Chương 4
Tôi bật dậy thở dốc, hít một hơi sâu bầu không khí ẩm ướt trong căn phòng thạch cao. Tôi đảo mắt nhìn quanh một cách có lỗi. Đáng ra tôi không nên làm thế. Tôi đã biết được những gì? Anh ta đang ở Đại Điện và vô cùng khỏe mạnh? Thông tin không đáng kể.
Nhưng tôi không hối hận. Giờ tôi đã biết anh ta thấy được gì khi đến thăm tôi, những thông tin anh ta có thể và không thể chọn lọc từ kết nối. Giờ tôi đã thành thục thêm một sức mạnh mà trước đó chỉ thuộc về anh ta. Và tôi thích nó. Ở Tiểu Điện, tôi đã sợ hãi những hình ảnh ấy, sợ rằng mình sắp sửa mất trí, và tệ hại hơn, tôi đã thắc mắc không biết mọi người sẽ nói gì về tôi. Nhưng không còn nữa. Tôi sẽ không hổ thẹn nữa. Hãy để anh ta biết cảm giác ám ảnh là thế nào.
Huyệt thái dương bên phải của tôi bắt đầu nhức nhối. Ta tìm những bộ khuếch đại của Morozova cho cô, Alina. Những gian dối trá hình sự thật. Anh ta muốn giúp tôi mạnh mẽ hơn, nhưng đấy chỉ vì anh ta tin rằng mình có thể kiểm soát tôi. Anh ta vẫn tin như thế, và điều đó khiến tôi sợ hãi. Hắc Y không tài nào phát hiện Mal và tôi đã biết phải bắt đầu tìm bộ khuếch đại thứ ba từ đâu, nhưng dường như anh ta chẳng lo lắng. Anh ta thậm chí còn không nhắc đến Hỏa Điểu. Anh ta trông có vẻ tự tin, quyền uy, như thể anh ta thuộc về cung điện và ngai vàng ấy. Ta biết nhiều thứ về sức mạnh mà cô chẳng bao giờ đoán được. Tôi lắc đầu. Có lẽ tôi không phải là một mối đe dọa, nhưng tương lai thì có thể. Tôi sẽ không để anh ta đánh bại mình trước khi có cơ hội đem đến cho anh ta một trận đấu xứng đáng.
Tiếng gõ hối thúc vang lên từ phía cửa. Đã đến giờ rồi. Tôi xỏ chân lại vào bốt và chỉnh đốn bộ kefta nhếch nhác màu vàng của mình. Sau hôm nay, có lẽ tôi sẽ đãi bản thân một bữa.
Nghi thức diễn ra khá đẹp mắt. Việc triệu hồi ánh sáng dưới tầng ngầm vẫn còn là một thử thách, nhưng tôi vẫn chiếu những luồng sáng chói lòa lên khắp những bức tường trong Giáo Hội Trẳng, tung hết năng lượng để thu hút đám đông đang rên rỉ và đung đưa bên dưới. Vladim đứng bên trái tôi, áo sơ mi phanh rộng nhằm phô bày dấu tay tôi trên ngực cậu ta. Bên phải tôi, lão Tư Tế đang giảng bài, và dù là vì sợ hãi hay đức tin thật sự thì lão nói cũng rất thuyết phục. Giọng của lão vang vọng khắp hang động chính, tuyên bố rằng nhiệm vụ của chính tôi được dẫn dắt bởi Thánh thần và tôi sẽ trỗi dậy từ những thử thách mạnh mẽ hơn bao giờ.
Tôi quan sát lão trong lúc lão thuyết giảng. Lão trông nhợt nhạt hơn thường lệ, đẫm mồ hôi nhưng vẫn không quá tệ. Tôi tự hỏi không biết có phải để lão sống là sai lầm hay không, nhưng khi không bị chi phối bởi luồng sóng cuồng nộ và năng lượng thì tôi không muốn giết người.
Một tiếng suỵt vang lên. Tôi nhìn xuống những khuôn mặt háo hức của giáo dân bên dưới. Có gì đó mới mẻ trong niềm hân hoan của họ, có lẽ vì họ đã thoáng thấy qua sức mạnh thật sự của tôi. Hoặc có lẽ vì lão Tư Tế đã hoàn thành nhiệm vụ quá tốt. Họ đang chờ tôi phát biểu. Tôi đã từng có những giấc mơ như thế. Tôi là một diễn viên trong vở kịch, nhưng tôi chưa bao giờ học thuộc lời thoại của mình.
“Tôi sẽ…” Giọng tôi khản đặc, tôi đằng hắng rồi thử lại lần nữa. “Tôi sẽ quay trở lại và quyền năng hơn trước,” tôi nói bằng chất giọng giống-thánh-thần nhất có thể. “Mọi người là đôi mắt của tôi.” Tôi cần họ như thế, để theo dõi lão Tư Tế, để trông chừng lẫn nhau. “Mọi người là nắm đấm. Là thanh kiếm của tôi.”
Đám đông reo hò. Đồng loạt, tiếng của họ vọng về chỗ tôi, Sankta Alina! Sankta Alina! Sankta Alina!
“Không tệ,” Mal nói trong lúc tôi rời khỏi ban công.
“Mình đã nghe lão Tư Tế lải nhải suốt ba tháng trời. Cũng phải học hỏi chút được chút ít chứ.”
Theo lệnh của tôi, lão Tư Tế thông báo mình sẽ cô lập bản thân trong ba ngày, nhịn ăn và cầu nguyện cho sứ mệnh thành công. Những cận vệ của lão cũng sẽ làm tương tự, nhốt mình trong phòng lưu trữ và được canh giữ bởi nhóm Soldat Sol.
“Hãy giữ đức tin của họ được vững mạnh,” tôi dặn dò Ruby và những binh sĩ khác. Tôi mong ba ngày sẽ đủ để chúng tôi thoát khỏi Giáo Hội Trắng, nhưng tôi thừa biết lão Tư Tế, có khi lão sẽ thuyết phục họ thả mình ra trước bữa tối.
“Tôi biết cô,” Ruby nói, cô siết chặt tay tôi lúc tôi quay lưng đi. “Tôi từng ở cùng trung đoàn với cô. Cô có nhớ không?”
Mắt cô ấy rơm rớm, và hình xăm trên má sẫm đen tới mức trông như nó đang nổi lềnh phềnh trên da.
“Dĩ nhiên là có,” tôi dịu dàng đáp. Chúng tôi không phải bạn bè. Hồi đó Ruby có hứng thú với Mal hơn là tôn giáo. Tôi gần như vô hình đối với cô.
Giờ cô ấy lại thốt nên tiếng nấc nghẹn và đặt một nụ hôn lên khớp tay của tôi. “Sankta,” cô nồng nhiệt thì thầm. Những khi tôi nghĩ cuộc đời mình sẽ chẳng thể nào kì lạ hơn thì nó lại diễn ra ngược lại.
Khi tôi tách khỏi Ruby, tôi dành ra giây phút cuối cùng để nói riêng với lão Tư Tế.
“Ông biết tôi đang theo đuổi cái gì, linh mục, và ông biết sức mạnh tôi sẽ sở hữu khi trở về. Không có gì xảy đến với nhóm Soldat Sol và Maxim hết.” Tôi không muốn để người Thiện Tâm Y ở lại một mình, nhưng tôi cũng không bắt anh ta phải nhập bọn khi không biết rõ về hiểm nguy mà mình phải đối mặt lúc ở trên mặt đất.
“Chúng ta không phải kẻ thù, Sankta Alina,” lão Tư Tế dịu giọng. “Cô phải biết rằng tất cả những gì ta muốn chỉ là được thấy cô ngồi trên ngai vàng của Ravka.”
Tôi suýt đã mỉm cười trước câu ấy. “Ta biết, linh mục. Trên ngai vàng và dưới quyền kiểm soát của ông.”
Lão nghiêng đầu sang một bên, chuyên chú nhìn tôi. Tia sáng cuồng tín đã biến mất nơi mắt lão. Lão bây giờ trông chỉ có vẻ khôn ngoan.
“Cô không giống những gì ta đã tưởng,” lão thú nhận.
“Không phải vị Thánh mà ông đã mua được?”
“Một vị Thánh thấp kém hơn,” lão nói. “Nhưng có lẽ là một nữ hoàng tuyệt vời hơn. Ta sẽ cầu nguyện cho cô, Alina Starkov.”
Điều kì lạ là, tôi đã tin lão.
Mal và tôi gặp những người khác tại Giếng Chetya, một suối nước tự nhiên ở giao lộ của bốn đường hầm lớn. Nhỡ lão Tư Tế có cho người đuổi theo thì chúng tôi thì từ đấy sẽ khó dò đường hơn. Ít nhất đấy là ý tưởng dự kiến, nhưng chúng tôi đã không tính đến chuyện vô số người hành hương đến đưa tiễn cả đoàn. Họ đi theo những Grisha từ lúc rời khỏi phòng và đến tụ họp quanh Giếng.
Chúng tôi đều mặc đồ lữ hành bình thường, áo kefta xếp gọn ghẽ trong ba lô. Tôi đã đổi áo choàng vàng lấy một cái áo khoác dày, một chiếc mũ lông, và sức nặng an ủi của khẩu súng giắt ngang hông. Nếu không phải vì mái tóc bạc trắng của mình, tôi không nghĩ sẽ có người hành hương nào nhận ra tôi.
Giờ họ vươn tay để chạm vào tay áo hoặc bàn tay tôi. Một số người nài ép chúng tôi nhận mấy món quà nho nhỏ, những quà biếu duy nhất họ có: những ổ bánh mì tích trữ lâu năm cứng đến gãy răng, những hòn đá được đánh bóng, một nhúm muối huệ tây. Họ lầm rầm cầu nguyện cho sức khỏe của chúng tôi với những giọt lệ đong đầy trong mắt.
Tôi nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của Genya khi một người phụ nữ choàng lên vai cô ấy một chiếc khăn màu xanh đậm. “Không phải màu đen,” bà nói. “Tặng cô, đừng là màu đen nữa nhé.”
Cơn đau quặn lên trong cuống họng. Lão Tư Tế không phải kẻ duy nhất đã cách ly tôi với những người này. Chính tôi cũng đã xa lánh họ. Tôi đã nghi ngờ đức tin của họ, nhưng chủ yếu là tôi e sợ hy vọng từ họ. Yêu thương và quan tâm trong từng cử chỉ nhỏ nhặt thế này là gánh nặng mà tôi vô phương đón nhận.
Tôi hôn má, bắt tay, hứa hẹn những lời mình không chắc có thể giữ, và rồi chúng tôi lên đường. Tôi đã được khiêng vào Giáo Hội Trắng trên một chiếc cáng. Ít ra tôi sẽ đi khỏi đây bằng chính đôi chân mình.
Mal dẫn đầu. Tolya và Tamar đi cuối hàng, dò thám sau lưng chúng tôi để bảo đảm rằng không có ai bám đuổi.
Nhờ những lần David lui tới phòng lưu trữ và giác quan dò đường bẩm sinh của Mal mà họ đã phác họa được một tấm bản đồ hệ thống đường ngầm. Họ bắt đầu vẽ đường đi đến Ryvost, nhưng vẫn còn vài khoảng trống thông tin. Dù chúng có chính xác tới đâu, chúng tôi vẫn không biết rõ mình đang dấn thân vào thứ gì.
Sau lần trốn thoát của tôi ở Os Alta, người của Hắc Y đã cố thâm nhập hệ thống đường ngầm bên dưới những nhà thờ và thánh địa ở Ravka. Khi việc tìm kiếm không có tác dụng, họ bắt đầu đánh bom: chặn hết mọi lối thoát, cố ép những người đang tìm nơi trú ẩn phải trở lên mặt đất. Những Giả Kim Thuật Gia của Hắc Y đã tạo ra chất nổ mới nhằm đánh đổ mấy tòa nhà và thổi khí gas gây cháy xuống dưới lòng đất. Tất cả chỉ cần một mồi lửa của Tiết Hỏa Sư, và cả một bộ phận của hệ thống đường ngầm cổ xưa sụp đổ. Đấy là một trong những lý do Lão Tư Tế khăng khăng bắt tôi ở lại Giáo Hội Trắng.
Ở phía Tây có tin đồn về đất lún, nên Mal dẫn chúng tôi hướng lên phía Bắc. Nó không hẳn là lối đi trực tiếp, nhưng chúng tôi mong nó sẽ an toàn.
Thật nhẹ nhõm khi được di chuyển xuyên qua hang động, được làm gì đó sau hàng tuần liền bị giam hãm. Cơ thể của tôi vẫn còn yếu, nhưng tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn bao giờ, và tôi cất bước không chút phàn nàn.
Tôi cố không nghĩ quá nhiều về khả năng trạm buôn lậu ở Ryevost đã không còn hoạt động. Làm sao chúng tôi tìm được một gã hoàng tử không muốn bị phát hiện, và thực hiện điều đó khi chính mình vẫn phải ẩn thân? Nếu Nikolai còn sống, chắc hẳn gã đang tìm tôi, hoặc gã sẽ tìm đến đồng minh khác. Đối với gã, tôi có lẽ đã chết trong trận chiến ở Tiểu Điện.
Đường hầm ngày càng tối dần trong lúc chúng tôi di chuyển xa hơn khỏi Giáo Hội Trắng và lớp thạch cao sáng rực kì ảo của nó. Chẳng mấy chốc chỉ còn những đốm lửa lung lay từ đèn lồng làm nguồn sáng dẫn đường duy nhất cho chúng tôi. Ở một vài chỗ, hang động hẹp đến nỗi chúng tôi phải tháo dỡ hành lý và luồn lách qua những bức tường ép sát. Rồi, bất thình lình, chúng tôi nhận ra mình đang ở trong một hang động đủ lớn để chăn ngựa.
Mal đã đúng: đi cùng nhiều người rất ồn ào và khó kiểm soát. Tiến độ của chúng tôi chậm đến nản lòng, cả đám xếp thành một hàng dài với Zoya, Nadia và Adrik rải đều khắp hàng; phòng khi đất lún, luồng không khí mà những Tiết Khí Sư của chúng tôi có thể triệu hồi sẽ cung cấp thêm khoảng thời gian quý giá để hô hấp cho những người bị kẹt.
David và Genya cứ bị tụt lại ở đằng sau, nhưng dường như anh ta mới là nguyên nhân của việc chậm trễ. Cuối cùng, Tolya nhấc bổng túi hành lý nặng trịch khỏi đôi vai gầy khẳng của David.
Anh ta rên rỉ. “Anh nhét gì trong đây vậy?”
“Ba đôi vớ, một cái quần, một cái áo để thay. Một cái bi đông. Một chiếc ly và đĩa bằng thiếc. Vòng thước loga hình trụ, một cái cân lượng tịnh, một hũ nhựa cây vân sam, bộ sưu tập chất chống ăn mòn của tôi…”
“Đáng ra anh chỉ nên mang theo những gì cần thiết thôi.”
David gật đầu dứt khoát. “Chính xác.”
“Làm ơn đừng nói với tôi anh đem theo toàn bộ ghi chép của Morozova đấy nhé,” tôi nói.
“Dĩ nhiên là có rồi.”
Tôi đảo mắt. Ít nhất phải có đến mười lăm cuốn sách bọc da. “Có lẽ dùng chúng để nhóm lửa rất tốt.”
“Cô ta đang đùa à?” David hỏi, tỏ vẻ lo lắng. “Tôi không bao giờ biết liệu cô ta có đang đùa hay không.”
Tôi đùa đấy. Phần lớn là thế. Tôi mong những ghi chú sẽ cho tôi manh mối về Hỏa Điểu hoặc thậm chí là những bộ khuếch đại sẽ giúp tôi phá hủy Vực Tối như thế nào. Nhưng chúng đã là ngõ cụt, và nói thật, chúng cũng làm tôi sợ hãi chút đỉnh. Baghra đã cảnh báo tôi về sự điên loại của Morozova, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn mong được tìm ra tri thức trong công trình của ông. Thay vào đó, ghi chú của ông ta đã khiến tôi ám ảnh, tất cả đều được ghi lại bằng lối chữ viết tay nguệch ngoạc khó đọc. Có vẻ như thiên tài thì không cần viết chữ đẹp.
Những ghi chú đầu tiên kể lại thí nghiệm của ông: Công thức chế tạo lửa ở dạng lỏng bị bôi đen, cách thức phòng tránh sự phân hủy, những thí nghiệm dẫn đến sự ra đời của thép Grisha, cách phục hồi oxy trong máu, những năm tháng vô tận ông đã dành để tìm cách chế tạo thủy tinh không vỡ. Tài nghệ của ông vượt xa những Sáng Chế Gia thông thường, và ông ta biết rõ điều đó. Một trong những nguyên tắc chủ yếu trong học thuyết Grisha chính là “Tương đồng kêu gọi tương đồng,” nhưng Morozova dường như tin rằng nếu ta có thể đập vỡ thế giới thành những mảnh nhỏ bằng nhau, thì Grisha nào cũng sẽ điểu khiển được tất cả. Không phải chúng ta là vạn vật sao? Ông ta gặng hỏi, gạch chân những từ đó để nhấn mạnh. Ông ta ngạo mạn, táo bạo - nhưng vẫn tỉnh trí.
Rồi ông ta bắt tay vào làm những bộ khuếch đại, và đến tôi cũng có thể thấy được sự thay đổi. chữ nghĩa dày đặc hơn, lộn xộn hơn. Bên lề đầy những biểu đồ và mũi tên chồng chéo chỉ lên những đoạn văn trước đó. Tệ hơn là những miêu tả về thí nghiệm trên động vật của ông ta, những hình vẽ giải phẫu. Chúng khiến tôi buồn nôn và nghĩ rằng Morozova xứng đáng với bất kì công cuộc tử vì đạo nào trước đó. Ông ta tàn sát động vật rồi hồi sinh chúng, đôi khi lặp lại nhiều lần, lún sâu hơn vào merzost, sự kiến tạo, sức mạnh của sự sống trên cái chết, cố tìm cách làm ra những bộ khuếch đại có thể được dùng chung. Đấy là năng lượng cấm, nhưng tôi hiểu cám dỗ của nó, và tôi rùng mình khi nghĩ đến việc theo đuổi nó có thể là nguyên nhân khiến ông ta phát điên.
Nếu ông ta được dẫn dắt bởi mục đích cao quý nào khác thì tôi cũng không thấy ghi ra trên giấy. Nhưng tôi đọc được thứ gì đó sâu xa hơn trong những dòng chữ cuồng loạn của ông, trong khẳng định rằng sức mạnh ở mọi nơi để chiếm lấy. Ông ta tồn tại từ trước khi Hạ Quân được thành lập. Ông ta là Grisha quyền năng nhất mà thế giới từng biết đến - và sức mạnh ấy đã cô lập ông. Tôi nhớ đến những lời Hắc Y nói với mình: Không có người nào giống như chúng ta đâu, Alina. Và sẽ không bao giờ có. Có lẽ Morozova muốn tin rằng nếu không có người nào giống như ông thì sau này sẽ có, rằng ông có thể tạo ra một Grisha nhiều quyền năng hơn. Hoặc tôi chỉ đang tưởng tượng, chỉ đang nhìn thấy cô đơn và ham muốn của chính mình trên những trang sách của Morozova. Đống hỗn độn của những gì tôi biết và những gì tôi muốn, khát khao của tôi với Hỏa Điểu. Nhận thức của bản thân về khác biệt đã trở nên khó khăn để tháo gỡ.
Tôi bị kéo khỏi dòng suy nghĩ bởi tiếng nước chảy xiết. Cả đoàn đang đến gần một con sông dưới lòng đất. Mal đi chậm lại và bắt tôi đi ngay phía sau cậu ấy, thắp sáng con đường phía trước. Âu cũng là điều tốt, vì chỗ lún đến nhanh chóng, dốc cao và bất chợt khiến tôi đâm sầm vào lưng Mal, suýt xô cậu mất đà và rơi xuống mặt nước bên dưới. Ở đây, tiếng sóng đập vỗ vào vách đến điếc cả tai, dòng sông chảy ào ạt với chiều sâu vô định, những cụm sương mờ bốc lên từ dốc đứng.
Chúng tôi buộc dây thừng quanh hông Tolya, và anh ta lội ngang sông, sau đó cột chặt dây ở bờ bên kia để tất cả có thể bám theo dây và theo sau từng người một. Nước lạnh cóng và dâng cao tới ngực tôi, dòng chảy mạnh đến nỗi suýt cuốn tôi trượt chân dù bám chặt dây thừng. Harshaw là người cuối cùng băng qua. Tôi thoáng đứng tim khi hắn sẩy chân và sợi dây gần như đứt lìa. Rồi hắn trồi lên, hớp từng ngụm khí, Oncat ướt như chuột lột và phun nước bọt phì phèo. Lúc Harshaw đến chỗ chúng tôi, mặt và cổ hắn đã đầy những vết cào.
Sau đó, chúng tôi đều nôn nóng muốn nghỉ chân, nhưng Mal buộc cả đoàn phải tiếp tục.
“Tôi ướt nhẹp rồi,” Zoya càu nhàu. “Sao chúng ta không thể dừng lại ở hang động ẩm ướt này thay vì cái tiếp theo?”
Mal không dừng bước, nhưng cậu chĩa ngón cái về phía dòng sông. “Bởi vì nó,” cậu hét lên trong tiếng nước chảy ồ ạt. “Nếu chúng ta bị theo đuôi, sẽ rất dễ để họ đuổi kịp chúng ta với tiếng ồn đó làm lá chắn.”
Zoya cau mặt, nhưng chúng tôi lại đi tiếp, cho tới khi cuối cùng cũng lánh xa dòng sông ầm ĩ. Chúng tôi qua đêm trong một trũng đá vôi ẩm ướt, không có gì khác để nghe ngoài tiếng răng va vào nhau cầm cập khi tất cả run lẩy bẩy trong bộ quần áo ướt đẫm.
Chúng tôi cứ đi như thế suốt hai ngày, xuyên qua những đường hầm, thi thoảng phải đi ngược lại vì lộ trình có vẻ bất khả thi. Tôi đã mất hết phương hướng về nơi mình đang tới, nhưng khi Mal thông báo rằng chúng tôi đang rẽ về hướng Tây, tôi nhận ra những lối đi bắt đầu hướng lên trên, dẫn cả đoàn tiến lên trên mặt đất.
Mal bước theo tốc độ khó bắt kịp. Để giữ liên lạc, cậu và cặp sinh đôi sẽ huýt sáo từ hai đầu hàng ngũ, đảm bảo rằng không ai bị tụt về phía sau quá xa. Thi thoảng, cậu sẽ đi lùi lại để kiểm tra dân số.
“Mình biết bồ đang làm gì nhé,” tôi nói khi cậu ấy quay trở lại đầu hàng.
Sao hả?
“Bồ lùi lại mỗi khi có ai đó đi chậm, bắt chuyện với họ. Bồ hỏi David về thuộc tính của phốt-pho hoặc hỏi Nadia về đốm tàn nhang của cô ấy…”
“Mình chưa bao giờ hỏi Nadia về đốm tàn nhang của cô ấy nha.”
“Hoặc thứ gì khác. Rồi dần dần bồ bắt đầu đi nhanh hơn để họ đuổi theo.”
“Cách đó dường như hữu dụng hơn dùng cây thúc họ,” cậu ấy trả lời.
“Ít vui hơn.”
“Thúc họ thì mỏi tay lắm.”
Rồi cậu ấy rời đi, bắt đầu tiến về phía trước. Đấy là đoạn đối thoại dài nhất chúng tôi có được từ khi rời khỏi Giáo Hội Trắng.
Dù Mal đã dặn chúng tôi phải giữ nguyên đội hình, Genya vẫn thường trốn lên hàng trên để than phiền với tôi.
“Bài thơ nào cũng viết về một người hùng can đảm tên Kregi,” cô ấy nói. “Bài nào cũng vậy. Anh ta luôn cưỡi một con chiến mã, và chúng tôi phải nghe về con chiến mã và ba loại kiếm khác nhau anh ta mang bên mình và màu của những chiếc khăn anh ta cột trên tay và những con quái vật đáng thương bị anh ta tàn sát và rồi anh ta lịch thiệp và chân thành thế nào. Với tư cách một lính đánh thuê, Tolya ủy mị đến phát sợ.”
Tôi bật cười và liếc về phía sau, dù tôi chẳng thấy gì nhiều. “David thích không?”
“David khờ hết mức. Anh ấy luôn miệng lảm nhảm về hợp chất khoáng vật suốt một tiếng đồng hồ.”
“Có lẽ anh ta và Tolya sẽ ru ngủ lẫn nhau,” Zoya lầm bầm.
Cô ấy không việc gì phải cằn nhằn. Dù tất cả đều là Tiết Độ Sư, nhưng điểm chung duy nhất của Tiết Khí Sư và Tiết Hỏa Sư là tính thích tranh cãi. Stigg không muốn Harshaw đến gần vì anh ta không chịu được lũ mèo. Harshaw liên tục thấy xúc phạm thay cho Oncat. Adrik đáng ra phải đi giữa nhóm, nhưng cậu nhóc muốn ở gần Zoya. Zoya thường rời khỏi vị trí đầu hàng để lánh xa Adrik. Tôi bắt đầu ước mình đã cắt dây và để họ chìm hết xuống sông.
Và Harshaw không chỉ làm tôi bực mình; hắn ta khiến tôi lo sốt vó.
Hắn ta thích quẹt những viên đá lửa của mình dọc tường hang động, tóe lên mấy đốm lửa nhỏ tí, và hắn liên tục lôi những miếng phô mai cứng từ trong túi ra cho Oncat ăn, rồi cười khúc khích như thể con mèo tam thể vừa nói gì buồn cười. Một sáng nọ, chúng tôi tỉnh dậy và phát hiện hắn đã cạo trọc hai bên đầu của mình để mái tóc đỏ quạch chỉ còn một đường sọc duy nhất kéo xuống đỉnh đầu.
“Anh đã làm vì vậy?” Zoya thét lên. “Nhìn anh như con gà trống bị dại ấy!”
Harshaw chỉ nhún vai. “Oncat thích thế.”
Dẫu vất vả, những kỳ quan trong đường ngầm đôi khi vẫn làm cả đoàn Tiết Độ Sư ngạc nhiên im bặt. Chúng tôi đã dành hàng giờ đồng hồ chỉ để ngắm những tảng đá màu xám và mấy quả chanh lấm bùn, rồi thoát ra một hang động xanh lơ tròn vạnh và trơn mượt giống như đang đứng trong một quả trứng tráng men khổng lồ. Chúng tôi đi ngang một loạt những hang động nhỏ lấp lánh với những thứ có khi từng là đá ruby. Genya gọi nó là Hộp Đá Quý, và sau đó, chúng tôi thay phiên nhau đặt tên chúng để giết thời gian. Có Vườn Ăn Quả - một hang động đầy những chuông và măng đá đã quyện vào nhau thành cột dài mảnh dẻ. Và trong vòng nửa ngày sau đó, chúng tôi chạm trán Sảnh Khiêu Vũ, một hang dài chứa thạch anh hồng và sàn đá trơn đến mức chúng tôi phải bò qua, thi thoảng phải nằm sấp xuống mà trượt. Rồi có cả khung lưới sắt kỳ quái bị chìm một phần trong nước được chúng tôi gọi là Cổng Thiên Thần. Hai bên lưới là hai bức tượng đá có cánh, họ cúi đầu, tay đặt lên thanh đao bằng cẩm thạch. Nhờ cuộn dây, chúng tôi suôn sẻ băng qua nó, nhưng tại sao nó được đặt ở đó? Và bởi ai?
Vào ngày thứ tư, chúng tôi bắt gặp một hang động với mặt hồ tĩnh lặng tựa ảnh ảo phản chiếu bầu trời đêm, lòng nước sâu thẳm lấp lánh cùng bầy cá phát quang tí hon.
Mal và tôi đi trước những người khác một chút. Cậu ấy nhúng tay vào nước, rồi ré lên và rụt lại. “Tụi nó cắn đấy.”
“Đáng đời bồ,” tôi nói. “Ồ, trông kìa, một cái hồ tối tăm đầy những thứ lấp lánh. Để mình thò tay xuống xem.”
“Ai bảo mình ngon lành quá làm gì,” cậu ấy đùa, nụ cười ngạo nghễ thân thuộc thoáng hiện trên mặt cậu như ánh sáng tỏa rạng trên làn nước. Rồi dường như cậu ấy chợt nhận ra. Cậu bèn vác hành lý lên vai, và tôi biết cậu ấy sắp sửa tránh mặt tôi.
Tôi không chắc những từ ấy đến từ đâu. “Bồ đã không làm mình thất vọng, Mal à.”
Cậu ấy chùi bàn tay ẩm ướt lên đùi. “Chúng ta đều biết rõ sự thật mà.”
“Chúng ta sẽ cùng đi với nhau một khoảng thời gian mà có trời mới biết nó lâu đến thế nào. Thể nào bồ cũng phải nói chuyện với mình thôi.”
“Mình đang nói chuyện với bồ đây.”
“Thấy chưa? Nó tệ đến vậy sao?”
“Không hẳn,” cậu trả lời, chăm chú nhìn vào tôi, “nếu tất cả những gì mình muốn làm chỉ là nói chuyện.”
Hai má tôi nóng bừng. Mày không muốn vậy, tôi tự nhủ. Nhưng tôi nhận ra gai góc trong người bắt đầu vặn xoắn như mẩu giấy bị hơ quá gần lửa. “Mal…”
“Mình phải giữ cho bồ an toàn, Alina, để tập trung vào đại cuộc. Mình không thể làm thế nếu…” Cậu ấy thở một hơi rất dài. “Bồ xứng đáng được nhiều thứ hơn mình, và mình sẽ chiến đấu tới chết để bồ có được chúng. Nhưng làm ơn đừng bắt mình phải giả vờ rằng chuyện đó thật dễ dàng.”
Cậu ấy lao đến hang động tiếp theo ở phía trước.
Tôi nhìn xuống mặt hồ rực rỡ, những vòng ánh sáng vẫn đang dao động sau cú chạm thảng hoặc của Mal. Tôi có thể nghe thấy những người khác ồn ào băng qua hang.
“Oncat cào tôi suốt,” Harshaw nói trong lúc thong dong đi đến cạnh tôi.
“Ồ?” Tôi lãnh đạm hỏi.
“Điều nực cười là, nó thích ở cạnh tôi.”
“Anh đang cố tỏ ra sâu sắc đấy à, Harshaw?”
“Thật ra tôi đang tự hỏi, nếu ăn hết mấy con cá kia thì tôi có bắt đầu phát sáng không?”
Tôi lắc đầu. Dĩ nhiên một trong những Tiết Hỏa Sư còn sống sót phải là một gã điên. Tôi theo chân cả đoàn và hướng về đường ngầm tiếp theo.
“Đi nào, Harshaw,” tôi quay lại gọi.
Rồi vụ nổ đầu tiên diễn ra.