường con cái. Thiếp thân làm theo lời của thiền sư, về sau quả nhiên có Tu nhi. Tuy chỉ là con gái nhưng lang chủ cũng hết sức vui mừng, thiếp thân mới hơi yên lòng. Thế là mùng một, mười lăm hằng tháng, thiếp thân đều cùng lang chủ đi chùa làm lễ tạ ơn với Huyền Giác thiền sư.”

Thiền sư đắc đạo lại vẫn quản chuyện ban con, đây đúng là một việc kỳ lạ. Lý Khác hết sức ngạc nhiên, đảo mắt, lại cảm thán một lần nữa: “Vũ Văn công và cô cô tình sâu như uyên ương liền cánh, tất nhiên ông ấy hy vọng cô cô có thể sinh con cho mình. Tu nhi hiếu thuận hiểu chuyện, Vũ Văn công hẳn đã cảm thấy vui vẻ yên tâm rồi. Chỉ đáng tiếc cuối cùng ông ấy không thể tận mắt nhìn thấy Tu nhi xuất giá.”

“Uyên ương liền cánh... Thọ Quang huyện chúa nhẩm đi nhầm lại bốn chữ này, bất giác lộ ra một nụ cười cay đắng giống như tự trào: “Uyên ương liền cánh thật sao?”

“Ông ấy đối xử không tốt với cô cô ư?” Kỳ Úc thắc mắc.

“Không phải là không tốt, chỉ là lang chủ, thiếp thân và Lưu muội muội đều chỉ kính nhau như khách.” Thọ Quang huyện chúa hướng ánh mắt sang Lưu thị, trong mắt hai người không hẹn mà cùng hiện lên biết bao cô quạnh, “Tất nhiên kính nhau như khách cũng chẳng có gì là không tốt, nhưng phụ nữ trên đời này, ai lại có thể hài lòng với việc làm một người khách, chỉ được chồng kính chứ không được yêu cơ chứ? Một dạo tôi từng tưởng rằng ông ấy chỉ là vụng về về mặt tình cảm, không giỏi biểu đạt bằng lời, cho đến khi tôi phát hiện ra bí mật của ông ấy. Có lẽ cũng chẳng phải là bí mật. Điện hạ, ngài biết chứ?”

Tuy trong lòng Lý Khác có nhận ra, nhưng với thân phận của y thì có một số lời không tiện nói ra, nên y chỉ lặng im không đáp, cầm nắp tách trong tay mân mê.

Thọ Quang huyện chúa xoa nếp nhăn nơi khóe mắt hết lần này đến lần khác, nhưng dung nhan đã già thì chẳng thể trở lại thời niên thiếu má hồng mắt sáng long lanh được nữa. Cũng giống như trái tim của bà, sau khi vỡ nát sẽ mãi mãi không thể lành lại.

Bà nói: “Thiếp thân tuy chưa từng gặp Nam Dương công chúa, nhưng cũng đã nghe nói về tài mạo tuyệt thế của nàng. Lang chủ từng tìm nàng không chỉ một lần, hy vọng có thể gương vỡ lại lành. Nhưng giữa họ có thù nước hận nhà, lại thêm cả một người con trai đã chết ngăn cách, một người phụ nữ cương nghị kiên quyết như nàng ta nhất định không dung thứ cho sự phản bội như vậy. Đối với nàng ta, trong lòng lang chủ có áy náy, nhưng nhiều hơn cả là tình yêu. Biết bao đêm, tôi đã nhìn thấy ông ấy ngồi bên cửa sổ thở vắn than dài. Chỉ có người từng yêu mới biết, đó là thái độ của kẻ không đạt được tình yêu. Đã từng thấy biển thì chẳng còn cảnh sông nước nào lọt mắt, e rằng trong thiên hạ không còn một người phụ nữ nào có thể thực sự bước vào trái tim của lang chủ nữa.”

Trong mắt Lý Khác thoáng hiện lên vẻ thương tiếc và xót xa. Cho dù Vũ Văn Sĩ Cập quả thật vẫn còn yêu Nam Dương công chúa, nhưng thế thì sao? Trong khoảnh khắc quyết định vứt bỏ tình nghĩa vợ chồng, cha con mà giúp gia tộc hoàn thành dã tâm, ông ta đã không xứng viết nên truyền kỳ gương vỡ lại lành nữa rồi. Tuy nhiên, có lẽ cái gọi là gương vỡ lại lành đó, chẳng qua là muốn đổi lấy sự thanh thản cho bản thân, nhân tiện biểu dương sự trọng tình trọng nghĩa của ông ta mà thôi. Từ phò mã nhà họ Dương đến con rể nhà họ Lý, đều là địa vị vẻ vang hiển hách, đều lấy được vợ xinh đẹp đa tình, sao ông ta có thể không hài lòng cơ chứ? Chỉ là, hai người đàn bà trước mặt bị ông ta viện cớ không quên người cũ mà làm tổn thương này, rốt cuộc cũng thật đáng thương.

Sau khi nói những lời an ủi khách sáo thêm nửa canh giờ, Lý Khác từ biệt Thọ Quang huyện chúa ra về. Trong xe ngựa, Kỳ Úc thấy Lý Khác trùng trùng tâm sự, liền đan chặt tay vào tay y, hỏi: “Tam lang có biết Nam Dương công chúa là người như thế nào không?”

Mưa phùn mau hạt rơi trên nóc xe, thành tiếng lạo xạo. Thời tiết thành Trường An bỗng mát mẻ hẳn nhờ trận mưa liên miên không ngớt kéo dài suốt đêm qua đến sáng nay, mùa thu lững thững đến muộn mang theo biết bao lá rụng không có chốn về, cũng mang theo cả những nỗi buồn mới sầu cũ nhức nhối trong tim. Lý Khác chậm rãi kể: “Bà ấy là chị ruột duy nhất của mẹ. Lúc mẹ ra đời, bà ấy đã lấy Vũ Văn Sĩ Cập rồi. Tuy bình thường ít gặp, nhưng Nam Dương công chúa cực kỳ thân thiết với mẹ. Nét chữ tiểu khải thanh mảnh bay bổng của mẹ quá nửa là do Nam Dương công chúa dạy. Một người phụ nữ cao nhã thanh khiết như lan như huệ, nhưng lại có tính tình cương quyết thà làm ngọc nát còn hơn giữ ngói lành. Cứng quá thì dễ gãy, thắm lắm thì phai nhiều, hai chị em họ quả thật giống tính nhau.”

“Vậy người con trai mà Thọ Quang huyện chúa vừa nãy nhắc đến là như thế nào?”

“Mẹ chưa bao giờ kể chuyện này với ta, hồi nhỏ ta cũng chỉ nghe từ miệng của Tống ma ma thôi.” Lý Khác vươn tay chống lên vách xe để Kỳ Úc có thể thoải mái dựa vào cánh tay mình, “Sau binh biến Giang Đô, anh cả của Vũ Văn Sĩ Cập là Vũ Văn Hóa Cập tự lập làm vua, nhưng chỉ vỏn vẹn nửa năm đã bị Hạ vương Đậu Kiến Đức dẫn binh tiêu diệt. Trước khi quân của Hạ vương đánh đến dưới thành, Vũ Văn Sĩ Cập đã bỏ lại mẹ con Nam Dương công chúa mà chạy trốn một mình. Về sau Đậu Kiến Đức giết hết người họ Vũ Văn, bao gồm cả con trai của Nam Dương công chúa. Lúc đó có lời đồn rằng, Đậu Kiến Đức vì kính trọng tài đức của Nam Dương công chúa, từng định tha cho con trai bà, nhưng Nam Dương công chúa chỉ nói một câu, ‘Đậu công là bề tôi cũ của triều Tùy, tự biết tội giết vua mưu phản phải xử trí như thế nào rồi đấy’.”

“Thiên hạ sao lại có người mẹ như vậy?” Kỳ Úc đưa tay xoa bụng dưới, cảm nhận được thai đạp rõ ràng, đó là đứa con máu mủ ruột rà của nàng, là cốt nhục nàng có liều cả mạng mình cũng phải bảo vệ.

“Họ Vũ Văn khiến bà ấy nước mất nhà tan, bà ấy để họ Vũ Văn tuyệt tử tuyệt tôn. Báo thù quá thảm khốc, phải không?” Lý Khác buồn bã nói, trong mắt bất giác đã thoáng rưng rưng, “Về sau, không còn ai biết tin tức về bà ấy nữa. Có người nói bà ấy đã chết, cũng có người bảo bà ấy xuất gia làm ni cô. Xem ra trong lòng bà ấy cũng đau khổ đến cùng cực.”

“Không đáng, vì một gã đàn ông phản nước phản nhà như vậy, quá là không đáng!” Kỳ Úc hít vào một hơi lạnh buốt, trong đầu chợt nhớ đến lời Lý Thế Dân nói với nàng lúc đó: Kỳ Úc, đối tốt với nó, đừng để nó buồn, cũng khuyên nó đừng quá cố chấp. Nàng bèn siết chặt tay y hơn, nghiêng đầu nhìn y: “Tam lang, chàng thì sao?”

“Gì cơ?” Tiếng mưa càng lúc càng lớn, Lý Khác không nghe được rõ lời nàng nói.

“Thiếp nói là mẹ..” Kỳ Úc nghiêm mặt lại, “Giả như có một ngày, chàng biết được chân tướng câu chuyện cuối thời Vũ Đức, chàng có báo thù không?”

“Có chứ!” Lý Khác đáp mà không cần suy nghĩ, nhưng ngay sau đó lại nói với giọng ôn hòa, “Kỳ nhi, đừng sợ! Bất kể tương lai xảy ra chuyện gì, ta và nàng, và các con, sẽ mãi mãi ở bên nhau.”

Dưới mái hiên của vương phủ, Đỗ Húc vừa xoa tay vừa nói chuyện gì đó với Vũ Lương, nói đến lúc cao hứng, không kìm được mà cười ngả cười nghiêng. Thấy xe ngựa dừng lại êm ru, hắn quên cả cầm ô, chạy ngay ra đón, cung kính thi lễ rồi đứng hầu ở một bên. Lý Khác cẩn thận dắt tay Kỳ Úc, đỡ nàng xuống xe, rồi nói với Đỗ Húc: “Biểu huynh đến à? Hôm nay huynh ấy lại rảnh sao?”

“Vâng! Quân hầu mấy hôm không gặp điện hạ, nhớ ngài lắm đấy ạ!” Lúc Đỗ Húc nói chuyện, đôi lông mày cong luôn rung rinh lên xuống một cách vô thức, nói thì nhanh nhảu liến thoắng, nhưng nghe lại cảm thấy vồn vã. Lý Khác không sao hiểu nổi, Dương Chính Đạo trầm ổn thu mình, tại sao lại coi trọng một tên hầu lời nói cử chỉ thảy đều hấp tấp như Đỗ Húc cơ chứ.

Lý Khác bước đến hành lang ngoài Dung Phu đường, thấy Quý Thành đang bưng một ấm trà sứ trắng hoa văn mẫu đơn từ phía đối diện đi tới, liền hỏi: “Đưa cho Dương công tử à?”

Quý Thành gật đầu: “Dương công tử thích uống loại trà pha bằng nước suối chùa Huệ Sơn đun với bảy phân gừng, vỏ quýt, bạc hà, muối thô. Ti chức vừa trông cho đám người dưới pha xong, chắc hẳn công tử sẽ thích.”

“Không ngờ huynh ấy lại cầu kỳ thế!” Lý Khác cầm ấm trà trong tay Quý Thành nói: “Để ta mang cho huynh ấy. Ngươi đi lo việc khác đi.”

Lúc này Dương Chính Đạo đang ngồi quỳ trên đệm mềm, vừa cắn một miếng bánh hấp nhân thịt bò, vừa giở xem hai tờ giấy trên bàn. Đó là một bản tấu can gián hoàng đế chớ tùy tiện cất binh đánh Cao Câu Ly, so với mấy lần mập mờ nước đôi trước đây, lần này thái độ phản chiến của y cực kỳ kiên quyết. Có điều nhìn tờ giấy bị vò nhăn nhúm thế kia thì xem ra y cũng không có ý trình nó đến trước mặt vua. Trên đời này có rất nhiều chuyện không phải là cứ không trắng thì đen, mà là người muốn nó đen hay trắng. Từ khi trải qua sự kiện Lý Hựu và Lý Thừa Càn mưu phản, dường như Lý Khác đã dần hiểu được đạo lý này.

Lý Khác đẩy cửa bước vào, ngồi bên cạnh Dương Chính Đạo, hết sức ân cần rót đầy chén trà củ