- II - Ngài hội thẩm đã gặp chuyện gì?
Đã khuya, ngài hội thẩm Knap đang miên man suy nghĩ về thời đại của vua Hanx và muốn về nhà. Tình cờ ngài xỏ nhầm vào đôi giầy hạnh phúc. Ngài đi ra lối phố Đông, nhưng phép lạ của đôi giầy đã đưa ngài quay trở lại thời vua Hanx và chân ngài phải dẫm bùn lội qua các vùng nước vì thời ấy người ta chưa nghĩ ra cách lát gạch các hè phố.
Ngài lẩm bẩm:
- Bùn khiếp thật! Hè phố chẳng còn, đèn cũng tắt ngóm.
Trăng chưa mọc, hơn nữa, sương mù khá nhiều, mọi vật chìm trong đêm tối. Tuy nhiên ở một góc gần đấy có treo một ngọn đèn hắt ánh sáng xuống pho tượng Đức Mẹ. Nhưng ánh đèn mờ quá nên ngài đến tận nơi, trông thấy tượng Đức Mẹ đang bế Đức chúa Giêsu trên tay mới nhận ra là có đèn. Ngái nghĩ thầm:
- Có lẽ đây là một cửa hiệu mỹ phẩm mà người ta quên cất biển hàng.
Thấy hai người mặc quần áo thời cổ vượt lên trước, ngài nói:
- Kìa! Những người này ăn mặc có vẻ khác thường nhỉ! Hẳn là họ vừa đi dự dạ hội khiêu vũ trá hình về.
Vừa hay có tiếng trống và tiếng địch nổi lên, ngài đứng lại và thấy một đám rước diễu qua. Đi đầu là trống rồi đến thị vệ cầm cung tên và binh khí. Người chỉ huy đám rước là một nhà tu hành. Ngạc nhiên, ngài hội thẩm hỏi thế là thế nào và người ấy là ai?
Thiên hạ trả lời:
- Đó là Đức giám mục Séeland- Trời ơi! Đức giám mục làm sao thế kia? Ngài hội thẩm lắc đầu lẩm bẩm. Có lẽ không phải Người đâu.
Chìm đắm trong những ý nghĩ ấy, chẳng nhìn ngang, nhìn ngửa, ngài hội thẩm đi qua phố Đông và quảng trường Cầu Lớn. Không sao mà tìm được cái cầu bắc sang quảng trường Cung điện. Ngài chỉ loáng thoáng trông thấy một con sông rộng và cuối cùng ngài gặp hai người lúc này đang ngồi trong một chiếc thuyền. Họ hỏi:
- Ngài muốn qua sông Holm không?
- Qua sông Holm à? Ngài hội thẩm quên mất không biết mình đang sống trở lại thời đại nào? Tôi muốn đến ngõ Christianhavn, khu phố chợ.
Hai người kia ngạc nhiên nhìn ngài. Ngài tiếp:
- Các ông chỉ dùm cho tôi lối lên cầu. Không có lấy một ngọn đèn, đến là tối, cứ bi bõm như trong đồng lầy ấy. Bùn ơi là bùn!
Ngài càng nói chuyện với hai người thủy thủ lại càng chẳng hiểu họ nói gì.
- Chẳng thể nào mà hiểu được cái tiếng địa phương Bornholm của bác!
Thế là ngài bực tức quay phắt đi. Ngài không làm thế nào tìm ra được cái cầu, ngay cả đến lan can dọc bờ sông cũng chẳng có. Ngài lẩm bẩm:
- Cơ sự này thì loạn thật!
Chưa bao giờ mà ngài lại thấy thời đại ngài đang sống thảm hại đến thế. Ngài lại nói tiếp:
- Có lẽ gọi một cái xe mà đi mới được.
Nhưng đào đâu ra xe kia chứ? Trông mòn mắt cũng chẳng có lấy một cái.
- Mình phải quay về Hoàng trường mới mà kiếm xe không khéo thì chẳng bao giờ về đến Christianhanvn mất!
Thế là ngài lại men quay trở lại phố Đông; đi gần tới đầu phố thì trăng lên. Trông thấy cổng thành phía Đông thời ấy dựng ngay ở đầu phố ngài kêu lên:
- Trời ơi! Người ta dựng cái đài nay lên đây làm gì thế này?
Cuối cùng, ngài cũng tìm ra được một chiếc xe ngựa và ra đến khoảng đất quảng trường mới hiện nay. Thời xưa đây chỉ là một bãi cỏ rộng, đây đó có một vài bụi cây; một con sông đào rộng chảy qua, đổ thẳng ra biển. Bờ bên kia có một vài túp lều gỗ tồi tàn của những người thủy thủ xóm Hollande (do đó nơi ấy nay được đặt tên là mũi Hollande).
Ngài tự nhủ:
- Nàng tiên Morgane (1) trêu mình hay là mình say rượu chẳng biết được. Thế là thế nào nhỉ?
Ngài quay lại yên trí là mình ốm. Vào đến trong phố, ngài nhìn thấy rõ nhà cửa hơn, phần lớn vách dựng bằng thanh gỗ, nhiều nhà lợp bằng rạ, Ngài lẩm bẩm:
- Quái thật! Mình khó ở hay sao ấy! Mình chỉ uống có một cốc rượu pha đường thôi mà không chịu nổi. Lại còn cho mình uống rượu pha đường với cả hồi nóng thì điên thật. Cái bà vợ quan nội thần ác thật! Hay là mình quay lại để cho họ biết mình hiện giờ ra sao. Nhưng thế thì cùng hơi lẩn thẩn. Chả biết họ có còn thức không.
Ngài tìm sân nhà, nhưng chịu không tìm ra.
- Khiếp thật! Mình không nhận ra nổi phố Đông nữa. Chẳng còn lấy một cửa hiệu! Chỉ toàn là những lều cũ kỹ tồi tàn như ở Rœskilde hay Ringsted. Trời! Mình ốm quá mất rồi. Nhưng không phải là lúc nhút nhát được! Quái! nhà quan nội thần đâu mất rồi nhĩ? Họ dậy rồi thì phải. Trời! Sao ta lại ốm đến thế này nhỉ?
Ngài gõ cửa một nhà có ánh sáng lọt qua khe cửa hé mở. Đây là một quán trọ thời xưa, một loại quán bán rượu bia. Căn phòng giống như những tiệm rượu vùng Honxtanh. Ở đấy tụ họp một số lính thủy, vài người thành thị với hai nhà bác học nữa. Người nào cũng có một cốc bia trước mặt và đang chuyện trò náo nhiệt. Khi ngài hôm thẩm bước vào họ không để ý đến ngài lắm. Bà chủ quán chạy đến. Ngài bảo:
- Xin lỗi! Tôi thấy người rất khó ở! Bà có thể cho gọi hộ một cái xe đưa tôi về Christianhayu được không?
Bà chủ quán nhìn ngài, lắc đầu rồi nói với ngài bằng tiếng Đức. Ngài hội thẩm đoán là bà ta không biết, tiếng Đan Mạch liền hỏi bà ta lần nữa bằng tiếng Đức. Tiếng nói và cách ăn mặc của ngài làm cho bà chủ quán càng tin chắc là người nước ngoài. Bà ta hiểu ngay rằng ngài ốm và mang cho ngài một cốc nước mằn mặn, mặc dầu đó là nước bà vừa tự tay đi hứng ở vòi nước về.
Ngài hội thẩm ôm đầu thở dài, suy nghĩ về tất cả những điều kỳ lạ xung quanh mình.
Thấy bà chủ quán gấp một tờ giấy khổ rộng cất đi, ngài hỏi cho có chuyện:
- Có phái bảo "Ban ngày" mới ra tối nay đấy không?
Bà ta không hiểu ngài định nói gì, nhưng chìa cho ngài tờ giấy; đó là tấm tranh khắc gỗ, in lại một hiện tượng thiên văn nhìn thấy ở thành phố Cologne
- Bức tranh này cổ quá rồi còn gì nữa. (Ngài hội thẩm rất lấy làm cảm động vì được thấy một vật cổ như thế). Bà làm thế nào kiếm được bức tranh hiếm có này? Quý đấy, nhưng câu giải thích ghi trong tranh rất hoang đường. Bây giờ người ta bảo hiện tượng ấy là một bắc cực quang, có thể là do điện gây ra.
Những người ngồi gần nghe thấy ngài nói đều ngạc nhiên nhìn ngài. Một người đứng dậy, cung kính ngả mũ và nói với ngài bằng giọng rất nghiêm trang:
- Thưa quý ngài, hẳn quý ngài phải là một nhà bác học đại tài.
- Ồ! không đâu. Mỗi thứ tôi đều biết một tí, cũng như mọi người thôi.
- Nhũn nhặn là một đức tính cao quý thay!
- Thưa các ngài tôi chỉ có thể trả lời các ngài: " Mihi secus videtur" (2) và tạm thời cứ giữ nguyên ý kiến tôi về vấn đề đó. Ngài hội thẩm hỏi thêm:
- Ông có thể cho tôi biết quý danh được chăng?
Người kia đáp:
- Tôi là tú tài thánh thư.
Câu trả lời không làm cho ngài hội thẩm ngạc nhiên vì tước vị ấy phù hợp với cách ăn mặc của người ấy.
Ngài nghĩ thẩm: Đây hẳn là một lão hương sư hơi loạn trí nào đó mà đến nay người ta vẫn còn.
Người kia lại nói:
- Đây không phải là một hội trường nhưng nếu ngài cứ tiếp tục nói chuyện với tôi thì hay quá. Không còn nghi ngờ gì nữa, hẳn là ngài rất am hiểu các tác giả thời xưa.
- Vâng, đúng thế, sách vở thời xưa bổ ích lắm, tôi rất hay đọc. Tôi cùng biết khá nhiều sách thời nay trừ những "Truyện hàng ngày" vì cuộc sống thực tế cũng đã đủ lắm rồi.
- Thưa "Truyện hàng ngày" là thế nào kia?
- Tôi muốn ám chỉ những quyển tiểu thuyết mới viết ta thường phải đọc hiện nay.
- Nhưng tôi lại thấy những quyển tiểu thuyết ấy cũng khá thú vị. Đức vua vẫn thường đọc đấy. Người thích nhất cuốn "Iffvenen tiên sinh và Gaudian tiên sinh", thuật lại truyện vua Arthur và các hiệp sĩ bàn tròn.
- A! Thế thì tôi chưa được đọc. Chắc hẳn đấy là một cuốn mới của nhà xuất bản Heiberg.
- Không, không phải của nhà xuất bản heiberg đâu, mà là của Godfred von Gehmen
- Có phải ông Giêmen là tác giả không? Cái tên ấy có vẻ xưa quá nhỉ! Đúng là tên nhà in đầu tiên của nước Đan Mạch chúng ta.
- Vâng, đúng thế, đúng là nhà in đầu tiên của chúng ta.
Câu chuyện đang vui vẻ, bỗng một người nói đến trận dịch hạch ghê gớm xảy ra hai năm về trước và nhắc luôn đến cả trận xảy ra năm 1484.
Ngài hội thẩm lại tưởng ông ta nói đến năm có dịch tả. Trận đánh bọn giặc biển năm 1490 xảy ra gần năm ấy nên họ cũng không thể không nhắc đến quân cướp người Anh xông vào tận hải cảng cướp thuyền bè. Nghe thấy thế ngài hội thẩm lại cứ tưởng là họ nói về cuộc mưu sát năm 1801, nên những lời ngài nguyền rủa bọn Anh trong vụ mưu sát ấy cũng vẫn khớp với câu chuyện như thường.
Nhưng về sau câu chuyện đâm ra chệch chọac, chẳng bên nào hiểu bên nào nói gì nữa. Đối với vị tú tài trung hậu quá tốt những điều khẳng định đơn giản nhất của ngài hội thẩm cũng làm choáng tai ông như những lý thuyết quái dị vậy. Họ ngẩn người ra nhìn nhau, và khi bí quá, vị tú tài lại phát biếu bằng tiếng La tinh, cho rằng có thể người ta mới hiểu được mình. Nhưng cũng chẳng hơn gì.
Bà chủ quán kéo tay áo ngài hội thẩm hỏi:
- Ngài thấy trong người thế nào rồi?
Câu hỏi làm ngài sực tỉnh. Vì mải mê nói chuyện ngài đã hoàn toàn quên những sự việc xảy ra hồi năy. Vừa nhớ lại chuyện cũ, ngài choáng người kêu lên:
- Trời đất ơi! Đây là đâu thế này
Một vị khách hô lớn:
- Cùng nhau cạn chén nào! Rượu mật ong pha với bia xứ Bơrêmơ. Xin mời ngài chạm cốc với chúng tôi.
Hai chị hầu bàn bưng khay ra, cúi chào quan khách rồi rót rượu.
- Rượu gì thế này nhỉ.
Ngài hội thẩm tự hỏi, không dám uống. Người mời chào ghê quá nên buộc lòng ngài đành phải uống vậy. Có người bảo ngài say rượu, ngài bèn tin ngay lập tức và nhờ thuê hộ một cái xe ngựa. Nghe thấy ngài nói thế, họ lại cứ tưởng ngài nói tiếng Nga. Ngài chưa hề tiếp xúc với hạng người thô lỗ đến thế bao giờ. Tưởng như đất nước lùi lại thời tà giáo, ngài nghĩ thầm:
- Đây đúng là giờ phút rùng rợn nhất trong đời mình.
Lúc đó, ngài nảy ra ý định chui xuống gầm bàn và bò ra cửa. Ngài bò ra gần đến nơi thì họ trông thấy, tóm cẳng ngài lại, thế là đôi giầy tụt ngay ra khỏi chân và phép lạ cũng biến theo.
Ngài hội thẩm nhìn thấy rất rõ một cái cột điện đang chiếu sáng trước mặt và phía sau là một toà nhà lớn. Ngài nhận ra nó và cả những ngôi nhà bên cạnh nữa. Như trên đã nói, ngài đang ở phố Đông. Quỳ trước một cái cửa, ngài trông thấy một người tuần canh đang ngủ say trước mặt ngài. Ngài kêu lên:
- Trời ơi! Sao mình lại nằm giữa đường như thế này mà ngủ nhỉ? Giữa ngay phố cửa Đông. Đèn ơi, cám ơn mày nhé! Gớm thật! Uống có tí rượu pha đường mà khiếp thế đấy.
Hai phút sau ngài đã lên xe ngựa trở về Christianhavn. Ngài nhớ lại những mối lo âu, khổ ải vừa trái qua và thầm khen cuộc sống thực tại đầy hạnh phức đã chứng minh cho ngài thấy rõ: Thời đại chúng ta chưa hoàn hảo lắm, nhưng cũng còn hơn cả thời đại ngải sống lúc náy rất nhiều.