Chương 10 Bờ cao khe sâu
Sắc trời nặng dần, một tiếng sấm bỗng rền vang giữa không trung, dưới tán hòe rậm rạp, mấy con quạ vỗ cánh rồi bay vút đi. Gió thu cuốn theo bụi đất làm người ta không mở mắt nổi. Chắc vì đêm qua ngủ không yên, nên lúc bước ra khỏi thiền phòng của Huyền Giác, Lý Khác cảm thấy rất chóng mặt, bước đi cũng hơi chếnh choáng. Đi qua một lối nhỏ ngoằn ngoèo sau hòn non bộ, y nghe thấy có hai tiểu hòa thượng đang múc nước nói chuyện phiếm.
Tiểu hòa thượng Biện Sâm cao gầy từ từ thả dây thừng cho gàu chìm xuống đáy giếng: “Biện Hưu, cậu đã nghe chuyện về Huyền Giác sư thúc chưa?”
“Là truyền thuyết sư thúc cưỡi sương mù vượt biển đến chùa Đại Hưng Thiện á?” Biện Hưu tiến lên hai bước, giúp Biện Sâm kéo gàu nước lên, nói: “Cơ mà nghe nói lúc đó chỉ có một mình Biện Minh sư huynh nhìn thấy, mà Biện Minh sư huynh đã viên tịch từ lâu lắm rồi, chẳng thể biết chuyện này là thật hay giả.”
Biện Sâm nhìn quanh rồi nói với vẻ thần bí: “Ngày trước tôi cũng nửa tin nửa ngờ, mãi đến tối hôm kia mới thực sự tin hoàn toàn.”
Hai người cùng vận sức, cuối cùng cũng kéo được một gàu nước đầy lên. Biện Hưu thở hồng hộc ngồi lên thành giếng nghỉ ngơi, tò mò hỏi: “Tối hôm kia như thế nào vậy?”
Biện Sâm nói: “Tối hôm kia tôi không ngủ được, bèn khoác áo dậy đi tản bộ. Lúc đi qua thiền phòng của Huyền Giác sư thúc, tôi nghe thấy ông ấy đang tụng kinh ở trong bằng những lời mà tôi không hiểu. Có lẽ đó chính là tiếng nói của thần tiên đấy!”
Biện Hưu vừa kinh ngạc vừa ngưỡng mộ ra mặt: “Tiếng của thần tiên á! Tuyệt thật! Vậy sau này chúng ta năng chạy đến thiền phòng của sư thúc hơn, không chừng còn hưởng ké được chút tiên khí!”
Nói xong, Biện Hưu liền nhảy xuống, cùng Biện Sâm xách thùng nước chầm chậm bước đi, vừa đi vừa tiếp tục huyên thuyên chuyện trò.
Lý Khác nhìn theo bóng lưng xa dần của bọn họ, trầm ngâm hỏi: “Biểu huynh, huynh tin không?”
“Không tin.” Dương Chính Đạo giễu cợt nói, “Có điều, nhìn bộ dạng nghiêm túc của tiểu hòa thượng đó, có vẻ cũng không giống đang bịa chuyện, xem ra bên trong thật sự vẫn còn uẩn khúc. Việc của đệ cả đấy.”
Lý Khác gật đầu, vừa nói một câu thì đã bị một hồi chiêng trống vang rền át đi mất. Hai viên nội giám áo đỏ đang xua đuổi những người khách đợi dâng hương ở ngoài điện, đến khi đuổi gần xong, lại có một người gân cổ hô lên the thé: “Cao Dương công chúa đến!”
Lão phương trượng Huyền Tế dẫn theo mười mấy đệ tử cung kính đứng hầu ở trước điện, cúi người vái chào: “Cung nghênh công chúa điện hạ!”
Nha hoàn Phù Liên vén rèm lên, đỡ Cao Dương công chúa giẫm lên ghế gấp để xuống xe. Cô ta mặc chiếc áo màu lam nhạt có cổ trái đào, bên dưới là chiếc váy hai lớp cạp cao màu tím xanh, tóc búi theo kiểu linh xà, cài một đóa mẫu đơn đỏ, hai bên còn kèm thêm trâm và bông tai phượng vàng, càng lộ rõ phong thái cao quý của công chúa hoàng gia. Cô ta khẽ đảo mắt, nhìn lướt qua các hòa thượng trước mặt, hơi nhíu mày thất vọng, sau đó vẫy tay với Phù Liên ở đằng sau. Phù Liên lập tức hiểu ý bước lên hai bước, thi lễ nói: “Các sư phụ không cần đi theo, cứ để công chúa đi dạo tùy ý là được.”
Huyền Tế thở phào, dẫn các đệ tử tản đi. Tuy trước đây Lý Khác không qua lại nhiều với cô em gái này, nhưng đã chạm mặt mà không lên tiếng chào hỏi thì có vẻ cũng không hợp lý lắm. Thế là y chỉnh lại vạt áo, bước tới nói: “Thập thất muội đã lâu không gặp. Sao lại đến dâng hương vào lúc này?”
“Không phải tam ca cũng đến vào lúc này sao? Có điều, em chưa bao giờ nghe nói tam ca cũng thích cầu thần khấn Phật.” Cao Dương công chúa nhướng mày, lộ ra một nụ cười khéo léo mà xa cách, rồi nhìn sang Dương Chính Đạo gật đầu: “Chào Tuyên Bình hầu.”
“Sức người chung quy vẫn nhỏ bé, vì vậy thỉnh thoảng cũng cần được thần Phật phù hộ, dù chỉ để an lòng đôi chút, nhất là trong thời buổi rối ren này.” Lý Khác nhìn giọt nước trên lá hòe ở cách đó không xa còn chưa rơi hẳn xuống, nói, “Thập thất muội cũng nghĩ vậy chứ?”
“Em thì chẳng tin vào thần Phật!” Cao Dương công chúa hơi ngẩng đầu, trong mắt lóe lên vẻ cao ngạo, “Thứ em muốn, tự em sẽ giành lấy! Giống như em đến nơi này, cũng chẳng phải để lạy Phật, mà là để tìm người. Tìm được y, coi như hạnh phúc của cả đời em đã được thành toàn rồi.”
Lý Khác thừa biết Cao Dương công chúa và phò mã Phòng Di Ái không hòa thuận, lần trước còn nghe nói cô ta làm ầm lên muốn Lý Thế Dân đồng ý cho mình hòa ly [*] với Phòng Di Ái. Xưa nay Lý Thế Dân luôn thương quý cô con gái này, cũng đáp ứng phần lớn yêu cầu mà cô ta đề xuất, nhưng hòa ly là chuyện hệ trọng, huống hồ cô ta và phò mã mới thành hôn được một năm, tất nhiên Lý Thế Dân từ chối thẳng thừng. Cao Dương công chúa giận lắm, khóc lóc nói rằng mình chẳng qua chỉ là một món quà Lý Thế Dân thưởng cho con trai của công thần, hoàn toàn không quan tâm cô ta có bằng lòng hay không. Lý Thế Dân bị cô ta làm phiền đến mức đau đầu, cuối cùng đành phất tay áo bỏ đi.
Giờ nghe cô ta bảo đến chùa tìm “hạnh phúc cả đời”, Lý Khác thực sự dở khóc dở cười. Thế là y chỉ nói lấy lệ: “Mong rằng thập thất muội được như ý nguyện.”
Phù Liên chỉnh lại vạt váy dài cho Cao Dương công chúa, cô ta không lên tiếng, xăm xăm đi thẳng, rồi chợt ngoảnh đầu nói: “Tất nhiên, em nói được thì nhất định sẽ làm được.”
Đi ra khỏi cửa chùa Đại Hưng Thiện, Dương Chính Đạo thả ngựa chậm bước nói: “Phô trương thanh thế quá thể! Cao Dương công chúa được nuông chiều thành thói, chẳng coi ai ra gì. Việc nhỏ thì thôi, nhưng nếu việc lớn cũng như vậy, không chừng sau này sẽ có người bị liên lụy đấy.”
[*] - Ý chỉ việc ly hôn thời xưa.
“Chỉ là một cô bé được chiều quá hóa hư thôi, Lý Khác nói, “cùng lắm là cậy được phụ hoàng yêu chiều mà làm nũng, chứ sao gây nổi việc lớn gì?”
Dương Chính Đạo nhếch môi: “Ta không biết, nhưng con gái tâm cao khí ngạo lại không có não đều khó ưa.
Lý Khác trêu: “Trong mắt huynh, con gái dễ ưa trên đời này e cũng chỉ có một mình Tuyết Lộ mà thôi.”
Dương Chính Đạo cười: “Còn có Kỳ muội, Kỳ muội cũng là cô gái tốt hiếm có trên đời, cho nên hai người mới xứng đôi vừa lứa như thế.”
Mười ngày sau, Lý Thế Dân xuống chỉ, truy tặng Vũ Văn Sĩ Cập làm Tả Vệ đại tướng quân, hậu táng ở Chiêu lăng bằng lễ quốc công, đặt cho tên thụy là “Túng”, đồng thời cho vợ là Thọ Quang huyện chúa ăn thêm lộc năm trăm hộ, cho con gái là Vũ Văn Tu Đa La hưởng bổng lộc của vương phi, sau khi chịu tang xong sẽ lập tức thành hôn với Triệu vương Lý Phúc.
Lúc Lý Khác biết được tên thụy này, y đang ở trong chính đường của Đại Lý tự trả lời công văn của phủ Ung Châu gửi đến, tay cầm bút khẽ run lên, một giọt mực thấm sâu vào tờ giấy, sau đó y không kìm được bật cười thành tiếng. Tiêu Nhuệ dòm khuôn mặt vui vẻ của y, không khỏi tò mò: “Sao các người đều có biểu cảm như vậy? Tên thụy bệ hạ đặt, lẽ nào có vấn đề gì sao?”
“Các người?” Lý Khác đặt bút xuống, nhìn gã vẻ khó hiểu, “Còn ai nữa?”
Tiêu Nhuệ vén áo ngồi xuống trước mặt Lý Khác, xếp lại một chồng công văn trên bàn giúp y. Đại Lý tự khanh tiền nhiệm là Đậu Đản, dượng của Lý Khác, vị học giả già này làm việc có quy củ nền nếp, cực kỳ cẩn thận tỉ mỉ. Nhưng ngay cả vậy, ông ấy cũng không như Lý Khác, mỗi công văn đều phải viết câu trả lời hàng trăm chữ, có khi còn dài hơn cả nguyên văn. Trên dưới Đại Lý tự không ai là không bội phục tinh thần và thể lực của y. Tiêu Nhuệ nhớ rằng, sở dĩ cha mình một lòng một dạ muốn nâng đỡ Lý Khác lên ngôi, không chỉ vì huyết thống, mà còn vì tri thức và nhân phẩm của y.
“Còn không phải cái vị Dương biểu huynh của tam đệ sao! Các người học vấn cao, toàn nhìn ra những thứ người khác không nhìn thấy”.
“Đâu có chỗ nào cao thâm lắm đâu?” Lý Khác thản nhiên nói, “Nếu Nhuệ ca đã đọc Thụy pháp giải thì sẽ hiểu ngay. Nhỏ mà lập chí gọi là túng, ý nói người này từ nhỏ đã có chí hướng lớn.”
Tiêu Nhuệ càng thêm khó hiểu: “Thế không phải rất tốt sao?”
“Rất tốt” ánh mắt Lý Khác thoáng lộ vẻ ranh mãnh, “nhưng Nhuệ ca đã từng nghe nói từ xưa đến nay có vị tôi trung tướng giỏi nào lấy chữ túng làm tên thụy chưa? Vì ngoài ý nghĩa nhỏ mà lập chí ra, còn có hai ý nghĩa khác, bại hoại trăm lần gọi là túng, quên đức hỏng lễ gọi là túng... quên đức hỏng lễ, cũng không oan cho ông ta!”
“Hóa ra là vậy!” Tiêu Nhuệ vỡ lẽ, nhưng lập tức lại nảy ra một mối nghi ngờ khác, “Nhưng bệ hạ đã ban cho ông ta vinh dự lớn là bồi táng ở Chiêu lăng, ngay cả vợ và con gái cũng đều được nhờ phúc của ông ta, tại sao còn phải cho một cái tên thụy làm người ta lấn cấn như thế?”
“Ông ta là khai quốc công thần, trong quá trình bệ hạ lên ngôi cũng lập công lao hãn mã, dựa vào những điều này, tất cả những đãi ngộ lớn mà ông ấy nhận được đều đáng mà Lý Khác lấy tay xoa trán, “Nhưng ông ta phản bội họ Dương, rồi lại phản bội họ Vũ Văn, nhân phẩm thực sự tồi tệ. Trong thời loạn bệ hạ dùng ông ta dựa vào sáu chữ ‘chỉ cần tài là cất nhắc, ở thời trị thì dùng vì tự tin mình có thể khống chế ông ta. Huống hồ Vũ Văn Sĩ Cập là người khôn ranh, đối với bệ hạ thì gọi dạ bảo vâng, lệnh sao làm thế, bệ hạ cũng cần người như ông ta để điều tiết tâm trạng của mình. Những bề tôi thẳng thừng can gián như Ngụy Trưng, Vương Khuê, Lưu Kỵ, hoặc cha của Nhuệ ca đương nhiên là tốt, nhưng nếu khắp triều đình toàn là những người như vậy, bệ hạ làm sao chịu nổi? Ông ấy là thiên tử, nhưng rốt cuộc vẫn là người phàm có đủ buồn vui mừng giận. Bệ hạ lấy tên thụy như vậy để tổng kết cuộc đời ông ta, cũng coi như là vừa vặn!”
Giờ Tiêu Nhuệ mới hiểu hoàn toàn, tâm phục khẩu phục đứng dậy vái một vái nói: “Thần lĩnh giáo rồi.”
Lý Khác nín cười đỡ gã: “Nhuệ ca làm cái gì vậy?”
Tiêu Nhuệ lại ngồi xuống nói: “Tam đệ hiểu được lòng đế vương, cũng am tường thuật dùng người của đế vương, lẽ nào vẫn chưa đủ để tôi học hỏi một phen sao?”
“Không phải là lòng đế vương, mà là lòng của người cha.” Lý Khác nói nhẹ tênh, “Ông ấy nói em giống ông ấy, có lẽ đúng là giống thật!”
Đang nói chuyện thì nghe thấy bên ngoài có người khẽ gõ cửa, rồi Quý Ân nhiều ngày trước phụng mệnh Lý Khác đi An Châu bước vào. Quý Ân lặn lội đường xa gió bụi về đây, đầu tóc hơi bù xù, cổ tay của chiếc áo bào xám đen dính đầy bụi đất. Hắn giơ tay lau mồ hôi trên trán, quỳ gối vái chào: “Ngô vương điện hạ, Tiêu thiếu khanh mạnh khỏe. Ti chức về rồi đây.”
Lý Khác chỉ vào chiếc cốc rỗng trên bàn nói: “Ngươi vất vả rồi! Uống miếng nước trước rồi ngồi xuống từ từ nói.”
Xem ra Quý Ân đang khát cháy cổ, uống một mạch ba cốc lớn mới thở phào nhẹ nhõm: “Lưu lục sự nói là, năm xưa một người thiếp của ông ta mắc bệnh nặng, được Hạ Thiệu Nghiêm chữa khỏi. Vì vậy trong khoảng thời gian đó, ông ta và Hạ Thiệu Nghiêm qua lại rất gần gũi. Chuỗi ngọc tú oánh đó cũng là của Hạ Thiệu Nghiêm tặng cho ông ta. Lưu lục sự vốn định từ chối, nhưng Hạ Thiệu Nghiêm nói đây là món quà giữa bạn bè với nhau, vì vậy ông ta cũng nhận lấy.”
Lý Khác hừ khẽ một tiếng, thầm nghĩ đúng là chỗ nào cũng có hắn ta. Năm sáu năm qua y đã suy nghĩ rất nhiều, cũng phái người đi khắp nơi điều tra nghe ngóng, nhưng đều không thấy tung tích của hắn, như thể hắn đã bất ngờ biến mất trên đời này vậy. Nhưng chuỗi vòng tay này lại cho Lý Khác một tia hy vọng. Y lẩm bẩm: “Xem ra phải dành thời gian đến phủ Vũ Văn một chuyến nữa rồi.”
Tiêu Nhuệ cũng nghe qua một số chuyện liên quan đến Hạ Thiệu Nghiêm, nhưng chưa biết rõ hoàn toàn, giờ lại nghe nói hắn có dây dưa đến chuyện của nhà Vũ Văn, không khỏi kinh ngạc nói: “Đi phủ Vũ Văn làm gì? Hay là để tôi đi cùng?”
Lý Khác nín cười nhìn gã nói: “Em đi trộm chuỗi ngọc tú oánh đó, lẽ nào Nhuệ ca cũng muốn theo sao?”
Tiêu Nhuệ ngạc nhiên đến nỗi suýt nữa không khép được miệng: “Tam đệ là Đại Lý tự khanh, nếu chuỗi vòng tay đó thật sự có vấn đề, hoàn toàn có thể đường đường chính chính hỏi người nhà Vũ Văn mà lấy, sao đến nỗi phải đi trộm?”
“Trộm cũng được, đòi cũng xong, kết quả đều như nhau,” Lý Khác vân vê ngón tay, trầm tư nói, “em chưa bao giờ câu nệ mấy chuyện này. Huống hồ, ngoài chuỗi vòng tay đó, em còn phải điều tra thứ khác.”
Tiêu Nhuệ hơi trầm mặc, rất lâu sau mới lại nói: “Tâm tư của tam đệ thật sự khiến người ta không thể nhìn thấu. Đúng rồi, đừng quên chuyện trưa mai Giang Hạ vương thúc mời chúng ta ăn cơm nhé.”
“Nhuệ ca không nói là em cũng quên mất đấy” Lý Khác đồng ý nói, “Ngoài em và biểu huynh, chú ấy còn mời ai nữa thế?”
Tiêu Nhuệ suy nghĩ một chút, di chuyển vị trí của chén lưu ly đặt trọn cả hai tay lên bàn: “Khả năng là vẫn có hai anh em nhà họ Sài. Vì chuyện của Cao Câu Ly, gần đây chú ấy cũng rất ưu phiền, chắc muốn nghe ý kiến của mấy người chúng ta.”
“Xưa nay chú đều không muốn tùy tiện dậy can qua, lần trước vì việc này mà tranh cãi với Vũ Văn Sĩ Cập trong buổi chầu. Tuy bệ hạ cũng có lòng muốn đánh trận này, nhưng cuối cùng vẫn nể mặt chú, không nói ai đúng ai sai!”
“Thái tử thì chẳng bao giờ có chủ ý. Ý của chú có lẽ là muốn tam đệ đi khuyên bệ hạ từ bỏ ý định Đông chinh, mấy người bọn ta chẳng qua chỉ để phụ thêm mà thôi.”
“Thái tử đã không nói gì thì hà tất em phải làm quá bổn phận?” Lý Khác phản bác, “Huống hồ em không muốn làm trái ý phụ hoàng.”
Một buổi trưa mấy hôm sau, Lý Khác đang báo cáo trong thư phòng của điện Vũ Đức, thấy mười chữ phi bạch Lý Thế Dân viết ở trên án thư, lòng bất giác rúng động: Trong rửa nhục tiền Tùy, ngoài giải vây Tân La. Lý Khác nắm miếng ngọc bội đeo trên thắt lưng, siết thật chặt, hình thỏ ngọc chạm bên trên cấn vào lòng bàn tay đau nhói.
Lý Thế Dân nhìn y hỏi: “Chữ trẫm viết thế nào?”
“Chữ của phụ hoàng tất nhiên rất đẹp.” Lý Khác nói xong lại trầm mặc, rất lâu sau mới nói tiếp, “Phụ hoàng quyết định thật rồi ư? Trận Cao Câu Ly này buộc phải đánh sao?”
“Con hiểu được là tốt. Con cũng không cần khuyên, trẫm đã quyết làm chuyện gì thì không bao giờ..” Lý Thế Dân nhìn Lý Khác, bỗng nhiên ngừng lời.
Nỗi lo ẩn chứa trong lòng Lý Khác càng thêm nặng nề: “Vậy chủ soái là ai?”
Vẻ mặt Lý Thế Dân thoáng chút tự phụ: “Trẫm không yên tâm để cho bất kỳ người nào làm chủ soái, ngoại trừ chính trẫm!”
“Không! Phụ hoàng không thể!” Lý Khác lo lắng, buột miệng không suy nghĩ, “Cao Câu Ly núi cao sông dài, nhọc quân viễn chinh đã không dễ. Nếu phụ hoàng muốn tự mình mạo hiểm, sợ rằng... sợ rằng…”
“Sợ rằng có đi mà không có về?” Lý Thế Dân lấy khăn lau đi một giọt mực vừa mới nhỏ xuống bàn, nói với vẻ không đồng tình, “Khác nhi, trẫm không phải là thiên tử thời bình, giang sơn này là trẫm liều mạng chém giết đoạt về từ trên sa trường. Những chuyện hai mươi năm trước trẫm có thể làm thì hai mươi năm sau trẫm cũng có thể! Con có hiểu không?”
Lý Khác từ từ buông miếng ngọc bội ra. Y hiểu, thậm chí còn đồng cảm với nỗi bất cam và sợ hãi trong lòng một anh hùng tuổi xế chiều. Y biết thời gian đã lấy đi những gì từ ông. Có lẽ, chỉ có ở trên chiến trường ánh đao bóng kiểm, ông ấy mới có thể trở về những năm tháng phi phàm xưa kia một lần nữa, cũng để quên đi những thứ ông ấy vô cùng khao khát muốn quên, nhưng lại bén rễ tận đáy lòng. Vì vậy, Lý Khác mới xé bỏ bài sách luận phản chiến phân tích đầy lý trí kia, mới ậm ừ trước yêu cầu hy vọng y sẽ khuyên can của Giang Hạ vương.
Tuy nhiên, nói cho cùng Lý Thế Dân không phải là một anh hùng bình thường, ông còn là vua một nước, gánh vác trọng trách với muôn dân. Lý Khác nhanh chóng sắp xếp làm rõ những cảm xúc rối rắm phức tạp trong đầu, cúi người lạy rồi nói như đã hạ quyết tâm: “Lẽ nào phụ hoàng chưa bao giờ nghĩ đến việc cho con làm chủ soái sao? Phụ hoàng từng nói sẽ mãi mãi tin con. Vậy thì những việc phụ hoàng muốn làm, những việc ông ngoại không làm được, cứ để con đi thử, có được không?”
Ông ngoại. Lý Thế Dân kinh ngạc nhìn y, xưa nay ông chưa từng nghe Lý Khác nói ra hai chữ này. Năm xưa Tùy Dạng Đế vung hết tiền của, huy động binh lính toàn quốc, ba lần thảo phạt Cao Câu Ly nhưng phải hậm hực quay về, đó là mối hận cả đời ông ta, cũng là sai lầm lớn nhất đời ông ta. Đó là cuộc tàn sát bất nghĩa, vậy thì đây có phải cũng là một cuộc chiến bất nhân không? Lý Thế Dân định thần, nhìn bức chữ trước mặt lần nữa: Trong rửa nhục tiền Tùy, ngoài giải vây Tân La. Giả sử thật sự lấy hai lý do này đi thảo phạt Cao Câu Ly, thì Lý Khác quả thực là một sự lựa chọn không chê vào đâu được cho chức chủ soái. Luận thân phận, y là hoàng tử Đại Đường; luận huyết thống, y mang dòng máu của cả hai triều Tùy, Đường; luận tài cán, y có kiếm thuật siêu quần, lại chăm đọc binh pháp từ nhỏ. Lý Thế Dân không khỏi hơi dao động: “Con thật sự nghĩ kỹ rồi chứ?”
“Vâng!” Lý Khác sang sảng nói, đầy tự tin và hăng hái tuổi trẻ, “Không phải phụ hoàng từng nói là con giống người sao? Giờ chắc vẫn tính chứ ạ!”
Ông từng nói vậy, kể cả giây phút này ông vẫn cho là như vậy. Nhưng sự “giống” này, đối với bản thân ông, đối với y, với thái tử, có thực sự là một chuyện tốt hay không? Muôn vàn suy nghĩ trào dâng, khiến Lý Thế Dân không thể không tìm kiếm đáp án trong vòng xoáy đó. Ngộ nhỡ thua trận, Lý Khác sẽ phải chịu tội quyết định không thỏa đáng thay ông, lòng ông không nỡ; giả sử chiến thắng, vậy thì Lý Khác sẽ thật sự trở thành ông năm xưa, những nghi kỵ, tranh quyền, giết chóc cũng sẽ nhất loạt tái hiện. Cho dù sau này Lý Khác có thể tâm như nước lặng, an phận giữ mình, nhưng người khác thì sao? Đến lúc đó, có người sẽ xúi giục nó, có người sẽ đề phòng nó, có người sẽ đối phó với nó. Không quên chuyện cũ, để làm gương sau, không phải ông không có sự đề phòng này. Lý Thế Dân giật mình nhận ra ông đã nghĩ đến hai chữ “đề phòng”, cuối cùng ông cũng sinh lòng đề phòng với Lý Khác. Không! Đó chẳng qua là những rối loạn nhất thời trong đầu, Lý Khác sẽ không bao giờ phụ lòng tin của ông, ông cũng sẽ không bao giờ hoài nghi Lý Khác.
Lý Khác chưa nhìn ra những tâm tư kỳ quái xoay chuyển liên hồi vừa trỗi dậy trong thoáng chốc của Lý Thế Dân, chỉ nghĩ đến tâm sự của chính mình. Nếu Giang Hạ vương biết mình không những không khuyên can cha đừng Đông chinh, mà còn chủ động xin đánh, muốn thành toàn cho hùng tâm của đế vương hai đời Tùy, Đường, thực chẳng biết ông ấy sẽ nghĩ gì về mình. Vậy còn Dương Chính Đạo, gã sẽ nghĩ như thế nào? Gã sẽ cho rằng mình thay đổi chủ ý, muốn lấy quân công làm quân bài để tranh đoạt ngôi kế vị? Không! Không thể để gã hiểu sai như thế được. Nghĩ đến đây, Lý Khác không cầm lòng được rùng mình.
Lý Thế Dân thở dài một tiếng nặng nề mà bất lực, vì lòng đề phòng đột nhiên trỗi dậy ban nãy, ông cảm thấy hơi chột dạ: “Khác nhi, không cần, đến lúc đó sẽ có việc quan trọng hơn để con làm. Còn bây giờ... chẳng bằng con nghĩ giúp trẫm lý do danh chính ngôn thuận để xuất binh.”
Lý Khác nghe thấy câu này, lòng bỗng nhẹ nhõm hẳn, nhưng rồi lại nghi hoặc nói: “Không phải phụ hoàng đã có lý do rồi sao?”
“Con cảm thấy những lý do này có sức thuyết phục sao?” Lý Thế Dân nhíu chặt mày, “Trong rửa nhục tiền Tùy - tuy bảo chúng ta là thân thích của triều Tùy, nhưng nói cho cùng vẫn là triều Tùy chủ động chọc vào Cao Câu Ly trước; ngoài giải vây Tân La - Cao Câu Ly chẳng qua là một tiểu quốc, cho dù diệt được Tân La, cũng chẳng uy hiếp nổi chúng ta.”
“Hóa ra phụ hoàng đã nhìn ra thấu đáo như vậy!” Trong lòng Lý Khác càng thêm kinh ngạc, “Nhưng đã như vậy, sao người còn muốn...”
“Biết là không thể làm thì có thể không làm, đó là thánh nhân.” Giọng Lý Thế Dân mang theo chút tự phụ, “Trẫm làm thánh nhân nhiều năm như vậy, tuy không dám sánh với Nghiêu Thuấn, nhưng tự thấy chưa làm nhục liệt tổ liệt tông nhà họ Lý ta! Trẫm đã qua tuổi bất hoặc [*] , có lẽ cũng nên làm một chuyện theo ý mình.”
Lý Khác cắn môi thật mạnh, đến nỗi cổ họng còn cảm nhận được vị tanh ngọt. Y nhìn cát mịn sắp chảy xuống hết trong đồng hồ, nhìn đến mỏi cả mắt mới hoàn hồn nói: “Phụ hoàng yên tâm.”
Bước ra khỏi thư phòng điện Vũ Đức, Lý Khác nhìn thấy một cô gái trong trang phục cung tần đang đứng hầu ngoài cửa, cúi người vái chào y: “Thiếp thân là tài nhân họ Võ tham kiến Ngô vương điện hạ. Nhiều năm không gặp, điện hạ có khỏe không?”
Lý Khác mang máng nhớ ra bốn hay năm năm trước gì đó, mình từng gặp vị Võ tài nhân này một lần ở bên cạnh Lý Thế Dân, tuy không mấy ấn tượng về cô ta, nhưng vẫn lờ mờ nhớ được lúc đó phụ hoàng chắc hẳn rất thích cô ta, nghe nói còn đặc biệt ban cho cái tên “Mỵ Nương”. Không ngờ đã qua nhiều năm như thế mà cô ta vẫn chỉ là tài nhân ngũ phẩm. Có điều chuyện của hậu cung, phận là bề tôi hay con cái cũng không tiện suy nghĩ nhiều. Y chỉ khẽ gật đầu nói: “Đa tạ tài nhân quan tâm. Tiểu vương vẫn ổn.
[*] - Khổng Tử có câu: "Tử thập nhi bất hoặc" ( Bốn mươi tuổi thì không còn ngờ vực ).
Võ tài nhân trán vuông má rộng, dáng vẻ thanh tao điềm tĩnh, chỉ là nét mặt dường như có một sự ẩn nhẫn cứng cỏi hiếm thấy ở nữ nhi. Cô ta sờ chiếc thoa như ý bằng san hô đỏ cài trên búi tóc, hạ thấp giọng nói: “Gần đây bệ hạ thường lẩm bẩm tên một người con gái trong mơ, có một lần, thậm chí còn giật mình tỉnh giấc hét lên cái tên này. Chẳng hay điện hạ có biết người trong lòng bệ hạ ấy là ai không?”
Lý Khác không ngờ cô ta sẽ hỏi như vậy. Tuy trông cô ta còn nhỏ hơn y mấy tuổi, nhưng rốt cuộc vẫn xem như là trưởng bối của y, nói năng như vậy không khỏi thất lễ. Thế là y chỉ nói lấy lệ: “Tiểu vương không biết, cũng không tiện suy đoán thêm.”
Võ tài nhân lại như thể không nghe thấy, vẫn tự nói một mình: “Thiếp thân vốn cho rằng, một anh hùng như bệ hạ, hắn phải mang trong lòng chúng sinh thiên hạ, canh cánh nghĩ cho muôn dặm giang sơn, đâu ngờ, anh hùng cũng có tình cảm gái trai quyến luyến. Người con gái có thể bước vào trái tim bệ hạ chắc là rất hạnh phúc!”
Lý Khác nghe thấy giọng của cô ta đượm phần buồn thương, không khỏi mềm lòng nói: “Điều này là đương nhiên. Không phải phụ hoàng cũng rất tốt với tài nhân sao?”
Võ tài nhân nắm chặt khăn lụa trong tay, sống mũi bỗng hơi cay cay. Rất tốt sao? Có lẽ lúc đầu, quả đúng là rất tốt. Cô biết Lý Thế Dân thích cưỡi ngựa bắn cung, bèn liều mình học theo sở thích đó, chăm chỉ luyện tập, thậm chí dùng cả roi sắt và chùy sắt để thuần hóa con ngựa dữ Sư Tử Thông cho ông. Song từ đó về sau, dù Lý Thế Dân không hoàn toàn gạt bỏ cô khỏi tâm trí, nhưng cũng chẳng nhiệt tình như trước nữa. Cô bèn gượng cười: “Như người ta uống nước, ấm lạnh tự hay. Tốt hay không tốt, chỉ có bản thân mới biết được.”
Lý Khác không muốn quanh quẩn mãi trong chủ đề này với cô ta, lại nhớ ra lát nữa mình còn có chuyện quan trọng phải làm, toan đi tiếp thì lại nghe thấy Võ tài nhân mau lẹ nói một câu: “Nếu điện hạ thực sự muốn ngôi vị đó thì hãy nói với bệ hạ, bệ hạ đang đợi ngài lên tiếng đấy.”
Gió thu cuốn theo tiếng mưa nhỏ lao xao, ào ào thốc vào từ ngoài điện. Lý Khác kinh ngạc, vừa định hỏi rõ ý của cô ta, thì thấy cô ta sai hai cung nữ ở đằng sau bưng trà bánh vào trong thư phòng. Sĩ Lộc đã đợi ở ngoài điện từ lâu, ân cần xòe chiếc ô vải dầu lớn đưa cho Lý Khác. Lý Khác nhận lấy ô nói: “Đa tạ công công.”
Mấy cây mai ngoài đình Quy Vân dường như lại cao thêm, nhiều nụ hoa li ti xen lẫn trong tán lá màu xanh lục. Sau hai tháng, hoặc có thể ba tháng nữa, nơi đây sẽ rợp hoa mai đỏ, những đóa mai đỏ kiều diễm nhất trong thành Trường An, mang theo hương thầm say đắm lòng người. Lý Khác nhớ mẹ mình thích hoa đào nhất, còn Kỳ Úc chỉ thích mai đỏ. Nhưng hoa đào cũng vậy, hoa mai cũng thế, qua thời rực rỡ rồi cuối cùng sẽ đến lúc điêu tàn, khác hẳn với tùng bách, xanh tốt quanh năm, không vì ngoại vật mà vui, không vì bản thân mà buồn.
Lúc Lý Khác tới phủ của Dương Chính Đạo, mưa đã tạnh, một dải cầu vồng bảy sắc dần hiện lên ở phía chân trời. Đỗ Húc đang khoa tay múa chân kể chuyện trong Sơn hải kinh cho mấy tiểu nô mới tới, chỉ là chúng khác những gì được ghi chép trong sách một trời một vực. Nhưng đám tiểu nô lại nghe một cách đầy hào hứng, còn khen Đỗ đại ca có học vấn.
Đỗ Húc đỏ bừng mặt, rõ ràng rất khoan khoái với những lời nịnh hót ấy. Mãi đến khi ngựa của Lý Khác dừng ở cửa phủ, Đỗ Húc mới thu lại vẻ mặt dương dương tự đắc, dắt dây cương ngựa, cung kính thi lễ nói: “Tham kiến Ngô vương điện hạ.”
Lý Khác bực mình nhìn hắn nói: “Đỗ Húc, ngươi có biết ngoa thú không? Chính là ngươi đấy.”
“Ngoa thú?” Đỗ Húc dẫn Lý Khác vào phủ, không khỏi tò mò hỏi, “Đó là gì ạ?”
Lý Khác tiện tay ngắt một chiếc lá ngay phía trên đầu, nở nụ cười trêu chọc: “Ngoa thú được sinh ra ở vùng hoang vu phía Tây Nam, hình dáng như cọp, mặt người biết nói, thường hay lừa người, nói Đông là Tây, nói ác là thiện. Thịt của nó ngon, ăn vào nói sẽ không thật.”
Đỗ Húc gãi đầu, ngượng ngập nói: “Điện hạ, tiểu nhân vẫn không hiểu.”
Lý Khác vê nghịch chiếc lá, chẳng mấy chốc, trên ngón tay đã dính đầy nước lá màu xanh lục: “ Sơn hải kinh, Thần dị kinh , mai này sẽ bảo công tử nhà ngươi dạy dỗ lại ngươi cẩn thận.”
Vừa nói chuyện, hai người đã đi đến ngoài Ký Minh trai, nghe tiếng nhạc du dương vắng ra từ bên trong, sôi sục hùng hồn, dạt dào phóng khoáng. Đỗ Húc đang định gõ cửa thì Lý Khác xua tay, ra ý bảo hắn lui về ôn tập chuyện trong Sơn hải kinh một lần nữa.
“Đợi đã..” Đúng lúc Lý Khác đang mê mẩn lắng nghe, tiếng đàn bỗng dưng im bặt, giọng nói trong trẻo của Tuyết Lộ vang lên, “Mấy nốt trong đoạn chính thanh thứ mười Trường hồng này có vấn đề. ‘Nhiếp Chính hành thích Hàn Khôi, cầu vồng vắt ngang trời. Đây là cảnh nguy ngập lâm đầu, sao âm thanh lại có thể trầm xuống được.”
Dương Chính Đạo đàn lại một lượt, thưởng thức kỹ càng rất lâu, rồi mới lên tiếng: “Không đúng! Sau Trường hồng là đến Hàn phong , khúc nhạc nên êm dịu trầm lắng, nếu trước đó nâng nhịp điệu lên cao quá, khó tránh mất đi sự hài hòa. Hơn nữa Nhiếp Chính bỏ mạng giữ nghĩa, chết vì tri kỷ, nỗi lòng vốn dĩ phải nặng trĩu.”
Dường như Tuyết Lộ không thừa nhận, vẫn đàn theo ý của mình một lượt, rồi hài lòng nói: “Không phải rất hay sao? Thiếp đã nói rồi mà! Không được cãi thiếp!”
“Đã bảo như vậy là không được mà,” Dương Chính Đạo sốt ruột nói, “nàng nên xét đến phong cách cả bài, không thể chỉ dựa vào cái sảng khoái nhất thời được. Đâu có thích khách nào lúc đi hành thích vẫn cao giọng như thế, không sợ bị người khác phát hiện sao?”
“Già mồm cãi cố!” Tuyết Lộ không vui quạt mạnh dây đàn một cái, “Trước đây chàng đều biết nhường thiếp...”
“Trước là vì nàng có lý!”
“Vậy hiện giờ là thiếp gây sự vô lý chứ gì?”
“Ta đâu có nói như vậy!”
“Nghĩ vậy cũng không được!”
Lý Khác không nhịn được phải phì cười, nghĩ bụng, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, trên đời này e là cũng chỉ có mình cô nàng này có thể trị được Dương Chính Đạo đến nơi đến chốn. Quả nhiên, Dương Chính Đạo chỉ trầm ngâm giây lát, rồi dịu giọng nói ngay: “Được được được, nghe theo nàng! Đều tại Nhiếp Chính không tốt, đã chọc giận Tuyết nhi. Chính thanh vẫn còn hai đoạn chưa bổ khuyết xong, hay là làm luôn một thể?”
“Mai đi. Giờ thiếp chẳng muốn để tâm đến chàng nữa.” Tuyết Lộ đứng dậy đi vài bước rồi nói, “Thiếp phải đi xem Sùng Lễ đã ngủ dậy chưa.”
Tuyết Lộ kéo then cửa ra, thấy Lý Khác ở bên ngoài, cũng không quá kinh ngạc, chỉ chắp tay nhún mình chào, gọi một tiếng: “Tam ca.”
Lý Khác mỉm cười: “Em đang cãi nhau với biểu huynh à?”
Tuyết Lộ nghĩ rằng giờ tốt xấu gì mình cũng đã làm mẹ, trong mắt người ngoài, tính cách cũng luôn dịu dàng hòa nhã, thực sự hiếm khi giở thói ngang ngạnh cãi bướng như thế này, nên hơi xấu hổ nói: “Tam ca tự hỏi chàng đi. Em đi đây."
Lý Khác ngồi nghiêng ngả trên giường, khép hờ hai mắt, nghe nốt tiếng đàn cuối cùng mới uể oải dụi mắt, hững hờ nói: “Ta thật sự không nghe ra có gì khác biệt.”
“Đàn gảy tai trâu!” Dương Chính Đạo phất tay áo, ném quả quýt cạnh tay cho Lý Khác.
Lý Khác giơ tay đón lấy, chậm rãi bóc vỏ, bỏ một múi vào trong miệng, thấy mọng nước nhưng không ngọt cho lắm. Y tiện tay giở quyển nhạc phổ trên bàn, thấy ngoài ba chữ trên cùng ra, còn lại khó hiểu chẳng khác gì sách trời: “ Quảng Lăng tán ? Không phải đã bị thất lạc mấy trăm năm rồi sao?”
“Nói chung vẫn còn chút xíu manh mối!” Dương Chính Đạo phủ một mảnh lụa điều lên trên cây cổ cầm trước mặt, “Hồi nhỏ ta tình cờ tìm được nửa khúc phổ Quảng Lăng tán còn sót lại ở chỗ bà nội, từ đó luôn muốn bổ sung hoàn chỉnh nó trong khi còn sống, nhưng có lòng mà không đủ sức, cho đến khi gặp được Tuyết Lộ.”
Dường như trong những ngày lá rụng lả tả bay, gã đều dễ dàng nhớ đến cảnh lần đầu gặp Tuyết Lộ. Hôm đó, gã lần theo tiếng đàn mà tới, dừng chân bên ngoài khuê phòng của nàng. Lá rơi theo gió vương lên vai gã, song gã lại chẳng cảm thấy gì, vẫn bần thần đứng đó lắng nghe. Nàng mở cửa ra, trong đôi mắt trong veo ánh lên thần thái lanh lợi của thiếu nữ. Gã sợ nàng cảm thấy bị mạo phạm, liền quay lưng bỏ đi ngay. Nàng lại rảo bước đi đến trước mặt gã, cất giọng du dương như chim vàng anh: “Dương công tử?”
Gã mỉm cười, giũ lá vàng khắp trên người: “Huyện chúa biết tôi sao?”
Nàng cũng cười, xưa nay cũng không có cô gái nào có thể mặc bộ áo váy màu cánh sen tươi tắn này được xinh đẹp thoát tục như thế: “Chẳng phải công tử cũng biết thân phận của tôi sao?”
Trong lòng gã lúc đó chất đầy phiền não muốn nói nhưng lại thôi, những nỗi u sầu thiếu nữ như có như không trong tiếng đàn cầm ấy xô vào trái tim gã từng chút, từng chút một, dường như cũng trở thành tâm sự quấn lấy gã.
Sau đó, bọn họ thường cùng nhau trò chuyện gảy đàn, ngâm thơ vẽ tranh. Tình cảm tri âm cùng chí hợp đạo thuở thiếu thời, đến lúc chín muồi tự khắc trở thành tình yêu nam nữ khó lìa khó bỏ. Nàng trao chuỗi tràng hạt bằng gỗ tử đàn lá nhỏ đeo từ khi còn bé cho gã, hơi cụp mắt xuống, khe khẽ nói: “Đến sinh nhật mười lăm tuổi của thiếp, chàng tới cầu thân với cha thiếp có được không?”
Gã đứng ngoài vương phủ trọn một ngày, đến khi chuông điểm giờ Tý mà không có can đảm bước vào. Gã tưởng rằng nàng sẽ thất vọng tột cùng về gã, nhưng nàng chỉ nhờ thị tì chuyển cho gã một câu: Chàng đến lúc nào thì thiếp lấy chàng lúc đó. Gã biết sứ mệnh khi sinh ra của mình, biết trong cuộc đời đã được lên kế hoạch sẵn của gã không nên xuất hiện một người con gái mở cánh cửa lòng gã ra như thế này. Nếu tương lai đã định trước là gã sẽ phụ nàng, thì chẳng thà tất cả chưa từng bắt đầu.
Nếu không phải sau này Lý Khác lấy Phòng Di Trực để dồn ép tình cảm của gã, nếu không phải hoàng đế hạ chỉ ban hôn thành toàn, sợ rằng gã và nàng thật sự đã để lỡ nhau cả đời. Nhưng sau khi tiếp chỉ, gã lại nhận được lời nhắn của nàng: Trừ phi gã tự mình đến vương phủ cầu thân với Giang Hạ vương, bằng không, nàng thà kháng chỉ chứ không muốn lấy gã.
Hôm đó, gã tới vương phủ, kể cho nàng nỗi khổ tâm nhiều năm qua của gã. Gã là đứa con mất cha từ khi còn trong bụng mẹ, mẹ lại qua đời sau khi sinh hạ gã ở Đột Quyết. Khi gã lớn lên một chút, để lung lạc thế lực tàn dư của triều Tùy đi theo bọn họ, Hiệt Lợi khả hãn đã nâng đỡ gã làm Tùy vương. Từ nhỏ đã có người nghiêm khắc đốc thúc gã học tập, còn nói với gã rằng, số mệnh của gã đã gắn liền với một người khác, chỉ có lớn mạnh lên, gã mới có thể giúp người đó trở thành quân vương thống trị thiên hạ, bằng không, người đó sẽ chết, gã cũng vậy. Gã nói gã sợ bị số mệnh trêu đùa, sợ nàng phải chịu liên lụy. Song nàng lại ôm chặt lấy gã, nói với gã rằng, xưa nay nàng không tin vào vận mệnh.
“Biểu huynh!” Lý Khác nhân lúc gã chìm đắm trong chuyện xưa, ném một mảnh vỏ quýt lên người gã, “Nghĩ gì mà say sưa thế? Có nghe thấy ta nói gì với huynh không?”
Dương Chính Đạo sực tỉnh, lại cảm thấy đầu óc ngày càng căng lên ghê gớm. Gã đứng dậy mở cửa sổ, mặc gió thổi vào, đến khi thấy hơi lạnh mới ngồi về chỗ cũ, nhặt vỏ quýt rơi trên mặt đất lên: “Nhớ lại một số chuyện đã qua thôi. Không sao, dù gì cũng qua cả rồi. Đệ vừa mới nói gì vậy?”
Lý Khác lấy chuỗi ngọc ở trong tay áo ra, ném cho Dương Chính Đạo: “Vũ Văn Sĩ Cập sinh thời luôn đeo chuỗi ngọc này, kiểm tra giúp ta xem có vấn đề gì không?”
“Đúng là vô cùng quen mắt.” Dương Chính Đạo nhìn đi nhìn lại mấy lần rồi lắc đầu nói, “Ngoài việc chắc chắn nó là ngọc tú oánh thượng hạng, ta thực sự không thấy có chỗ nào không ổn. Đệ muốn ta tra ra cái gì?”
“Huynh không nhìn ra bí ẩn trong đó sao?” Lý Khác ngồi sang bên cạnh Dương Chính Đạo, lấy ra một cây trâm mảnh từ trong tay áo, khẽ khều vào đuôi của con ngựa bạc nhỏ ở giữa chuỗi ngọc, lập tức lộ ra một cái lỗ, hóa ra toàn thân con ngựa bạc đều trống rỗng. Y đặt cây trâm mảnh xuống nói: “Ta muốn biết, giả sử bỏ thuốc độc vào trong qua cái lỗ nhỏ này rồi bịt lại, thì có thể lấy mạng người ta không?”
“Hóa ra đệ vẫn ôm mối hoài nghi này” Dương Chính Đạo kiểm tra kỹ lại một lượt, nghĩ ngợi rất lâu rồi mới khẳng định: “Không thể nào, theo ta được biết, không có loại thuốc độc nào có sức phát tán đến mức gây chết người như vậy. Huống hồ, nếu thật sự bỏ thuốc độc vào bên trong thì con ngựa bạc này đã chuyển đen từ lâu rồi, sao có thể sáng loáng như bây giờ?”
“Nói vậy cũng đúng” Lý Khác hơi thất vọng, “xem ra đúng là ta đã nghĩ quá nhiều. Có lẽ Vũ Văn Sĩ Cập thật sự có thói quen thích đồ của nữ nhi cũng chưa biết chừng.”
Dương Chính Đạo nghe y nói câu này một cách trịnh trọng, bất giác thấy hơi buồn cười, vỗ lên mu bàn tay y nói: “Nghĩ mệt rồi thì đừng nghĩ nữa. Hôm nay muộn rồi, mấy ngày nữa chúng ta ra ngoài đi dạo nhé, được không?”
“Cũng phải xem đi đâu đã.”
“Đến chỗ bà nội ta thì sao? Lần trước ta qua bà còn nhắc đến đệ và lục đệ. Đệ thì dễ nói rồi, còn lục đệ, cũng đành phải tránh nặng tìm nhẹ thôi.”
“Lục đệ cũng không sao, đợi mấy hôm nữa phụ hoàng bớt giận, chắc sẽ phục chức cho nó, để nó trở về” gương mặt Lý Khác dần hiện lên vẻ hiền hòa của một người anh, “cơ mà ta lại hâm mộ nó, ít nhất nó sống thoải mái tự tại hơn chúng ta.”
“May mà đệ chưa bao giờ giống nó..” Dương Chính Đạo lẩm bẩm, rồi lại cao giọng hỏi, “Rốt cuộc đệ có đi hay không?”
Lý Khác cất chuỗi ngọc vào trong tay áo: “Được, đến lúc đó huynh tới tìm ta là được.”
Kể từ khi Tiêu hoàng hậu trở về từ Đột Quyết vào năm Trinh Quán thứ tư, Lý Thế Dân đối xử với vị mẫu nghi triều trước này rất trọng hậu, không chỉ bố trí nhà cửa ruộng đồng ở ngoại ô thành Trường An cho bà, mà mỗi dịp lễ tết đều phái người đến thăm hỏi. Tiêu thị sinh ra và lớn lên trong hoàng thất, còn kết hôn với vua của một nước, dù cho tuổi đã ngoại thất tuần, lại trải qua nỗi đau nước mất nhà tan đầy thê thảm, nhưng mắt bà vẫn như nắng xuân, phong thái ung dung điềm đạm.
Bà múc hai muỗng nước từ nồi trà vào trong chén trà, nhặt một cọng hành [*] nổi bên trên ra, đưa trà đến tay Lý Khác, ân cần nói: “Chính nhi bảo gần đây Ngô vương luôn bị những chuyện vụn vặt quấy rầy, trông đúng là gầy đi không ít. Thân thể là của mình, phải tự quý trọng giữ gìn mới phải.”
“Con cảm ơn ngoại quan tâm.” Lý Khác nhận lấy chén trà bằng hai tay, khẽ nhấp một ngụm, ngẩng đầu cười, “Trà ngoại tự tay pha chế bao giờ cũng khác với mọi người, mùi vị rất đặc biệt.”
[*] - Thời Đường có nhiều phương pháp dùng trà như pha trà, nấu trà... Khi nấu trà người ta thường cho cả hành, gừng, táo, vỏ quýt, bạc hà, v.v... vào nồi.
Nước trong nồi trà sôi sùng sục, nghe rất rõ trong căn phòng yên tĩnh này. Năm xưa Lý Khác vừa gặp Dương Chính Đạo đã ngỡ như quen từ lâu, thân như anh em, nhưng đối với người bà còn gần gũi hơn về mặt huyết thống này lại chẳng nảy sinh tình cảm đặc biệt gì mấy, mà dường như Tiêu thị đối với y cũng như vậy, yêu quý có thừa mà thân mật thì chưa đủ. Giống như lúc này, bà chỉ nhẹ nhàng nói một câu: “Nếu Ngô vương thích thì năng đến đây hơn đi.”
Lý Khác biết đó chẳng qua là lời khách sáo của bà, nhưng vẫn vô cùng hào hứng nói: “Chỗ của ngoại là yên tĩnh nhất, nếu ngoại không chán ghét, ngày nào con cũng được ở đây thì còn gì bằng.”
Năm tháng luôn lặng lẽ trôi qua. Tươi đẹp và thương đau, hiện thực và quá khứ, cuối cùng cũng bị vùi lấp trong bụi trần cuồn cuộn. Trên mặt đất trăm hoa rực rỡ trước kia, không biết tự bao giờ đã nảy sinh một vùng xanh mới. Tiêu thị nhìn chằm chằm vào khuôn mặt Lý Khác, thực ra trông y giống cha mình hơn là Nhiêm Nhi, nhưng mỗi lần y ngồi trước mặt bà là bà lại không cầm lòng được nhớ đến Nhiêm Nhi. Lúc sinh hạ Nhiêm nhi, bà đã bốn mươi, có lẽ vì lý do đó, từ nhỏ Nhiêm Nhi đã hay ốm đau quặt quẹo. Bà rất thương cô con gái út mỏng manh nhưng hiểu chuyện này, nên luôn giữ bên cạnh để tự mình nuôi nấng. Mãi đến hôm nay, bà vẫn hối hận năm xưa không ở lại Trường An cùng Nhiêm Nhi, khiến con gái phải chết một cách thê thảm như vậy.
Tay bà vô thức nắm chặt trang sức đeo ở thắt lưng, chỉ nghe thấy cạch một tiếng, nó đã rơi xuống đất. Lý Khác vội cúi người nhặt nó đặt lên trên bàn: “Con tỳ hưu ngọc tú oánh này tinh xảo quá! Ngoại cũng thích ngọc tú oánh ạ?”
Tiêu thị nhướng mày, đặt con tỳ hưu vào trong tay Lý Khác: “Năm xưa mẹ và dì của con cũng đều thích, ngọc tú oánh trong veo thuần khiết, rất hợp với tính cách của hai chị em chúng nó.”
Dương Chính Đạo cũng không khỏi bị con tỳ hưu đó thu hút: “Hai cô của con đều thích? Sao trước đây chưa bao giờ nghe nội nhắc đến.”
Tiêu thị cười: “Nói với con làm gì? Con đâu có am hiểu về đồ của đàn bà con gái.”
“Đồ của đàn bà con gái ư?” Dương Chính Đạo và Lý Khác nhìn nhau, đồng thanh nói.
“Sao thế?” Tiêu thị thấy hai người đều tỏ vẻ hốt hoảng nghi ngờ giống nhau, ngạc nhiên hỏi, “Lẽ nào không phải đồ của đàn bà con gái sao?”
“Sao lại không ạ?” Lý Khác đang định mở miệng, lại bị Dương Chính Đạo giành trả lời trước, “Tất nhiên con không am hiểu mấy thứ này, nhưng Khác đệ lại là chuyên gia đấy!”
Tuy Tiêu thị nhìn ra sự bất thường của hai anh em, nhưng cũng không truy hỏi, chỉ đổi chủ đề: “Tối qua nghe A Nặc kể, am Tịch Quang bị kẻ trộm đột nhập, không biết sau đó thế nào?”
“Con còn chưa nghe chuyện này. Lát nữa con sẽ bảo Vân Lĩnh tìm Tề Trưởng Thăng hỏi xem.” Lý Khác vừa nói vừa xoa con tỳ hưu nhỏ trên tay, thấy mấy chiếc răng trong miệng nó được chạm trổ rất đáng yêu, “Am Tịch Quang nằm ở nơi hẻo lánh, lâu nay hương hỏa cũng không thể coi là thịnh vượng, sao vẫn bị bọn trộm dòm ngó nhỉ? Đúng thật là kỳ lạ.”
“Trộm cũng có đạo. Dám lấy trộm đồ của người xuất gia, cũng không sợ tổn thọ sao?” Dương Chính Đạo tỏ vẻ trào phúng, lạnh lùng nói.
Đang nói chuyện thì thấy A Nặc gõ cửa bước vào, tay bưng chiếc đĩa sứ trắng đựng năm, sáu chiếc bánh nướng thịt dê bốc khói nghi ngút. Lúc mới tới A Nặc chỉ hơn mười tuổi, mà nay đã đến tuổi đôi mươi, trưởng thành trổ mã, ngày càng mảnh mai duyên dáng, thanh tú đáng yêu. Mấy năm đầu Tiêu thị định gả cô cho Dương Chính Đạo làm thiếp, nhưng cô nói mình xuất thân hàn vi, không xứng với công tử, chỉ cần được hầu hạ bên cạnh phu nhân là cô đã mãn nguyện rồi. Mỗi người một chí, Tiêu thị thấy cô kiên quyết nên cũng gác việc này lại.
A Nặc ngồi quỳ xuống đất, trước tiên đưa một chiếc bánh cho Tiêu thị, rồi cẩn thận phân biệt một lượt, sau đó đưa cái dưới cùng cho Dương Chính Đạo. Giọng cô trời sinh đã hơi khàn khàn, cô nói rất nhẹ nhàng chậm rãi: “Công tử không thích ăn thịt dê, cái này làm bằng thịt bê, có cho thêm hai giọt mỡ dê, ngài nếm thử xem có hợp khẩu vị không ạ?”
Lý Khác thấy trong mắt cô rõ ràng chứa chan tình ý, thậm chí không có ý che giấu, liền cười nhẹ nói: “Gần đây ta luôn cảm thấy nóng trong người, công tử nhà cô nói ta không nên ăn nhiều thịt dê, cô nói xem phải làm thế nào?”
Khuôn mặt trắng ngần của A Nặc lộ vẻ lúng túng, cô cúi đầu vê chéo váy, hồi lâu mới nói: “Nhưng…. nhưng nô tì chỉ làm cho công tử ăn thôi.”
“Vậy thì hỏng rồi,” Lý Khác xòe tay nói, “giờ ta lại hơi đói bụng mới chết chứ! Phải như nào mới ổn đây?”
A Nặc hướng ánh mắt cầu cứu về phía Dương Chính Đạo, nhưng Dương Chính Đạo chỉ lo ăn, không nhìn sang chỗ cô. Cô càng đỏ mặt tía tai, không biết phải làm sao.
Lý Khác thấy cô như vậy, liền thu lại vẻ mặt trêu đùa, giả vờ thở dài bất lực, nói: “Thôi ta miễn cưỡng ăn thử một cái! Đến lúc đó nếu có gì không ổn thì đành phiền công tử nhà cô kê cho mấy thang thuốc để uống vậy.”
A Nặc giơ tay xoa khuôn mặt nóng bừng, chiếc chuông bạc đeo trên cổ tay leng keng lanh lảnh: “Đa tạ điện hạ.”
Lý Khác cầm chén trà, đang định uống một ngụm, bỗng liếc mắt thấy trên mu bàn tay cô có một hình xăm con hổ, liền tò mò hỏi: “A Nặc, hình xăm trên tay cô ở đâu ra vậy?”
A Nặc nói: “Nhiều nơi ở quê nô tì có tục, nếu đứa trẻ nào ốm yếu từ nhỏ thì sẽ vời pháp sư chuyên biệt xăm một vài hình mãnh thú lên cổ tay nó, hy vọng sẽ được phù hộ.”
Lý Khác lại nhìn hình xăm hổ một lần nữa, nghĩ bụng tướng mạo của con thú dữ này chẳng hợp với vẻ dịu dàng của A Nặc chút nào. Y thuận miệng hỏi một câu: “Quê cô ở đâu, sao lại có phong tục lạ lùng như vậy?”
Nói đến quê hương, vành mắt A Nặc liền đỏ hoe lên: “Nô tì sinh ra ở Cao Câu Ly. Đầu thời Trinh Quán, Cao Câu Ly có nội loạn, nô tì cùng ba theo thương đội đến Trường An. Một năm sau, ba mắc bệnh nặng qua đời. Nô tì đến phủ của Tiêu thiếu khanh làm người hầu thông qua giới thiệu của một bà bà cùng quê. Sau này lại tới chỗ phu nhân.”
“Cô là người Cao Câu Ly?” Dương Chính Đạo lấy khăn lau mỡ trên tay nói, “Chẳng nghe thấy cô kể bao giờ. Cô nói tiếng quan thoại Trung Nguyên tốt quá, hoàn toàn không nghe ra là người dị tộc.”
A Nặc gật đầu: “Nô tì không nói vì công tử chưa bao giờ hỏi nô tì cả! Ba biết tiếng Trung Nguyên, từ nhỏ đã dạy nô tì học võ vẽ. Sau này đến Trường An, lại học được rất nhiều từ bà bà kia.”
Mắt Lý Khác lóe sáng, y đặt chén trà xuống đứng lên, vái rạp một cái: “Con chợt nhớ ra trong phủ còn có mấy chuyện phải xử lý, xin cáo lỗi với ngoại, con đi trước đã, để biểu huynh ở với ngoại thêm một lát.”
“Ngô vương cứ tự nhiên.” Tiêu thị cũng không mời ở lại, chỉ gật đầu nói: “A Nặc, đi tiễn Ngô vương.”
Dương Chính Đạo đặt cái bánh nướng đã ăn một nửa trở lại đĩa, vẻ mặt dần trở nên phức tạp và trang trọng: “Y và cô con có tình cảm sâu nặng, rất hy vọng nội có thể thay cô con quan tâm yêu thương y nhiều hơn một chút.”
Tiêu thị xoa trán thở dài: “Không gần gũi với nó là vì muốn tốt cho nó. Thực ra con cũng không nên xưng huynh gọi đệ không chút kiêng dè với nó như vậy.”
Dương Chính Đạo không đồng tình nói: “Y vốn là em con. Con và y vận mệnh nối liền, đồng lòng hợp ý, không có gì phải kiêng kỵ cả.”
“Bệ hạ đối với họ Dương và họ Tiêu, đặc biệt là con, đã chí nhân tận nghĩa, ưu ái quá mức rồi.” Hốc mắt Tiêu thị hơi trũng xuống, vẻ lo âu trong ánh mắt càng đậm hơn. Trải qua ba triều, giờ đây nguyện vọng duy nhất trong lòng bà lão hồi trẻ từng có tài mạo tuyệt thế này chỉ là yên ổn đến cuối đời, con cháu được bình an. Bà nghĩ một chút rồi lại nói: “Nhưng nếu để bệ hạ biết các người ngấm ngầm xúi giục con trai ông ấy tranh quyền đoạt vị, thì ông ấy sẽ tha cho các người, tha cho nó sao?”
“Trong lòng bệ hạ đã hướng về Lý Khác, chỉ là bản thân Lý Khác không muốn mà thôi.” Dương Chính Đạo nhìn nửa chiếc bánh nướng, cuối cùng vẫn không nhịn được cầm lên ăn, “Chuyện mà y không muốn làm, bệ hạ cũng chẳng ép nổi y. Nội cứ yên tâm, con sẽ luôn đặt y lên đầu trong mọi chuyện, tuyệt đối sẽ không làm điều gì tổn hại đến y.”
Vẻ lo âu trên mặt Tiêu thị chẳng vì câu nói của gã mà giảm bớt chút nào: “Việc Tiêu Vũ đã và sắp làm, rốt cuộc con biết được bao nhiêu?”
“Con không biết. Ông trẻ cũng không muốn nói với con. Đôi mắt Dương Chính Đạo trong veo sáng ngời, tựa những vì sao trong đêm đen, “Có điều ông trẻ không nói cũng tốt, như vậy, con chỉ cần một lòng một dạ lo giúp đỡ y, bảo vệ y là được, chẳng cần phải suy nghĩ những chuyện nên hay không nên làm đó.”
Tiêu thị từng nghe, cũng từng chứng kiến nhiều cuộc tàn sát đấu đá trong hoàng thất, ngay cả anh em ruột còn ngươi chết ta sống, tranh đoạt không ngừng, huống hồ là anh em họ ngoại. Có lúc bà cũng không nghĩ ra, vì duyên cớ gì mà hai người họ lại có tình cảm sâu sắc đến thế. Nhưng bà có thể chắc chắn rằng, tuyệt đối không được để bất kỳ ai trong hai người phải chịu tổn thương. Bà nắm tay Dương Chính Đạo nói: “Con là giọt máu dòng chính duy nhất của nhà họ Dương. Năm xưa phải hy sinh biết bao nhiêu người, mới đổi lại được tính mạng của mẹ con. Người con thực sự phải bảo vệ là chính con, hiểu không?”
Dương Chính Đạo thấy lòng ấm áp, bèn gật đầu rất trịnh trọng. Thực ra, từ nhỏ gã không thể coi là gần gũi với bà nội. Sau khi gã ra đời, người luôn chăm sóc gã là một nhũ mẫu họ Triệu. Hồi ba, bốn tuổi thì có thầy giáo riêng chuyên dạy văn tập võ hầu hạ bên cạnh. Tuy số người theo bọn gã đến Đột Quyết, cùng số thuộc hạ mà Hiệt Lợi khả hãn cho gã cộng lại không quá một hai vạn người, nhưng những thầy giáo đó thật sự đều bồi dưỡng gã như một đế vương, họ đối với gã khiêm cung lễ độ, song cũng chưa bao giờ quan tâm đến cuộc sống thường ngày của gã.
Gã ở Đột Quyết hơn mười năm, người đầu tiên đem lại hơi ấm cho gã là Giang Hạ vương Lý Đạo Tông, người phụng chỉ đến đón bọn họ về Trường An. Lúc đó Đột Quyết đã cầm chắc bại vong, gã và những người bên mình lũ lượt quỳ xuống xin hàng. Giang Hạ vương từ trên chiến mã nhảy xuống, đi đến bên cạnh gã, tự tay đỡ gã dậy, ngồi xổm xuống, đặt tay lên vai gã, dịu dàng nói: “Bé con đừng sợ! Ta đến đón con về nhà.” Nay nghĩ lại, sở dĩ về sau gã và Tuyết Lộ có thể yêu thương gắn bó, có lẽ cũng là duyên phận trong cõi u minh khiến cho như vậy.
Ngoại ô Trường An có trồng một rừng ngân hạnh rộng lớn, mùa này, lá cây sẽ tung bay theo gió, chỉ một lát đã vàng ruộm khắp nơi. Lý Khác từ phủ Tiêu thị đi ra, cưỡi Lưu Phong chạy băng băng một mạch, lúc chạy đến phố Chu Tước, từ đầu đến chân đã dính đầy lá rụng. Y giẫm chắc lên bàn đạp ngựa, cúi đầu giơ tay gạt toàn bộ lá xuống đất. Đúng vào lúc ngước mắt lên, y thấy bên phải có một cỗ xe ngựa lao ra, sắp đâm vào nhau đến nơi.
Lưu Phong lập tức hí lên một tiếng chói tai. Lý Khác cũng thấy lo lắng, kẹp lấy bụng ngựa theo bản năng, tay giữ chặt dây cương, định điều khiển nó tránh sang bên trái. Lưu Phong phản ứng cực nhanh, nghiêng mình bước một bước lớn sang bên cạnh. Trong chớp mắt đó Lý Khác giẫm bàn đạp đứng thẳng người lên, nhảy tót xuống, lăn một vòng trên mặt đất rồi lại đứng dậy, thở phào một hơi đầy nhẹ nhõm.
Vẻ mặt của phu xe từ kinh hoảng ban đầu biến thành tức giận, vừa định ngoạc mồm ra chửi thì thấy đó là Lý Khác, liền thu lại vẻ giận dữ, gượng gạo nuốt hết những gì định nói vào trong bụng, nặn ra một nụ cười kính cẩn lễ phép, cúi người thi lễ nói: “Ngô vương điện hạ thứ tội! Tiểu nhân vừa nãy... vừa nãy không để ý thấy ngài.”
“Sao lại là ca ca?” Lý Khác đang định nói thì thấy Lý Âm từ trên xe ngựa bước xuống, ba chân bốn cẳng đi đến trước mặt mình, lo lắng nói: “Ca ca có sao không? Thụy Hỉ, ngươi đánh xe kiểu gì vậy?”
“Không sao.” Lý Khác cười điềm đạm, “Lục đệ, đừng trách hắn, là ta không để ý.”
Lý Âm trừng mắt dữ tợn nhìn Thụy Hỉ, vẫn chưa yên tâm quan sát Lý Khác từ trên xuống dưới một lượt, sau đó mới nói: “Mấy hôm nay sao chẳng thấy bóng dáng ca ca đâu cả? Lại bận việc à?”
Lý Khác khẽ phẩy tay nói: “Ta cũng có chuyện phải làm của mình chứ! Đợi hôm khác ta rảnh, sẽ đi săn với em!”
“Hôm khác là hôm nào?” Lý Âm nhìn bộ dạng phong trần mỏi mệt của Lý Khác nói, “Hay là chúng ta đi luôn bây giờ! Lâu lắm rồi em không đến cấm uyển!”
Lý Khác chỉnh lại mũ bịt tóc cho cậu: “Hôm nay không được. Nếu em thật sự rảnh rỗi thì vào cung thăm phụ hoàng đi. Lần trước lúc ta đến, thấy phụ hoàng bị ho nhẹ, không biết giờ đã đỡ hơn chút nào chưa?”
Lý Âm vừa nghe thấy từ “phụ hoàng” liền lắc đầu quầy quậy, lắc đến độ mũ bịt tóc lại hơi lệch đi: “Phụ hoàng nói cứ nhìn thấy em là đau đầu, em mà gặp phụ hoàng cũng lại nơm nớp trong lòng, chẳng bằng không gặp nhau. Có điều phụ hoàng rất muốn gặp ca ca đấy! Rõ ràng là cùng một mẹ sinh ra, thế mà phụ hoàng lại thiên vị ca ca như vậy!”
“Phụ hoàng cũng yêu thương em mà!” Lý Khác bất giác thấy hơi buồn cười, “Chỉ cần em ngoan ngoãn, không chọc giận phụ hoàng nữa là được.”
Lý Âm không nói gì, rất lâu sau, cậu mới đổi chủ đề: “Vừa nãy trên đường em chạm mặt Hoàng bổ đầu của phủ Ung Châu, hắn bảo là mấy hôm nữa sẽ thẩm vấn tên trộm ở am Tịch Quang lần trước.”
“Vậy thì tốt” Lý Khác nói, “Tề Trưởng Thăng đương nhiên có thể xử lý gọn gàng những việc vặt vãnh này. Nhìn trời hôm nay có vẻ l?