← Quay lại trang sách

NGƯỜI THỢ đóng giày

Ông Quang thỢ giày là ngưỜi dân tỘc HỒi, hiệu giày của ông nằm ở ngã tư, nơi góc đường, từ xa đã nhìn thấy. Ông là con sâu rượu, rất thích uống, cả phố này ai cũng biết, vì đã uống nhiều năm rồi cho nên ông có cái mũi bã rượu đỏ ửng như trong tranh biếm họa.

Có một thời gian chúng tôi hay bắt nạt ông, chúng tôi chỉ cần cho ông tí rượu trắng là có thể trêu chọc tha hồ, trêu chọc quá đáng ông cũng không cáu. Cho ông rượu uống là ông cười tít mắt. Cá giày của ông dùng để đóng vào đế giày, chúng tôi cũng ăn cắp, chúng tôi lấy cả đinh, mà đinh thì nhiều loại lắm.

Tửu lượng của ông thật là lớn, đưa cho cốc rượu, ông làm một hớp hết sạch, không ực một tiếng. Tất nhiên vào năm 1982, trên phố chúng tôi chỉ có rượu hạng bét, nhưng thế cũng làm cho ông thỏa mãn lắm rồi.

Ông thợ giày người Hồi này có bốn con, ông uống say là nổi cơn, đuổi đánh các con chạy khắp sân, nhưng đôi chân loạng choạng, lắm khi đuổi không kịp, cuộc rượt đuổi trở thành trò đùa vừa thật vừa giả.

Vì mọi người nói ông uống rượu vào hay đánh vợ con cho nên ông thầy tu ở chùa Thanh Chân, phía bắc thành phố đọc kinh riêng cho ông. Những lúc như thế là lúc yên tĩnh nhất của ông Quang thợ giày. Chúng tôi thấy ông ngoan ngoãn ngồi dưới đất, một vị thầy tu râu trắng rất dài và rất đẹp, đầu quấn khăn vải đang đàm đạo với ông.

Nhưng những khoảnh khắc đẹp đẽ đó không nhiều. Mỗi lúc ông thèm rượu mà không có rượu thì bộ mặt ông dần dần trở nên rất khó coi, lúc ấy mà bạn trêu tức ông thì lập tức một hòn gạch bay tới ngay. Vì thế chúng tôi cũng hay khai chiến với ông và cũng dùng gạch để đáp lễ.

Nếu muốn giảng hòa với ông thì chúng tôi kiếm chai rượu cho ông. Khi ấy chúng tôi và ông sẽ chẳng còn ân oán gì nữa.

Ông Quang vẫn chỉ là người thợ giày, lại là ông già thô lậu, do đó chúng tôi cũng coi thường, chúng tôi kính trọng những người có tri thức hơn, thí dụ như ông thầy tu râu bạc đó.

Thỉnh thoảng chúng tôi cũng lẻn vào chùa Thanh Chân để nghe vị thầy tu giảng đạo, những câu chuyện trong bài kinh ông giảng rất có ý nghĩa. Lúc đó chúng tôi thấy cả ông Quang thợ giày ngồi lẫn với mọi người với cái vẻ nửa mê nửa tỉnh.

Ông Quang uống rượu xong là quậy, nhưng lần này không hiểu thế nào, uống say rồi cầm dao giết vợ.

Chúng tôi đều trông thấy cái cảnh hài hước này. Ở ngã tư đường, ông  cầm con dao phay đuổi người vợ gầy gò, da mặt vàng bủng vừa chạy vừa la: “Giết người! giết người!” Mọi người đổ ra xem, cảnh sát Hoàng cũng đứng xem, cười hi hí, mặc kệ, vì anh ta biết cái trò này sẽ sớm kết thúc, cuối cùng sẽ là ông thợ giày say ngã ra đường, chẳng có ai đuổi cả.

Ông tỉnh dậy là quên hết, cái cảnh nhố nhăng vừa rồi chẳng còn nhớ tí gì. Chúng tôi giúp ông nhớ lại, trong lúc chúng tôi kể lại và giễu cợt thì ông cúi đầu, cái mũi bã rượu ửng đỏ lên.

“Đúng là tôi vừa suýt giết vợ à?”

“Còn không à? Ông cầm con dao phay đuổi bà ấy chí chết, suýt nữa thì giết bà ấy rồi.”

“Nhiều người trông thấy à?”

“Tất nhiên, rất nhiều người trông thấy, đúng là chẳng còn mặt mũi nào, thanh danh của ông tiêu rồi, cả cái phố này chẳng ai còn coi ông ra gì.”

“Thế thì làm thế nào để lại có thanh danh?” Ông nhìn chúng tôi với ánh mắt van nài.

“Khó lắm, những người được coi trọng là những người có tri thức, có giáo dục, ông hết hy vọng rồi.”

Chúng tôi nói như vậy là đã đánh một đòn đau, vừa nói chúng tôi vừa nhìn ông  bằng ánh mắt khinh rẻ để ông thấy là chúng tôi coi thường ông thật sự.

Con người ta ai cũng biết xấu hổ, cái ông thợ giày mà chúng tôi coi thường cũng vậy. Chúng tôi tả lại cái cảnh xấu xa khi ông say rượu làm ông rất xấu hổ.

Sau đó chúng tôi thấy ông buồn buồn trong nhiều ngày, mặc dù nghiện rượu, hai tay đã run, nhưng mặt vẫn rầu rĩ, không nói không rằng. Ông chẳng để ý gì đến chúng tôi, điều này thấy lạ vì trước đây nhìn thấy chúng tôi từ xa ông đã gọi rồi.

Nhưng cuối cùng ông đã nhận được sự kính trọng của chúng tôi, vì mấy tháng sau, chúng tôi vô tình phát hiện ra ông bỗng trở nên uyên bác, sự biến đổi này làm chúng tôi thực sự kinh ngạc.

Đối với bọn gà trống choai hiếu kỳ và ham hiểu biết chúng tôi thì sự thay đổi này của ông là một niềm vui lớn, chúng tôi hỏi ông bất cứ điều gì hầu như ông đều trả lời được, cứ như là có một ngày bỗng nhiên Chúa đã khai sáng cho ông.

Ông cũng trở thành người thanh lịch, lời ăn tiếng nói, cư xử không còn thô lậu nữa, những vấn đề chúng tôi nêu ra ông đều trả lời lưu loát, làm chúng tôi ngỡ ngàng, không thể không kính trọng ông.

Sau này chúng tôi không tụ tập đánh nhau nữa là nhờ ông. Chúng tôi thường vây quanh ông, nghe ông kể mọi thứ chuyện và giải thích mọi việc. Thật thế, chúng tôi không nói dối, cứ như ông đã biến thành sứ giả của Chúa, chẳng có gì ông không tinh tường.

Chúng tôi ngày nào cũng hỏi nhưng không thể làm cho ông bí.

“Ông Quang ơi, thầy Quang ơi, ông nói đi tại sao người ta lại đánh rắm?”

Thằng cu mập đưa ra một câu hỏi thô lỗ như thế để gây khó cho ông.

“Người ta đánh rắm vì trong cơ thể quá nhiều chất anbumin, tạo thành hơi trong ruột. Ăn quá nhiều thức ăn giàu chất anbumin thì dễ xảy ra hiện tượng đánh rắm.”

“Voi đều chết trong cùng một thung lũng, có phải để ở chung với tổ tiên không?”

“Đó chỉ là truyền thuyết. Voi chết thì các con cùng đàn sẽ mặc niệm, nhưng số phận của con voi chết là thối rữa, hóa thành các nguyên tố, quay lại về với đất.”

“Thế chúng ta chết thì sao?”

“Chúng ta chết cũng biến thành các nguyên tố, lại tuần hoàn trong tự nhiên. Thịt cậu thối rữa ra thành phân bón cho cây cỏ, thực ra cậu vẫn tồn tại chỉ có điều chúng ta không nhìn thấy mà thôi.”

“Tại sao chó hay thè lưỡi?”

“Đó là cách nó xả bớt nhiệt lượng trong cơ thể, chó ít chảy mồ hôi vì lưỡi nó đã tỏa nhiệt rồi.”

“Hôm qua có mấy người Hà Nam mãi võ, họ cho tay vào nồi dầu sôi để lấy bi sắt, tại sao tay không bị bỏng?”

“Họ đánh lừa đó. Trong nồi không phải là dầu cả đâu, dưới dầu là dấm. Dấm sôi ở nhiệt độ thấp, tức là dễ sôi, dầu bên trên cuộn lên không hề nóng. Cậu cũng thò tay vào lấy bi được.”

“Con gì chạy nhanh nhất?”

“Con báo chạy nhanh nhất.”

“Tại sao đàn bà đái lại phải ngồi?”

“Thực ra họ đứng cũng đái được, nhưng như vậy nước tiểu chảy xuống đùi.”

“Có hồn ma không?”

“Không, hồn ma thực ra là sản phẩm của trí tưởng tượng, cậu thử nghĩ kỹ một chút, con ma vẽ ra đều từ những thứ có thật được người ta ghép lại, đúng không nào?”

“Người ta làm chuyện xấu thì có báo ứng không?”

“Tất nhiên, cậu dẫm chết một con kiến, khi cậu chết sẽ có mười con kiến nó ăn thịt. Phải làm điều thiện.”

“Tại sao người ta nói: Thấy núi chạy chết ngựa?”

“Điều này rất dễ giải thích, đây là một nguyên lý liên quan đến thị giác, cậu nhìn thấy núi, khi đến nơi mới thấy là xa, đó là vì núi cao cho nên đã gây ra ảo giác cho người ta là nó ở gần.”

“Tại sao cá có thể thở rất lâu trong nước, còn con người thì không được? Cháu cố lắm chỉ ở dưới nước được hơn một phút.”

“Mang cá có thể trực tiếp lấy ôxy từ trong nước, người ta thì không được. Nhưng tổ tiên xa xưa của ta cũng có mang, có thể thở dưới nước, về sau tiến hóa phải lên sống trên cạn, cũng không còn mang nữa”.

“Tại sao cháu lại do tinh trùng và trứng tạo ra?”

“Cậu còn chưa có lông đã biết cái này rồi à? Có lông rồi à? Thế thì thế này, chỉ cần một chén trà tinh trùng đàn ông là có thể sinh ra năm tỷ người trên trái đất. Đàn ông một lần phóng ra từ vài triệu đến chục triệu tinh trùng. Tuổi của cậu là sắp sửa có tinh trùng rồi đấy.”

“Thế tại sao trên thế giới có nhiều động vật và thực vật thế, đều vô cùng kỳ lạ và kỳ diệu? Ai làm cho cái thế giới nó ra thế này?”

“Câu hỏi này chỉ có Thượng đế hay là Chúa mới trả lời cậu được. Bởi vì sở dĩ thế giới nó thế này là do các vị đó tạo ra.”

Chúng tôi không thể không phục ông, cái gì cũng hiểu, không có việc gì là không biết, còn các vấn đề khác, ông về nhà suy nghĩ, hôm sau ông trả lời đầy đủ. Bây giờ chúng tôi đều rất thích ngồi tán chuyện với ông thợ giày Quang, à không, giáo sư Quang.

Chẳng ai biết sự thay đổi ấy của ông là từ lúc nào, không ai thấy ông bị sét đánh, vì người ta đồn rằng người bị sét đánh mà không chết thì sẽ được mở huyệt, trở nên rất thông minh. Mấy tháng nay thành phố chúng tôi không có mưa rơi sét đánh.

Hay là trước kia ông đã là một người uyên bác? Điều này không thể được, ông tốt nghiệp sơ trung, chúng tôi có biết. Ông biết ít chữ thế mà trở nên hiểu biết như vậy, chúng tôi không thể nào hiểu được.

Không chỉ chúng tôi mà bốn đứa con ông cũng không hiểu bố chúng thay đổi từ lúc nào, chúng nó không hiểu tại sao ông ấy như biến thành người khác, đối xử với chúng  hiền hòa vui vẻ.

Nhưng vẫn còn một ít dấu vết lờ mờ bị phát hiện, có người nói cụ thể là bà vợ da vàng bủng phát hiện ra ông từng mất tích nửa ngày, bởi vì thường vào buổi trưa bà làm cơm rồi mang cho chồng, nhưng đến ngã tư, bà cầm hộp cơm mà chẳng thấy ông ấy đâu. Đồ nghề của hiệu giày vẫn còn đó, nhưng ông Quang thợ giày, chồng bà thì không thấy đâu.

Đến sẫm tối bà vợ mới thấy ông chồng.

Hỏi đi đâu, ông ấy không nói, cứ như là một đoạn thời gian trong đời ông ấy biến mất, chính ông cũng không biết mình đi đâu.

Chỉ biến đi nửa ngày mà đủ để một người thô lậu trở thành người tri thức uyên bác hay sao? Chúng tôi sinh nghi. Sau này chúng tôi chẳng nghĩ gì đến cái chuyện vô vị này nữa, chúng tôi chỉ biết ghi nhận một sự thật là ông ấy đã thay đổi, còn lúc đó chúng tôi chẳng hiểu gì cả.

Về sau, không chỉ chúng tôi đến hiệu giày hỏi mọi chuyện mà người lớn, bao gồm cả đàn bà cũng đến hỏi, ông đều đưa ra những câu trả lời khiến họ thỏa mãn. Họ hỏi những vấn đề sâu sắc và phức tạp hơn nhiều so với chúng tôi, những đứa trẻ còn vắt mũi chưa sạch.

Cánh đàn bà cũng có những vấn đề cần hỏi của mình. Có những vấn đề liên quan đến sinh lý phụ nữ mà đàn ông không nên nghe, thí dụ, có bà hỏi: “Tại sao trước khi có kinh tôi hay bực bội cáu kỉnh?” Cả những câu như vậy ông cũng trả lời rõ ràng, làm chúng tôi nhìn ông bằng con mắt khác.

Thời đó, trong cái thành phố có chút đóng kín của chúng tôi thì danh tiếng của ông thợ giày đã nổi như cồn, nhiều người nghe tiếng đều muốn gặp ông một chút, đưa ra những câu hỏi kỳ quặc, móc máy, ông đều ứng phó trôi chảy.

“Buổi tối cá có ngủ không?”

“Tất nhiên là có, nhưng chúng ngủ mở mắt. Mắt nó không có mí cho nên không thấy nó ngủ.”

“Trên mặt trăng có Hằng Nga không?”

“Câu hỏi của cậu ngốc quá, mặt trăng không có sự sống, có thể chỉ có vi khuẩn. Trong thái dương hệ của chúng ta chưa thấy có hành tinh nào có sự sống như hành tinh chúng ta.”

“Tại sao người ta không đi ngược đầu xuống đất?”

“Người ta có thể đi ngược đầu xuống đất, xưa kia con người ta bò mà đi, về sau đứng thẳng mà đi. Đó gọi là tiến hóa. Loài người luôn luôn tiến hóa, bây giờ vẫn không dừng lại.” Chúng tôi thấy tiến hóa đến như bây giờ là thỏa mãn rồi, không thích tiến hóa tiếp nữa, cho nên nghe đến đây mới hỏi: “Thế người ta còn tiến hóa đến đâu?”

“Rất khó nói, các nhà khoa học đã vẽ ra hình ảnh con người tương lai, lúc đó con người ta có cái đầu rất to.”

“Ôi, thế thì xấu quá, chúng cháu không thích đâu, thế này là vừa rồi.”

“Không được, vì loài người luôn luôn biến đổi, không tiến hóa thì không tồn tại được. Các cậu có biết tại sao người thành phố ngày càng ít râu không? Trước kia đàn ông mặt đầy râu, nay ngày càng ít rồi.”

Tóm lại hàng ngày trước cửa hiệu giày của ông Quang đều có nhiều trẻ con người lớn tụ tập, họ hiếu kỳ, ham hiểu biết và cũng có nhiều uẩn khúc.

Ở cái thành phố này chẳng mấy ai có nhiều kiến thức. Ông hiệu trưởng trường trung học của tôi cũng uyên bác nhưng chẳng mấy khi nói chuyện với chúng tôi. Chỉ khi nào chúng tôi có lỗi ông ấy dạy bảo thì mới nói.

Ông Quang bây giờ bỏ rượu rồi, chúng tôi mời để tỏ lòng kính trọng ông cũng không uống. Ông thay đổi hoàn toàn tác phong sinh hoạt, mà cũng không bê trễ việc làm ăn, trái lại còn khá hơn trước. Có người khi cần hỏi chuyện, giày không làm sao nhưng lại nhờ ông đóng cho chắc thêm, thực ra chỉ để nghe ông nói thêm chút nữa. Mọi chuyện từ nam đến bắc, từ người đến sinh vật, từ lịch sử đến hiện đại, ai có gì thắc mắc cứ đến hỏi ông thợ giày.

Tất nhiên có lúc ông cũng không nghĩ như vậy, cho rằng cái ông biết chỉ là chuyện vỉa hè.

Đúng dịp sau đợt “nghiêm trị” 1983,  phong trào học tri thức được phát động, các cuộc thi kiến thức được tổ chức, hầu như những người biết chữ trong thành phố đều tham gia. Cuộc thi ra đề rất nhiều, trả lời ba giờ đồng hồ. Bọn nhóc con chúng tôi cũng tham gia. Giải nhất cuộc thi đương nhiên là ông Quang thợ giày.

Cho nên những người trước kia còn ngờ vực nay đều phải chịu, huống hồ trong cuộc thi họ còn thua ông kia mà.

Chúng tôi còn thấy vị thầy tu râu bạc hiền từ chùa Thanh Chân từng kín đáo giảng đạo cho ông thợ giày, điều này hoàn toàn chính xác. Do vậy ông Quang - giáo sư Quang - mấy năm đó là nhân vật huyền thoại, cũng là nhân vật kỳ lạ của khu phố chúng tôi.

Mấy năm đó, chúng tôi cũng lớn nhanh như thổi, đến năm 1985, bí mật của sự uyên bác của ông thợ giày mới phơi bày ra ánh sáng.

Chính là mấy thằng con ông lật tẩy. Một hôm, kỳ thực là đã từ lâu nay chúng nó thấy bố cứ tối đến là thắp một ngọn đèn bão ngồi một mình trong chuồng dê sau sân, có lúc như nói chuyện với dê. Chúng nó tưởng ông học kinh Phật. Mấy năm sau, một đứa phát hiện hai quyển sách to trong chuồng dê, sách màu nâu, bìa cứng, tên sách là “Bách khoa toàn thư - bản in tóm tắt”, thế là bí mật kiến thức uyên bác của ông thợ giày bị lộ tẩy.

Chúng nó lấy hai quyển sách, trong đó các trang đã nhàu nát đưa cho chúng tôi, giở sách ra xem thì thấy đầy những nét bút mực bút chì, rõ ràng là những gì in trong đó là những điều chúng tôi được nghe ông nói.

Chúng tôi cáu quá vì ông ấy đã lừa chúng tôi, trước mặt ông, chúng tôi lôi hai cuốn sách ra, hét lên, xé tan và đốt đi.

Khi đó ông biến sắc mặt, giữa chốn đông người ông bật khóc trong tiếng cười của chúng tôi.

Về sau, ông thợ giày mất đi lòng kính trọng của chúng tôi lại trở thành người nghiện rượu. Nơi ngã tư đường, ông lại u uất, cặm cụi đóng giày trong sự mỉa mai của chúng tôi.

Mùa đông năm 1985, ông uống say chẳng còn sức lê bước về nhà, nằm chết cóng trên đường. Hôm sau mọi người mới phát hiện. Những năm tháng ấy đã qua rồi, đến nay có còn ai nhớ tới ông chăng?