← Quay lại trang sách

Cái cây hình vành khuyên

Ở cái thỊ trẤn phía bẮc tây bẮc này, men theo sông Quý Tiết đi về phía Thiên sơn, đi sâu vào núi Thiên Sơn, sẽ gặp  khu cư trú và bãi chăn thả của những người Kadắc.

Uzman sống ở đây, sống trong sự ôm ấp của Thiên Sơn. Nhưng nó lúc nào cũng muốn xem cái thế giới bên ngoài, nhất là khi nó phát hiện ra con chim xanh đó.

Con chim xanh đó bay lượn, líu lo trong ánh nắng mờ ảo như khói mây. Không khí ẩm ướt có cảm giác như sờ vào mặt rêu.

Mình phải bắt con chim ma quái đó. Đứa bé mười hai tuổi, Uzman nghĩ vậy. Mấy hôm đó, lúc nào cũng có con chim xanh bay lượn trong đầu nó. Con chim có cặp mắt ghép với hàng ngàn mắt nhỏ đó cứ im phăng phắc nhìn xoáy vào nó. Nó cảm thấy có một dấu hiệu không tốt lành, đám mây vàng nhạt trên đầu đang xoay tròn. Phải bắt con chim ma quái đó. Con chim xanh biếc, xanh đến long lanh, xanh đến choáng lộn, xanh đến chói chang, xanh đến huy hoàng. Con chim trong veo một cách lạ thường, cả lục phủ ngũ tạng, cả máu chảy lấp lánh trong huyết quản cũng nhìn rõ mồn một. Móng vuốt con chim nhẹ nhàng xé trái tim nó gây cho nó cảm giác chìm ngập trong sữa, gợi cho nó nhớ lại rất lâu về những ngày trước.

Hồi đó, nó còn nhỏ hơn bây giờ nhiều, mới cao bằng cái thùng sữa. Nó ì ạch bê một cái ghế vuông, đứng lên nhìn vào trong thùng sữa dê, nó nhớ rõ lắm, nó đã cười, cười một cách thích thú, sảng khoái. Nó thấy bóng một cái đầu với một khuôn mặt nhỏ bồng bềnh. Bây giờ nó hiểu ra, khuôn mặt mà nó nhìn thấy lúc đó không phải là nó mà là con chim xanh này hóa thân vào.

Nó lấy tay vớt, nhưng khuôn mặt tan mất như sương khói. Nó lại vớt, lần này bỗng thấy trời và đất đổi chỗ cho nhau, huỵch một cái tối tăm mặt mũi, thật khó quên. Lát sau trong sữa lại ẩn hiện một cái đầu, khuôn mặt trẻ con, ướt đầm đìa, lướt thướt như con dê con vừa ra khỏi bụng mẹ.

Hôm nay nó nhớ lại cái đầu nho nhỏ ấy mới là nó. Cái đầu nho nhỏ ấy nhìn quang cảnh bên ngoài thùng sữa với ánh mắt nghi hoặc, như nhìn thế giới chia nhỏ trong mắt kiến. Nhưng có điều lạ là, trong một con mắt toàn là cây xanh, mặt người đỏ hồng, và bao la bát ngát là cỏ biếc, còn trong con mắt kia là cây màu xám, những con cừu trắng tinh và mặt người màu vàng. Bỗng nhiên mặt vàng và mặt người đỏ xoắn lại với nhau, nó nghe thấy một âm thanh, cái âm thanh chưa từng nghe bao giờ.

Trên cái mặt lồi lõm xù xì đó mọc đầy râu như thông mọc hai bên sườn núi. Bây giờ nó nhớ lại đó là khuôn mặt của chú Junmatri. Hồi đó chú Junmatri chán nản, tay cầm roi da vung vẩy, sải bước đến chỗ nó, đôi giày da to tướng nặng như chì xéo bừa lên đám cỏ ba lá. Nó ngơ ngác nhìn chú đang đi đến.

Ngay sau cái khoảnh khắc ấy, nó bỗng cảm thấy mọc ra đôi cánh và bay lên không trung, hay là lơ lửng trên không trung, nó thấy trong lúc bay đã chạm vào tia nắng và phát ra tiếng lanh canh, đụng vào bầu không khí nhàn tản trôi xung quanh, tia nắng như vô vàn những mảnh thủy tinh theo nó rơi xuống và không khí rung rinh xao động. Đầu nó chạm đất trước, sau đó nó cảm thấy mắt trái, tức là con mắt đầy những cây xanh, cừu trắng và chú Junmatri mặt đỏ, bị một cái sừng dê đâm vào cùng với một tiếng vỡ chói tai.

Nó cố sức mở đôi mắt, lúc đó con mắt bên kia nhìn thấy những cái cây màu xám, cừu trắng và khuôn mặt chú màu vàng.

Bây giờ nó nhớ rõ là sở dĩ thế giới trong mắt nó có hai màu, là vì một con mắt của nó đã bị sữa tràn vào, còn con mắt kia bị một cái sừng dê rất nhỏ đâm vào làm tụ máu vĩnh viễn. Tên nó là Uzman trở thành “Uzman mắt hoa”.

Từ bầu không khí trong suốt, tiếng hót của con chim xanh dội đến như sóng nước, va đập vào cành thông làm bật ra những tia lửa xanh sáng lóa. Phải bắt lấy nó, Uzman nghĩ. Nó vẫn ngồi trên phiến đá màu da cam, khoác tấm áo lông cừu hoi nồng. Nó cảm thấy ấm áp, cảm thấy tim đập một cách lạ kỳ, nó đứng dậy, quẳng cái roi da đi, hai tay nó gạt không khí như người bơi gạt nước, nó đuổi theo tiếng hót của con chim. Tao phải bắt được mày, chim ơi. Nó nghĩ và đôi chân nó đã như vó ngựa phi lên dốc núi.

Nó xuyên qua cánh rừng thông thân thuộc như anh em, tìm bắt tiếng hót đang chảy như nước khe. Phải bắt lấy nó. Nó như con báo tuyết chạy như bay giữa những tảng đá lô nhô. Tiếng hót của con chim dẫn dắt nó như thần chăn nuôi Arimuxin trên trời. Nó cảm thấy có một ngọn núi lửa nhỏ đang chầm chậm phun trào nham thạch đặc sánh, hai tay nó bơi bơi trong không khí, nó cảm nhận được niềm sung sướng khi nắm bắt được sóng âm thanh của tiếng chim. Khi nhảy qua một tảng đá, nó ngã nhào, thân thể nó như một miếng bánh pho mát rơi trên thảm cỏ dày. Đúng lúc ấy, tiếng chim bỗng nhiên im bặt một cách thần bí, nó cảm thấy mệt rã rời, lồng ngực phập phồng như kéo bễ. Nó nhắm mắt, dùng tâm trí để bắt cánh chim, cơ thể đau nhừ như bị Thiên Sơn dập xuống. Sau đó mở mắt ra, như trước đây, màu sắc của thế giới lại  hiện lên không thật, trong hai con mắt không cùng một màu của nó. Ánh nắng như thác nước trút xuống qua những cành thông chỗ thưa chỗ mau, dội vào người nó, đột nhiên nó cảm thấy nó như con dê tế thần. Nó lại nghe thấy tiếng chim hót sao mà nồng nàn, sao mà bay bổng, mà xao xuyến không yên. Nó bật dậy, nhưng vẫn không thấy con chim đâu. Tiếng chim lại dạt dào như sóng nước.

Nó lại bắt đầu chạy nhảy trong thung lũng, trong rừng cây, giữa những mỏm đá. Gió vuốt ve khuôn mặt có bộ tóc dài bay quanh của nó, nó không ngừng chạy không ngừng nhảy. Tiếng hót của con chim xanh vẫn đang dẫn dụ nó. Có lúc nó dừng lại vì từ sau bụi cây thò ra một cái đầu với bốn con mắt hiếu kỳ và hiền lành (sau này nó mới nhận ra trên đôi mắt là cặp lông mày đen kỳ dị nửa tối nửa sáng mà nó tưởng nhầm là đôi mắt thứ hai). Đó là một con hươu, đôi mắt hiếu kỳ của nó lấp lánh hai cục lửa màu da cam. Con hươu đứng gần nó đến nỗi cả hai đều căng thẳng, lát sau con hươu chạy đi. Tiếng vó lốp cốp nhỏ dần rồi mất hẳn. Nó cảm thấy mất đi một cái gì. Bất giác nó nhận ra chỉ còn cách đỉnh núi chừng hai chục mét, nhưng tiếng chim vẫn lảnh lót phía trước, gọi nó, dẫn dắt nó. Nó tiếp tục khom người, như con mèo đi lên. Khi nó xuất hiện trên đỉnh núi, tiếng hót như sát cạnh thì bỗng nhiên nó ngây người. Một niềm phấn khích, xúc động bóp nghẹt nó.

Đỉnh núi phẳng lì như không một ngọn cỏ. Đất màu nâu đỏ, hiện giữa trời một vẻ tĩnh mịch, chu vi ba chục mét, ở giữa mọc một cái cây, cành rậm rạp, lá toàn một màu xanh da trời, sáng lóng lánh. Cây cao đến lạ lùng, nó chưa thấy bao giờ. Cặp mắt kỳ quặc của nó trở lại bình thường, nó cố mở mắt thật to thật tròn. Điều lạ lùng nữa là tất cả các cành, cành to cành con đều có hình vành khuyên. Vòng nọ móc vào vòng kia, từng vòng từng vòng liên kết với nhau, kết thành cái cây. Ngoại trừ cái thân cây đồ sộ còn các cành đều đâm thẳng lên tầng mây. Tiếng thác rừng dội lại từng cơn, cái cây lay xào xạc trong gió. Cái cây lay động như sóng biển lên xuống, như đang thở đều đều. Tiếng cây reo có nhịp điệu như dây đàn dưới bàn tay gảy của thiên nhiên huyền diệu. Trong khoảnh khắc ấy nó cảm thấy như từ cõi xa xăm trở lại và bỗng nhiên hồi tưởng lại cảm xúc thở trong bụng mẹ.

Tiếng chim hót trong sáng lạ thường. A! nó đã nhìn thấy con chim xanh đó. Con chim đang ở trên một cành cây hình vành khuyên gần nó nhất nhìn nó mà hót. Nó rùng mình, không tin ở mắt mình nữa. Cây vành khuyên lay động trong gió theo nhịp điệu, phát ra âm thanh dễ chịu như một chiếc đàn dương cầm của trời, tấu lên khúc thánh âm kỳ diệu. Nó cảm thấy trên đỉnh đầu xuất hiện một vòng mây trắng. Nó bước lên mấy bước chỉ cách con chim một cánh tay. Đứng trước con chim nó đã đuổi theo cả một buổi sáng, nó rưng rưng những giọt nước mắt xanh.

Nó giơ tay, run run như cánh ong bay, con chim nhẹ nhàng nhảy lên bàn tay nó. Khoảnh khắc đó trái tim rạo rực như biển réo dội vào thần kinh nó. Nó chăm chú ngắm con chim xanh có hương vị sương mai sung sướng như điên dại. Nó đi mấy vòng quanh cái cây, nâng niu con chim trên tay và nghe nó hót lâm ly. Sau cùng nó dừng lại từ từ giơ hai cánh tay, con chim xanh vẫn lóng lánh lóng lánh trên bàn tay. Lúc đó lá cây rụng lả tả, lá cây màu xanh như hoa tuyết bay xoay tròn trong không trung rồi rơi xuống Uzman. Nó kinh ngạc phát hiện ra lá cây hình bầu dục, rỗng không, chỉ có gân lá sắc nét, tỏa ra một thứ ánh sáng gần gũi dịu dàng. Nó ngẩng lên nhìn vầng mặt trời đỏ sậm, quen thuộc lơ lửng trên cao.

Nó giơ con chim lên soi qua mặt trời, qua thân con chim trong xanh, nó nhìn thấy vầng mặt trời xanh một màu xanh ngăn ngắt.

Nó ngửi thấy hương vị như mùi rượu sữa ngựa, trong khoảnh khắc hương vị đó tắm đẫm toàn thân nó làm cho nó cảm thấy mình bay lên như chiếc lông. Và cũng chính lúc đó con chim xanh chậm rãi chậm rãi như một cảnh phim quay chậm, cất mình bay lên trên đôi cánh nhẹ nhàng. Bay vào không gian trong suốt, bay vào ánh nắng rung thành tiếng lanh canh lanh canh... Nó bỗng vội vàng luống cuống, quay người lại, cúi nhìn cái thế giới bao la hút tầm mắt, trải rộng trước mặt. Nó đã sống trên ngọn núi biếc này mười hai năm trời! Nó giận dữ, hai dòng nước mắt trong veo chảy ra. Nó giận dữ nhìn cái thế giới thuộc về nó: Những ngọn núi xa xa gần gũi như anh em, kề vai sát cánh đứng thành hàng cho đến xa tít trong mây mờ. Mây trắng như bông, từng đám từng đám hắt bóng xuống thành những bông hoa lớn tối màu trên những núi non trùng điệp như tấm thảm. Đàn cừu như những đám sỏi trắng rải rác trên những vạt cỏ xanh đến buồn nôn liên tưởng đến cái đầu xanh con nhặng. Những rặng cây thẳng thắn thành thực. Những túp lều trắng như những cây nấm dại bị mưa vùi gió dập, tọa lạc nơi đất thấp. Nó cảm thấy giận dữ, đây là cái thế giới mà nó đã sống mười hai năm trời! Nó cảm thấy giận dữ với tất cả những gì ở đây. Lúc này trong mắt nó lại xuất hiện trở lại hai màu khác nhau.

Nó đã tìm thấy con chim xanh, con chim đã không còn. Cây vành khuyên lạnh lùng sừng sững, tỏa cái bóng cao ngạo ra thế giới xung quanh.

Nó quyết định đi khỏi nơi này.

Sẫm tối, khi ăn thịt viên, Uzman mười hai tuổi thấy đau trong tim, đau như  móng tay bị lột. Ông bố Jialipec như mọi ngày, không nói một câu, như một tảng đá, ngồi xếp chân bằng tròn trên tấm thảm, miệng khà khà như dê bị chọc tiết, uống cái thứ trà muối mà Uzman thấy rất khó uống. Cái thứ trà muối màu nâu vàng luôn làm nó nghĩ đến nước đái ngựa. Bánh pho mát tỏa ra mùi mốc, ngay như thịt viên nó cũng liên tưởng đến con dê chết thối trong rừng. Đến hôm nay, nó lại càng có cảm giác như vậy.

Tại sao mày không ăn?

Con không đói nên không ăn.

Tại sao mày không ăn?

Con không ăn vì con không đói, con cảm thấy buồn nôn.

Ông bố lạnh lùng nhìn thằng con, trong lòng bực bội. Tám năm nay, từ lúc mắt của Uzman biến thành hai màu, bố nó chưa nói với nó một câu tử tế. Bà mẹ Nurculi đẻ liền tù tì bốn đứa con, Uzman là út. Những lúc thấy Uzman đôi mắt hai màu ngây dại nhìn mình hoặc trầm tư mặc tưởng như pho tượng, nhìn chăm chú vào một điểm thì ông bố muốn lộn ruột.

Mày còn muốn đi học không?

Con không đói nên con không ăn

Mày phải đi chăn cừu, không đi học nữa, sao mà không chịu?

Con không muốn ăn vì con không đói.

Tháng sáu năm nay Uzman tốt nghiệp tiểu học. Uzman cảm thấy năm năm học tiểu học là những tháng ngày rất dễ chịu và thoải mái. Năm năm đó, Uzman ngày ngày cắp sách cùng với hai chục đứa trẻ khác đến ngồi trên bãi cỏ xanh đến mê người trong thung lũng Bạch dương để nghe thầy giáo giảng bài. Tiếng nói trầm bổng của thầy giáo như những giọt sương lăn trên thảm cỏ, sáng lấp lánh trong tim những đứa trẻ. Thầy giáo cái gì cũng biết, cái gì cũng giảng nhưng Uzman thích nghe nhất là những chuyện về tổ tiên người Kadắc, về người anh hùng vĩ đại Elizhan. Nhờ thầy giáo mà nó hiểu được tại sao các ngôi sao lại sáng như thủy tinh dưới ánh mặt trời, hiểu được tại sao từ đất lại mọc nào cây, nào cỏ, nào hoa nhưng không mọc ngựa, mọc chó, mọc dê. Nhưng tháng sáu năm nay nó tốt nghiệp tiểu học rồi.

Trên Uzman còn ba người anh, một người chuyên làm va li, rất phát tài, một người chạy sang Isaik Liên xô, một người đang nằm trong tù, anh ta giết người vì “tình yêu”, cái mà Uzman chẳng hiểu là gì. Ba người anh này chưa đi học, mà cũng chẳng thích học, nhưng Uzman đã học một mạch đến tốt nghiệp tiểu học mà còn muốn tiếp tục học trung học, nhưng ông bố khăng khăng bắt nó đi chăn cừu. Thế là bao ý tưởng đẹp đẽ và cũng mong manh yếu ớt như hoa tuyết của nó bị nghiền nát. Nó thực sự muốn học hết trung học còn học tiếp cao trung, ngày nào đó tốt nghiệp cao trung lại xuống núi học đại học, điều mà người miền núi chẳng dám nghĩ đến. Nó không biết thế giới bên ngoài ra sao, không biết các sinh viên đại học có nhìn trời không, ngồi trên đồng cỏ bao la bát ngát, bao nhiêu là ý nghĩ như ngựa hoang tung vó, bao nhiêu là câu chuyện và truyền thuyết làm nó mê say... thế giới bên ngoài kia đối với nó như nghe người già nói về biển cả.

Hai năm trước, có một người Hán gầy như sơn dương, khoác trên người một cái bọc có hai sợi dây xâu qua, đi một đôi giày kỳ dị, trên sống mũi có hai mảnh kính màu. Ông ta dùng tiếng Hán xi la xi lô hỏi nó đủ thứ làm cho nó hoang mang như khỉ vớt trăng ngã xuống nước, chẳng biết làm thế nào. Sau đó ông ta tiếp tục lên núi. Uzman đi theo ông ta suốt một ngày, thế rồi ông ấy đến ngọn Sheklas phát hiện một bộ xương đã bị báo tuyết gặm tơi tả, bên cạnh bộ xương có một đôi giày du lịch sặc sỡ, bây giờ đôi giày ấy được nó giấu trong cái hốc ẩm ướt của cây thông đỏ sau nhà, mỗi chủ nhật nó lại đi kiểm tra một lần.

Mày không được đi học nữa, nghe rõ chưa?

Con ghét chăn cừu như ghét cứt trâu.

Bộ râu của bố nó rào rào dựng đứng lên lần thứ bảy, từng sợi từng sợi. Ông ấy đứng đó như cây thông, bộ mặt hổ xanh xám khó coi như da trâu rách. Ông ấy túm cổ áo Uzman bé bỏng như hạt bồ công anh, nhấc bổng lên, rồi đôi tay chai sạn vung lên, thế là Uzman giống như quả đạn pháo thầy giáo đã kể bay ra khỏi lều, cắm vào đất xốp như trồng cây tỏi.

Khi rơi xuống, trong lòng nó tràn ngập đau buồn và tức giận, nó lắc lắc cái đầu choáng váng nặng như chì, nhìn cái lều nó đã sống mười hai năm mà thấy ghê tởm. Lúc ấy một tia sáng xanh lóe lên trong cặp mắt hai màu của nó, thứ ánh sáng rực rỡ, cuồng nhiệt. Nó nhớ ra rồi, nó lao vào rừng như con báo tuyết.

Nó tìm thấy cái cây rồi leo lên như con mèo, nó vắt mình ở cái chạc cây và moi đôi giày từ cái hốc ra. Đôi giày tỏa ra mùi sữa dễ chịu, nó khóc lên vì sung sướng. Nó vội thay đôi giày. Đôi giày to quá, như cái thuyền, đỡ đôi chân trần của nó. Nó cảm thấy rất vững tâm và hạnh phúc, nó say mê nhắm mắt lại.

Một tiếng gọi tha thiết đánh thức nó. Qua lớp lá thông rậm rạp nó nhìn thấy mẹ, thân hình nặng nề, bước chân chậm chạp và cất giọng già nua đang tìm gọi nó. Mỗi lần bố nó đánh nó, mẹ nó đều đứng bên ngây dại nhìn nó mà chẳng biết làm thế nào. Mọi chuyện đều không có mẹ nó, mẹ nó không được can dự vào. Uzman không giận nhưng cũng không yêu mẹ. Uzman không hiểu mẹ cho đến khi tiếng mẹ gọi thống thiết tan đi như khói mây.

Nó cứ ngồi trên cây như thế cho đến tối.

Mặt trăng đẫm nước và mệt mỏi lên cao dần. Nó lại như con mèo tụt xuống đất, nó lặng lẽ mò đến chuồng ngựa, tháo dây con ngựa màu vàng rồi lẻn vào lều lấy một túi lương khô và sữa chua khô, lên ngựa phi như bay. Tiếng vó ngựa như pháo tép nổ trong đêm trăng, nó như con cá bơi mãi bơi mãi cuốn vào ánh trăng.

Một tối sau đó hai ngày, ánh trăng vẫn sáng vằng vặc, vẫn điêu ngoa. Nó cưỡi ngựa vào thành phố. Lúc đó đã là giữa đêm. Từ lúc cưỡi ngựa đi lên mặt đường rộng rãi, trong lòng nó rạo rực không nguôi. Nhiều lần nó mơ thấy thành phố, ảo tưởng thành phố, thế mà giờ đây, lúc mọi người đang ngủ say, nó như một chùm sáng rọi vào giấc mơ thành phố. Nó vừa cảm thấy tự hào vừa lẻ loi một mình một bóng.

Tiếng vó ngựa trên mặt đường thênh thang vẽ lên những nốt nhạc đẹp, những nốt nhạc nhảy múa thành khúc ca rung lên trong trái tim nó, trước mặt nó, hiện ra những tòa nhà hình khối vuông còn cao hơn, hùng vĩ hơn, có khí phách hơn những cái cây cao nhất trong núi, từ các khung cửa sổ nhỏ hắt ra ánh sáng bình yên. Trên đường hầu như không có người, trời mùa thu ảm đạm và ẩm ướt. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi phóng nhanh, ầm ầm lướt qua làm cho con ngựa vàng của nó sợ hãi nhảy ngược lên.

Nó tiếp tục cưỡi ngựa đi, nhìn hai bên đường, hiếu kỳ như con gấu vào lều. Nó ngắm nhìn nhiều thứ lần đầu tiên trông thấy. Hai con mắt khác màu nhau của nó cảm thấy rất tươi mới, rất lạ lẫm. Con ngựa đi khi nhanh khi chậm như con cá lững lờ bơi, mà nước là bầu trời đêm.

Nó qua hết phố này đến phố khác, ngõ này đến ngõ khác, có lúc trầm tư trước một bức vẽ lớn trên tường, có lúc đột nhiên dừng ngựa lắng nghe âm thanh cuồng nhiệt của nhạc rock and roll trước một khách sạn. Thành phố ngủ say, không chút phòng vệ hiện ra tất cả trước mắt nó. Uzman vẫn thúc ngựa đi, khi thì xuống ngựa ngắm nghía cửa hàng trái cây kiểu cách kỳ dị, khi thì dừng bước xuýt xoa trước một tòa nhà cao sang hoa lệ. Điều kỳ lạ đối với Uzman mười hai tuổi là trong thành phố rất ít người, họ như cái bóng thoáng qua rồi lại ẩn vào đêm tối.

Trái tim nóng bỏng của nó dần dần hạ nhiệt. Nó có cảm giác xa cách với tất cả những gì trong thành phố, giữa nó và thành phố có một cái gì đó chắn ngang.

Nó hơi lạnh, kéo chặt áo, lúc này cảm thấy hơi hoang mang. Nó như con tàu sắp mắc cạn, nghi ngại tìm bến đỗ.

Nó ngoặt vào một cái ngõ tối như một cái thung lũng. Nó thấy buồn đi tiểu và nhảy xuống ngựa. Nước tiểu xè xè, nó nhìn nước loang ra bỗng có ba bóng đen che lấp.

Nó ngẩng đầu lên.

Trước mặt nó là ba người con gái cực kỳ lẳng lơ. Dưới ánh trăng sáng, đôi môi đỏ tươi như vừa uống máu người. Họ đều rất trẻ, đều có đôi mắt đen to tối sẫm, trong mắt đều lấp lánh ánh huỳnh quang xanh lè.

Ha ha ha đây có thằng nhóc con, này, mày ở đâu đến đây?

Xem cái thằng ngố này, ngốc nghếch như con sơn dương ấy chúng mày ạ.

Này, sao câm như hến thế? Hai cái tai đón gió trông ngộ quá nhỉ.

Nó bất giác thấy lạnh buốt. Sơn dương không ngốc! nó tức giận nói.

Nghe nó xi la xi lô này, lại càng giống con sơn dương đần độn.

Này, chúng mày ơi, thử xem cái chim của nó nào, chắc nó còn là chú gà con.

Ba đứa như con rắn quấn lại, cánh tay như dây mây ôm chặt nó. Nó cảm thấy rất khó chịu, nhưng chẳng biết làm thế nào. Quần nó bị ba con ranh kéo xuống, mấy cái tay cùng sờ chim nó.

Nó nhắm đôi mắt như đóng chặt cửa lại, nó cảm thấy phẫn nộ, nhục nhã. Nỗi ô nhục mà một thằng con trai mười hai tuổi chưa từng trải qua trào lên, nhưng nó đành cam chịu. Ba đứa con gái không biết thế nào loáng một cái biến đi. Nó đứng đó, mặc cho gió lạnh buốt da, quật vào nửa người còn trần trụi. Nó vô cùng đau khổ, trái tim như tan nát. Tất cả những gì ở đây không phải là của nó, ở đây không đón nhận nó. Đôi mắt hai màu của nó dàn dụa thứ nước đặc quánh. Nó nhớ đến cái quần của mình, cái để che đi xấu hổ. Nó rên rỉ rồi nhảy lên ngựa, phóng đi như tên bắn. Nó hoang mang hẫng hụt, nó biết từ nay nó không có nhà nữa, đâu cũng không phải nhà của nó. Thành phố không thích nó, cũng không đón nhận nó.

Lại hai ngày qua đi.

Trăng vẫn xanh biêng biếc, nó cưỡi ngựa, mặt đen như nhựa đường. Nó nghe trái tim yếu ớt đập như con chim sắp chết, trái tim như mảnh giấy vụn chao đảo bồng bềnh. Nó lại quay về núi.

Nó dắt ngựa vào chuồng, không vào lều, bố nó đang nằm trong đó. Nó không đánh động bố mẹ, đi thẳng lên núi. Nó phải đi tìm cây vành khuyên, còn con chim xanh nữa.

Khi trở lại trên đỉnh núi, nó đã khóc như nhìn thấy người thân nhất, nó nghẹn ngào cất tiếng gọi: chim xanh ơi, chim xanh! chim xanh ơi...

Không còn tiếng chim xanh hót nữa. Nó cảm thấy ánh trăng lạnh lẽo nuốt chửng nó, giữa những cành lá của cây vành khuyên có một cái mạng nhện khổng lồ hắt cái bóng u ám dưới ánh trăng. Ở chính giữa, một con nhện đang vui mừng múa may, bên cạnh nó là con chim xanh, con chim mà nó ngày đêm mong nhớ, nằm im lặng hoặc bị dính ở đó. Con chim xanh đã chết.

Bây giờ con chim đã nằm trong tay nó. Đôi mắt như cánh cửa đóng chặt, cặp mỏ như cánh cửa khóa lại. Chim ơi. Nó nghẹn ngào rên lên, chim ơi, chim ơi.

Rồi nó ngẩng đầu, ngước nhìn lên cây vành khuyên đan cành dưới ánh trăng, trầm mặc, lặng im. Trái tim nó vỡ tan, chẳng còn gì để lại. Mình phải về nhà! Nó khóc, nó chạy, nó gào thét, tay nó nâng con chim. Phải về nhà! phải về nhà! Nó đập vào thân cây vành khuyên, phải về nhà!

Nhưng nhà đâu? Nó rút dao, ra sức chặt, chặt cái cây vành khuyên đẹp vô cùng, tàn nhẫn vô cùng, lạnh lẽo vô cùng, sâu sắc vô cùng, trong loang loáng ánh dao, mảnh cây bay vung, rít lên như tiếng roi quất trong không khí.

Nó ngã xuống và tất cả lá cây hình vành khuyên đẹp tuyệt trần lả tả rơi xuống, phủ kín nó, lá cây rơi xuống lại tạo nên một hình vành khuyên lớn, bên trong dần dần tối lại, đó là Uzman.

Nếu ba ngày sau, sáng sớm có ai lên đỉnh núi sẽ vẫn thấy giữa đống lá cây hình vành khuyên là khuôn mặt của Uzman mười hai tuổi, trên khuôn mặt đó chảy hai dòng nước mắt không cùng màu...