Chương 5
Cả hang động rung chuyển. Một làn mưa đá cuội đổ lách cách xuống đầu chúng tôi.
Mal đến bên tôi ngay lập tức. Cậu ấy kéo tôi khỏi đống đá đang rơi trong lúc Zoya đứng chắn bên còn lại.
“Tắt đèn!” Mal hét lên. “Dỡ hành lý xuống.”
Chúng tôi đè chặt ba lô của mình lên tường như một điểm tựa, rồi thổi tắt đèn phòng trường hợp tàn lửa sẽ gây thêm một vụ nổ khác.
Bùm. Ở phía trên? Ở phía Bắc? Thật khó mà nhận ra.
Mấy giây nữa trôi qua. Bùm. Lần này tiếng nổ ở gần hơn, to hơn. Đất đá đổ ào xuống mái đầu cúi gằm của chúng tôi.
“Anh ta tìm thấy chúng ta rồi,” Sergei rên rỉ, giọng nói rã rời vì sợ hãi.
“Không thể nào,” Zoya cự lại. “Đến Lão Tư Tế còn không biết chúng ta đi đâu.”
Mal hơi cựa mình. Tôi nghe tiếng đá rơi lộp bộp. “Một vụ tấn công ngẫu nhiên,” cậu ấy bảo.
Giọng của Genya run rẩy khi cô thì thầm, “Con mèo ấy đem lại vận xui.”
Bùm. Ồn đến mức cằm tôi va vào nhau lách cách.
“Metan yez” David lên tiếng. Khí Metan.
Tôi ngửi thấy nó chỉ một giây sau, mùi than bùn hôi thối. Nếu có một Tiết Hỏa Sư ở phía trên, tia lửa sẽ bắt khí và nổ chúng tôi tan xác. Ai đó bắt đầu khóc.
“Tiết Khí Sư,” Mal ra lệnh, “thổi nó về phía Tây.”
Sao cậu ấy có thể bình tĩnh nhường vậy?
Tôi thấy Zoya cử động, rồi một luồng khí lướt qua trong lúc cô ta và những người khác đẩy khí gas đi xa chúng tôi.
Bùm. Thật khó thở. Không gian dường như quá hẹp.
“Ôi, lạy Thánh Thần,” Sergei run rẩy.
“Tôi thấy có lửa!” Tolya hét lên.
“Thổi nó về phía Tây,” Mal lặp lại, giọng nói bình thản. Tiếng vút từ làn gió của Tiết Khí Sư theo sau. Thân thể Mal áp sát vào người tôi. Tôi vươn tay ra, tìm bàn tay cậu ấy. Ngón tay của chúng tôi đan vào nhau. Tôi nghe tiếng nấc khẽ từ phía còn lại, và tôi đưa tay nắm lấy bàn tay buông lỏng của Zoya, siết chặt nó trong tay mình.
BÙM. Lần này cả đường hầm rống lên với tiếng đá đổ. Tôi nghe mọi người thét gào trong bóng tối. Bụi mù phủ lấp cả buồng phổi.
Khi tiếng ồn dứt hẳn, Mal cất tiếng, “Không thắp đèn, Alina, chúng ta cần ánh sáng.” Tuy hơi khó khăn, nhưng tôi tìm thấy một tia sáng nhỏ và để nó lan tỏa khắp đường hầm. Người ai cũng đầy bụi, đôi mắt mở to đầy sợ hãi. Tôi mau chóng điểm danh: Mal, Genya, David, Zoya, Nadia, và Harshaw - Oncat được bọc trong áo hắn.
“Tolya?” Mal hét.
Không nghe gì. Và rồi, “Chúng tôi ổn.”
Tiếng của Tolya đến từ phía sau bức tường đá đổ xuống lấp hết đường hầm, nhưng nó rõ ràng và mạnh mẽ. Tôi gục đầu trên gối vì nhẹ nhõm.
“Em trai tôi đâu?” Nadia gào lên.
“Cậu ấy ở đây với tôi và Tamar,” Tolya đáp.
“Sergei và Stigg?” Tôi hỏi.
“Không biết.”
Thánh thần ơi.
Chúng tôi chờ thêm một tiếng bùm nữa, để phần còn lại của đường hầm đổ sụp xuống tất cả. Khi không có gì xảy ra, cả đám bắt đầu trườn đến chỗ giọng nói của Tolya trong lúc cô ấy và Tamar đào bới từ phía bên kia. Trong chốc lát, chúng tôi thấy đôi tay, rồi khuôn mặt lấm lem của họ đối mặt với chúng tôi. Họ chui qua phía chúng tôi. Ngay sau khi Adrik bỏ tay xuống, trần nhà phía trên chỗ cậu nhóc và cặp sinh đôi đứng lúc nãy đổ xuống thành một cồn đá bụi bặm. Người cậu run lên kịch liệt.
“Cậu đã chống đỡ căn hầm sao?” Zoya hỏi.
Tolya gật đầu. “Cậu ta tạo nên bong bóng khí ngay khi nghe thấy tiếng nổ cuối cùng.”
“Hử,” Zoya nói với Adrik. “Tôi ngạc nhiên đấy.”
Nhìn thấy vẻ phấn khởi vỡ òa ra trên khuôn mặt của cậu nhóc, cô ta liền rên rỉ. “Thôi bỏ đi. Tôi sẽ hạ cấp chuyện đó thành miễn cưỡng chấp nhận được.”
“Sergei?” Tôi gọi. “Stigg?”
Im lặng, chỉ có tiếng sỏi lăn.
“Để tôi thử cái này,” Zoya nó. Cô ta giơ tay lên. Tôi nghe một tiếng rắc bên tai, và không khí dường như hóa ẩm. “Sergei?” Cô ta nói. Giọng cô nghe xa xăm kì lạ.
Rồi tôi nghe tiếng Sergei, yếu ớt và run rẩy, nhưng rõ ràng, như thể anh ta đang nói ngay bên tôi. “Ở đây,” anh ta thở dốc.
Zoya nắm tay lại, điều chỉnh một chút, rồi gọi Sergei lần nữa.
Lần này, khi anh ta đáp lại, David nói, “Nghe như nó đến từ phía dưới chúng ta.”
“Có thể không.” Zoya trả lời. “Sóng âm dễ nhầm lắm.”
Mal đi về phía xa hơn của đường hầm. “Không, anh ta nói đúng. Khoảng đất mà họ đứng có lẽ đã sụp xuống.”
Chúng tôi mất gần hai giờ để tìm ra và đào họ lên - Tolya xới đất, Mal chỉ đường, những Tiết Khí Sư dùng gió để giữ vách cân bằng trong lúc tôi duy trì một luồng sáng mờ nhạt, mấy người khác đứng thành hàng để di dời đất đá.
Khi chúng tôi tìm thấy Stigg và Sergei, họ bị bùn lấp kín và sắp rơi vào trạng thái hôn mê sâu.
“Hạ thấp mạch đập của chúng tôi xuống,” Sergei chếnh choáng lẩm bẩm. “Làm giảm hô hấp. Dùng ít khí hơn.”
Tolya và Tamar đem họ trở về, tăng nhịp tim và bơm đầy oxy vào phổi của cả hai.
“Không ngờ mọi người lại tới,” Stigg lè nhè nói trong trạng thái mơ hồ.
“Tại sao?” Genya thổn thức, nhẹ nhàng lau sạch bụi xung quanh mắt anh ta.
“Cậu ấy không chắc mọi người sẽ quan tâm,” Harshaw nói từ phía sau tôi.
Có mấy tiếng lẩm bẩm phản đối, vài vài ánh nhìn tội lỗi. Đúng là tôi đã coi Stigg lẫn Harshaw như người ngoài. Và Sergei… chậc… Sergei đã lạc lối bấy lâu nay. Không ai trong chúng tôi thật sự lưu tâm đến họ.
Khi Sergei và Stigg có thể đi lại được, chúng tôi trở về đoạn hầm còn chắc chắn. Lần lượt, những Tiết Khí Sư phóng thích năng lượng của họ, và chúng tôi chờ xem trần nhà đủ vững không để họ nghỉ ngơi. Chúng tôi phủi bụi và than đen trên mặt và quần áo của nhau sạch hết mức có thể, rồi chuyển một bình kvas vòng quanh. Stigg ôm lấy nó như đứa trẻ cần sữa mẹ.
“Mọi người không sao chứ?” Mal hỏi.
“Chưa bao giờ khỏe hơn,” Genya run rẩy đáp.
David giơ tay. “Tôi đã từng khỏe hơn.”
Cả bọn cười phá lên.
“Sao chứ?” Anh ta nói.
“Sao cô làm thế được?” Nadia hỏi Zoya. “Cái trò tìm âm thanh ấy?”
“Chỉ là một cách tạo âm vang bất thường thôi. Chúng tôi thường sử dụng nó hồi còn ở trường để có thể nghe lén những người ở phòng khác.”
Genya khịt mũi. “Dĩ nhiên rồi.”
“Chị có thể chỉ mọi người cách làm không?” Adrik hỏi.
“Nếu tôi cần giải trí.”
“Tiết Khí Sư,” Mal nói. “mọi người sẵn sàng di chuyển tiếp chưa?”
Tất cả đều gật đầu. Khuôn mặt họ lóe lên tia sáng chỉ xuất hiện sau khi sử dụng sức mạnh Grisha, nhưng tôi chắc mẩm họ đã gần đến cực hạn rồi. Họ đã giữ hàng tấn đá khỏi rơi xuống đầu cả đội, và họ cần thêm vài phút nghỉ ngơi để hồi phục.
“Vậy mau thoát khỏi chỗ quái này thôi,” Mal bảo.
Tôi thắp sáng đường, vẫn lo lắng trước những bất ngờ khác đương chờ chúng tôi. Cả đám di chuyển một cách thận trọng, Tiết Khí Sư sẵn sàng cảnh giác, chúng tôi vòng vèo quanh đường hầm và lối đi cho đến khi tôi không còn biết được phương hướng. Chúng tôi đã đi rất xa tuyến đường mà Mal và David đã vẽ.
Mọi âm thanh dường như được phóng đại. Từng tiếng đá rơi khiến chúng tôi dừng chân, đông cứng, chờ tình huống xấu nhất. Tôi cố không nghĩ đến sức nặng của lớp đất phía trên đầu. Nếu chúng đổ xuống và năng lượng của Tiết Khí Sư thất bại, chúng tôi sẽ bị nghiền nát và không được một ai biết đến, như bông hoa dại ép giữa những trang sách và bị lãng quên.
Dần dà, tôi nhận ra chân tôi bắt đầu nặng nhọc hơn và phát hiện mặt đất bắt đầu lên dốc. Tôi nghe tiếng thở phào, một vài tiếng reo khẽ, và chưa đầy một giờ sau, chúng tôi đã chen chúc trong một căn hầm, nhìn lên một cánh cửa sập trên trần.
Sàn nhà ở đây ướt đẫm, đầy những vũng nước lỗ chỗ - dấu hiệu cho thấy rằng chúng tôi đã ở rất gần những thành phố ven sông. Nhờ ánh sáng phát ra từ lòng bàn tay, tôi có thể thấy tường đá bị nứt, nhưng lại không biết đấy là thiệt hại có từ lâu hay là hậu quả của mấy vụ nổ vừa rồi.
“Sao bồ làm thế được?” Tôi hỏi Mal.
Cậu ấy nhún vai. “Như thường lệ. Có một con thú lớn trên mặt đất. Mình chỉ xem đây như cuộc đi săn.”
Tolya lôi chiếc đồng hồ cũ của David khỏi túi áo khoác. Tôi không biết anh ta lấy nó từ lúc nào. “Nếu thứ này vẫn hoạt động thì giờ đã quá lúc hoàng hôn rồi.”
“Anh phải lên dây cho nó mỗi ngày,” David nói.
“Biết rồi.”
“Thế anh có làm không?”
“Có.”
“Vậy thì nó đúng giờ đấy.”
Tôi tự hỏi mình có nên nhắc David nhớ rằng nắm đấm của Tolya cũng có cùng kích thước với đầu của anh ta hay không.
Zoya sụt sịt. “Với vận may của chúng ta, có lẽ ai đó đang chuẩn bị cho buổi lễ nửa đêm.”
Phần lớn những lối vào và ra của đường hầm đều thuộc phạm vi đất thánh - nhưng không phải tất cả. Chúng tôi có thể thoát ra ở phòng niệm kinh trong nhà thờ hoặc sân trong của thư viện hoặc biết đâu cả đám sẽ ló đầu lên khỏi sàn của một nhà chứa. Và chúc một ngày tốt lành, thưa quý ngài. Tôi cố nén tiếng khúc khích. Kiệt sức và sợ hãi đang làm tôi choáng váng.
Nếu ai đó đang chờ chúng tôi trên đó thì sao? Nếu Lão Tư Tế lại đổi phe lần nữa và báo cho Hắc Y lộ trình của chúng tôi thì sao? Tôi không được tỉnh trí lắm. Mal tin rằng những vụ nổ chỉ là một cuộc tấn công ngẫu nhiên dưới đường hầm, và đấy là thứ duy nhất có lý. Lão Tư Tế không thể biết chúng tôi đang ở đâu, vào lúc nào. Và dù bằng cách nào đó mà Hắc Y phát hiện ra chúng tôi đang hướng về Ryevost, thì sao anh ta phải dùng bom để ép chúng tôi trở lên mặt đất? Anh ta chỉ cần chờ chúng tôi xuất hiện ở đó thôi.
“Đi thôi,” tôi nói. “Mình thấy nghẹt thở quá.”
Mal ra dấu cho Tolya và Tamar kèm chặt hai bên tôi.
“Sẵn sàng nhé,” cậu ấy nói với họ. “Khi có bất kì dấu hiệu rắc rối nào, hai người phải đưa cô ấy rời khỏi đây. Đến đường hầm dẫn ra phía Tây xa hết mức có thể.”
Chỉ sau khi cậu ấy bắt đầu trèo lên thang tôi mới nhận ra tất cả đều ở lại, chờ cậu ấy đi trước. Tolya và Tamar đều là những chiến binh thiện nghệ nhất, và Mal là otkazat’sya duy nhất giữa chúng tôi. Vậy tại sao cậu ấy lại là người gánh vác mạo hiểm? Tôi muốn gọi cậu trở lại, bảo cậu hãy cẩn thận, nhưng điều đó nghe thật xuẩn ngốc. “Cẩn thận” không còn là những gì chúng tôi từng làm nữa.
Trên đỉnh thang, cậu ấy ra hiệu cho tôi, và tôi dập tắt nguồn sáng, ném cả bọn và bóng tối. Tôi nghe một tiếng thịch, tiếng bản lề kéo căng, rồi tiếng càu nhàu thật khẽ và tiếng kẽo kẹt khi cửa sập mở tung. Không có ánh sáng tràn xuống, không la hét, không súng nổ.
Tim tôi đập dồn dập trong ngực. Tôi nghe tiếng Mal bước lên, chân cậu ấy giẫm lạo xạo phía trên. Cuối cùng, tôi nghe tiếng diêm quẹt và ánh sáng bừng lên xuyên qua cửa. Mal huýt sáo hai lần - dấu hiệu an toàn.
Từng người một, chúng tôi trèo lên thang. Khi tôi thò đầu qua cửa sập, cơn ớn lạnh liền chạy dọc sống lưng. Căn phòng hình lục giác, sáu bức tường được đẽo từ những phiến đá trông như lapis xanh, bức nào cũng có treo khung tranh bằng gỗ vẽ các Thánh khác nhau, vòng hào quang của họ nhấp nháy dưới ánh đèn. Góc phòng chằng chịt những mạng nhện màu trắng. Đèn lồng của Mal đặt trên một quách quan tài đá. Chúng tôi đang ở trong hầm mộ.
“Tuyệt vời,” Zoya nói. “Từ đường ngầm đến hầm mộ. Tiếp theo là gì, một chuyến đi đến lò mổ?”
“Mezle,” David cất lời, chỉ về một trong số những cái tên được khắc trên tường. “Họ là một gia đình Grisha lão luyện. Thậm chí còn có một người trong số họ ở Tiểu Điện trước khi…”
“Trước khi tất cả bị giết?” Genya nói đỡ cho anh ta.
“Ziva Mezle,” Nadia lặng lẽ trả lời. “Cô ấy là một Tiết Khí Sư.”
“Chúng ta có thể dừng cuộc triển lãm này ngay tại đây không?” Zoya hỏi. “Tôi muốn ra khỏi đây.”
Tôi xoa xoa cánh tay. Cô ấy nói đúng.
Cánh cửa nhìn như một tảng sắt nặng trịch. Tolya và Mal tựa vai vào nó trong khi chúng tôi xếp hàng phía sau họ, hai tay giơ cao, đá lửa Tiết Hỏa Sư sẵn sàng.
“Đếm đến ba,” Mal nói.
Tôi khẽ cười thành tiếng. Mọi người đều quay lại.
Tôi đỏ mặt. “À thì, chắc chúng ta đang ở trong nghĩa địa, và cả đám đang chuẩn bị nhào ra khỏi mộ.”
Genya khúc khích. “Nếu có ai ngoài kia, chúng ta sẽ dọa họ sợ chết khiếp.”
Với nét cười thảng hoặc, Mal hùa theo, “Ý hay đấy. Chuẩn bị đón tiếng ồoooooo nào.” Rồi nụ cười biến mất. Cậu ấy gật đầu với Tolya. “Cẩn thận.”
Cậu ấy đếm, rồi cả hai đẩy tới. Chốt cửa rít lên, và lối vào hầm mộ bật mở. Chúng tôi chờ, nhưng không có tiếng báo động nào ập đến.
Từ từ, chúng tôi nối đuôi nhau bước vào nghĩa địa vắng lặng. Ở gần sông thế này, dân chúng sẽ chôn cất người chết trên mặt đất phòng khi có lũ lụt. Những ngôi mộ, xếp thành từng dãy ngăn nắp như nhà đá, khiến cho nơi đây như một thành phố bỏ hoang. Một cơn gió thổi qua, lay chuyển lá trên cây và khuấy động những nhành cỏ mọc trên mấy ngôi mộ nhỏ hơn. Khung cảnh thật đáng sợ, nhưng tôi không quan tâm. Sau cái lạnh trong hang động, bầu không khí dường như ấm áp hơn. Cuối cùng chúng tôi đã thoát ra ngoài.
Tôi ngửa đầu, hít một hơi sâu. Một đêm không trăng trong trẻo, và sau bao tháng ngày đằng đẵng dưới mặt đất, cảnh tượng trời đêm mới choáng váng làm sao. Và rất nhiều sao - một quần thể lấp lánh, hỗn độn ở gần đến mức có thể chạm tới được. Tôi để ánh sáng nơi chúng đổ xuống người như một niềm an ủi, cảm thấy biết ơn vì không khí trong phổi, buổi đêm xung quanh.
“Alina,” Mal khẽ nói.
Tôi mở mắt. Đoàn Grisha đang nhìn tôi chằm chằm. “Chuyện gì?”
Cậu ấy nắm tay tôi và giơ ra trước mặt, như thể cả hai sắp khiêu vũ cùng nhau. “Bồ đang phát sáng.”
“Ồ,” tôi thở ra. Da của tôi có màu bạc, được bao lấy bởi ánh sao. Tôi thậm chí còn không nhận ra mình đã triệu hồi năng lượng. “Ồ.”
Cậu ấy lướt dọc ngón tay lên phần da trần lộ ra khi tôi vén tay áo lên, dõi theo chuyển động của ánh sáng nơi ấy, môi cong lên mỉm cười. Rồi thốt nhiên, cậu ấy lùi lại. Cậu buông phứt tay tôi như thể nó nóng rẫy.
“Bồ phải chú ý hơn,” Mal nghiêm khắc nhắc nhở. Cậu ra hiệu cho Adrik giúp Tolya đóng lại cửa hầm mộ, rồi nói với cả nhóm. “Đi cạnh nhau và giữ im lặng. Chúng ta phải tìm chỗ trốn trước bình minh.”
Những người khác theo sau Mal, để cậu ấy dẫn trước lần nữa. Tôi nán lại phía sau, tích cực phủi sạch ánh sáng trên da, nó bám vào tôi, như thể toàn thân tôi khao khát nó.
Khi Zoya đến gần tôi, cô ta nói, “Cô biết không, Starkov, tôi bắt đầu nghĩ rằng cô cố ý biến tóc mình thành màu trắng.”
Tôi búng một đốm ánh sao khỏi cổ tay, nhìn nó mờ dần. “Đúng vậy, Zoya, cầu cạnh cái chết là một phần quan trọng trong chế độ thẩm mỹ của tôi.”
Cô ta nhún vai và liếc về phía Mal. “Chà, hơi lộ liễu so với gu của tôi, nhưng tạo hình trinh nữ ánh trăng này có hiệu quả đấy.”
Người cuối cùng tôi muốn nói chuyện về Mal là Zoya, nhưng nghe nó giống như một lời khen vậy. Tôi vẫn nhớ cô ta đã siết chặt tay tôi khi hầm sụp và cô ta đã mạnh mẽ thế nào suốt tai nạn ấy.
“Cảm ơn,” tôi nói. “Vì đã bảo vệ chúng tôi lúc ở dưới hầm. Vì đã giúp cứu Sergei và Stigg.”
Dù tôi chẳng có ý chân thành, nhưng vẻ kinh ngạc trên mặt cô ta thật đáng giá.
“Không có chi,” Zoya đáp lại. Đoạn cô ta hếch chiếc mũi hoàn hảo của mình lên và thêm vào, “Nhưng không phải lúc nào tôi cũng ở bên để cứu mạng cô đâu, Tiết Dương Sư.”
Tôi nhoẻn cười và theo cô ta xuống lối đi giữa mộ. Ít nhất cô ta rất dễ đoán.
Chúng tôi phải mất một lúc lâu mới ra khỏi nghĩa địa. Những dãy mộ cứ kéo dài mãi, như một chứng cứ lạnh lùng về các thế hệ Ravka đã bỏ mạng vì chiến tranh. Lối đi được dọn sạch, những ngôi mộ chất đầy hoa, tượng thánh nhiều màu, kẹo ngọt, vài chồng đạn dược quý giá - những nghĩa cử nhỏ nhặt, kể cả cho người chết. Tôi nghĩ đến những người đàn ông và phụ nữ đã chào tạm biệt cả đoàn ở Giáo Hội Trắng, dúi những lễ vật của họ lên tay chúng tôi. Tôi thấy nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng ra khỏi cổng.
Nỗi khiếp đảm vì hầm sụp và hàng giờ liền đi bộ đã bắt đầu tác động lên chúng tôi, nhưng Mal nhất quyết phải đưa cả bọn đến nơi gần Ryevost nhất trước bình minh. Chúng tôi lê bước về phía trước, đi song song với đường cái, sát với những cánh đồng được chiếu sáng bởi ngàn sao. Thi thoảng, chúng tôi bắt gặp một ngôi nhà lẻ loi, bóng đèn thắp lên ngoài cửa sổ. Không hiểu sao tôi thấy thật an tâm, khi nhìn thấy dấu hiệu của sự sống, khi nghĩ đến một nông dân tỉnh giấc giữa đêm để uống nước, ông thoáng quay đầu về cửa sổ và bóng đêm trải dài.
Trời chỉ bắt đầu mờ sáng khi chúng tôi nghe thấy tiếng người lại gần trên đường. Cả bọn vừa kịp chạy biến vào trong rừng và nấp sau những bụi cây trước khi cỗ xe đầu tiên đi ngang.
Có khoảng mười lăm người trong đoàn hộ vệ, hầu hết là đàn ông, một vài phụ nữ, tất cả đều vũ trang sẵn sàng. Tôi thoáng thấy vài ba đặc điểm của đồng phục Thượng Quân - những chiếc quần kiểu mẫu nhét trong đôi bốt da bò, áo khoác bộ binh thiếu mất dãy cúc bằng đồng thau.
Thật khó để nhận ra họ đang vận chuyển thứ gì. Hàng hóa được che phủ bởi những tấm chăn cho ngựa và cột chặt vào giường xe bằng dây thừng.
“Dân quân?” Tamar thì thầm.
“Có thể,” Mal nói. “Nhưng tôi không chắc một dân quân có thể lấy súng liên châu ở đâu.”
“Nếu là dân buôn lậu thì tôi không biết ai trong số họ cả.”
“Tôi có thể bám theo họ,” Tolya đề nghị.
“Hay để em ra nhảy một điệu valse giữa đường nhé?” Tamar chế giễu. Tolya chẳng bao giờ đi nhẹ nói khẽ được.
“Anh tiến bộ hơn rồi,” Tolya bào chữa. “Và…”
Mal liếc nhìn khiến họ im bặt. “Không theo đuổi, không can hệ.”
Trong lúc Mal dẫn chúng tôi vào sâu trong rừng hơn, Tolya lầm bầm, “Em thậm chí còn chả biết nhảy valse.”
Chúng tôi cắm trại ở khoảng đất trống gần một nhánh nhỏ của Sokol, con sông bắt nguồn từ Petrazoi và là trung tâm thương mại trong phố cảng. Chúng tôi mong mình đã ở đủ xa khỏi thị trấn và đường cái để không cần lo nghĩ về chuyện bị ai đó bắt gặp nữa.
Theo như lời cặp sinh đôi, nơi hẹn gặp của những gã buôn lậu là một quảng trường đông đúc nhìn ra sông ở Ryevost. Tamar đã có sẵn la bàn và bản đồ trong tay. Dù cô ấy cũng kiệt sức như những người còn lại thì vẫn phải rời đi ngay lập tức để đến kịp thị trấn trước buổi trưa.
Tôi ghét phải để cô ấy đi vào một nơi có thể là cái bẫy, nhưng cả bọn đều đồng ý rằng cô ấy là lựa chọn thích hợp. Vóc dáng của Tolya khiến anh ta dễ bị phát giác và không ai trong số chúng tôi biết cách hoạt động của bọn buôn lậu hay làm thế nào để nhận ra họ. Tuy vậy, tôi vẫn có linh cảm không lành. Tôi chưa bao giờ thấu hiểu đức tin của cặp sinh đôi và giới hạn mà họ sẽ mạo hiểm vì nó. Nhưng vào thời khắc chọn lựa giữa tôi và Lão Tư Tế, họ đã chứng tỏ lòng trung của mình một cách kiên định.
Tôi siết vội tay Tamar. “Đừng làm gì mạo hiểm.”
Nadia cứ quanh quẩn bên cạnh từ nãy giờ. Giờ cô ấy hắng giọng và hôn lên hai má Tamar. “Cẩn thận nhé,” cô nói.
Tamar nở nụ cười đậm chất Độc Tâm Y. “Nếu ai đó muốn gây rối,” cô ấy bảo, phất áo khoác ra sau để lộ ra thắt lưng giắt rìu của mình, “thì tôi có hàng mới đây.”
Tôi nhìn sang Nadia. Tôi có cảm giác Tamar đang cố thể hiện.
Cô ấy kéo mũ trùm đầu chạy xuyên qua rừng cây.
“Yuyeh sesh,” Tolya nói với theo bằng tiếng Shu.
“Ni weh sesh” cô ấy ngoái lại hét lên. Rồi cô biến mất.
“Nghĩa là gì vậy?”
“Đấy là một câu mà cha dạy chúng tôi,” Tolya đáp. “Yuyeh sesh: ‘hãy khinh miệt trái tim.’ Nhưng đấy là nghĩa trực dịch. Ý nghĩa thật sự của nó thì giống như ‘làm những gì cần thiết - hãy tàn nhẫn nếu bắt buộc.’”
“Còn câu kia?”
“Ni weh sesh? ‘Tôi không có tim.’”
Mal nhướng mày. “Cha anh chắc vui lắm.”
Tolya nở nụ cười phảng phất vẻ điên loạn khiến anh ta trông giống hệt em gái mình. “Đúng vậy.”
Tôi nhìn về phía Tamar vừa đi. Đâu đó bên kia rừng cây và những cánh đồng bạt ngàn là Ryevost. Tôi gửi đến cô lời nguyện cầu của mình: Hãy đem về tin tức của một hoàng tử, Tamar. Tôi không nghĩ mình có thể gánh vác chuyện này một mình.
Chúng tôi trải đệm xếp và phân chia thức ăn. Adrik và Nadia bắt đầu dựng lều trong khi Tolya và Mal đi trinh sát xung quanh, chọn vị trí canh gác. Tôi nhìn thấy Stigg cố thuyết phục Sergei ăn một chút. Tôi đã mong việc trở lên mặt đất sẽ giúp anh ta bình tĩnh hơn, nhưng dù Sergei trông có vẻ đỡ hốt hoảng, tôi vẫn có thể nhận thấy từng đợt căng thẳng toát ra từ anh ta.
Thật ra, chúng tôi đều bồn chồn. Dù được nằm dưới tán cây và chiêm ngưỡng bầu trời một lần nữa rất thú vị, nhưng đồng thời cũng vô cùng bất an. Cuộc sống ở Giáo Hội Trắng tồi tàn, nhưng dễ dàng. Trên đây, tất cả như vĩ đại hơn, vượt khỏi tầm tay tôi. Dân quân và thuộc hạ của Hắc Y tản mác khắp nơi. Dù có tìm ra Nikolai hay không, chúng tôi cũng đã quay về với chiến tranh, nghĩa là nhiều trận đấu hơn, nhiều người tử nạn hơn. Bất thình lình, thế giới dường như đã rộng lớn trở lại. Tôi không chắc mình có thích nó hay không.
Tôi nhìn về phía trại: Harshaw sớm đã ngủ vùi với Oncat nằm trên ngực; Sergei, nhợt nhạt và cảnh giác; David, lưng tựa vào thân cây, trên tay là một quyển sách trong khi Genya gối đầu lên đùi anh mà ngủ; Nadia và Adrik chật vật với cột chống và vải bạt trong khi Zoya nhìn theo và chẳng buồn giúp đỡ.
Hãy khinh miệt trái tim. Tôi muốn thế. Tôi không muốn tiếc thương thêm nữa, không muốn thấy mất mát hoặc hối lỗi, hoặc lo âu. Tôi muốn mình cứng rắn, mưu toan. Tôi muốn mình can đảm. Bên dưới mặt đất, điều đó có vẻ khả thi. Ở đây, trong khu rừng này, với những con người này, tôi lại không dám chắc.
Một lát sau, có lẽ tôi đã thiếp đi, vì khi tôi tỉnh giấc thì đã xế trưa và mặt trời đương chiếu xiên qua vòm cây. Tolya đứng bên cạnh.
“Tamar về rồi,” anh ta nói.
Tôi ngồi thẳng dậy, tỉnh giấc hoàn toàn. Nhưng vẻ mặt của Tolya trông thật nghiêm trọng.
“Không ai tiếp cận cô ấy sao?”
Anh ta lắc đầu. Tôi thẳng lưng hơn. Tôi không muốn ai nhìn thấy nỗi thất vọng của mình. Tôi nên biết ơn vì Tamar đã an toàn trở về sau chuyến đi vào thành phố.
“Mal biết chưa?”
“Chưa,” Tolya trả lời. “Cậu ta đang ở nhánh sông để đổ đầy nước vào chai. Harshaw và Stigg đang đứng gác. Tôi có nên gọi họ không?”
“Chờ một chút cũng được.”
Tamar đang tựa vào một thân cây, uống nước ừng ực từ cốc thiếc trong lúc mọi người vây xung quanh để nghe cô báo cáo.
“Có rắc rối gì không?” tôi hỏi.
Cô ấy lắc đầu.
“Em có chắc là mình đến đúng chỗ không?” Tolya nói.
“Phía tây của khu chợ quảng trường. Em đến đó sớm, ở lại trễ, thông báo với chủ tiệm, xem một vở kịch rối chết tiệt những bốn lần. Nếu trạm buôn lậu vẫn còn hoạt động thì đã có ai đến bắt chuyện với em rồi.”
“Ngày mai chúng ta có thể quay lại lần nữa,” Adrik đề nghị.
“Để anh đi,” Tolya nói. “Em ở đó cả ngày hôm nay rồi. Nếu em xuất hiện lần nữa, người khác có thể sẽ chú ý.”
Tamar quẹt miệng bằng mu bàn tay. “Nếu em rút dao đâm gã điều khiển rối thì có gây sự chú ý quá không?”
“Nếu cô làm thế trong im lặng thì không,” Nadia đáp lại.
Gò má cô ửng hồng khi chúng tôi quay lại nhìn. Tôi chưa bao giờ nghe Nadia nói đùa hết. Cô ấy toàn làm khán giả cho Marie.
Tamar rút dao găm khỏi cổ tay và xoay nó, giữ cho mũi dao thăng bằng trên một đầu ngón tay. “Tôi có thể im lặng,” cô ấy nói, “và nhân từ. Tôi có thể tha mạng cho lũ rối.” Cô ấy nuốt thêm một ngụm nước. “Tôi cũng nghe được một vài tin. Tin quan trọng. Tây Ravka đã tuyên bố ủng hộ Nikolai.”
Điều này khiến chúng tôi chú ý.
“Họ đang chặn đường bờ biển phía tây của Vực Tối,” cô ấy tiếp tục. “Nên nếu Hắc Y muốn vũ khí hay đạn dược…”
“Hắn ta phải đi qua Fjerda,” Zoya kết câu.
Nhưng sự kiện này còn quan trọng hơn thế. Nó có nghĩa là Hắc Y đã mất đường bờ biển phía Tây Ravka, hải quân của nó, cửa khẩu thông thương vốn dĩ đã nhỏ nhoi của Ravka.
“Bây giờ là Tây Ravka,” Tolya nói. “Có lẽ tiếp theo sẽ là Shu Han.”
“Hoặc Kerch,” Zoya bổ sung.
“Hoặc cả hai!” Adrik reo lên.
Tôi thoáng thấy tia hy vọng len lỏi trong hàng ngũ của cả đoàn.
“Giờ thì sao?” Sergei hỏi, lo lắng kéo tay áo.
“Chờ thêm một ngày nữa vậy,” Nadia đề nghị.
“Tôi không biết nữa,” Tamar nói. “Tôi không ngại quay lại. nhưng hôm nay trong quảng trường có cả oprichniki.”
Không tốt chút nào. oprichniki là cận vệ riêng của Hắc Y. Nếu bọn chúng lảng vảng quanh khu vực, đấy sẽ là lý do thích đáng để chúng tôi lên đường càng nhanh càng tốt.
“Tôi sẽ nói chuyện với Mal,” tôi bảo. “Đừng thư giãn quá. Có thể chúng ta phải chuẩn bị đi tiếp vào sáng hôm sau.”
Những người khác giải tán trong khi Tamar và Nadia đi kiểm tra lại lương khô. Tamar cứ tung hứng và xoay dao mãi - chắc chắn cô ấy đang thể hiện, nhưng Nadia có vẻ không phiền gì.
Tôi lần đường theo tiếng nước chảy, cố sắp xếp lại ý nghĩ. Nếu Tây Ravka ủng hộ Nikolai, đấy là dấu hiệu xác đáng nhất cho thấy gã còn sống mạnh khỏe và đang gây rắc rối cho Hắc Y nhiều hơn bất kì ai trong Giáo Hội Trắng từng nghĩ đến. Một gánh nặng đã được trút bớt, nhưng tôi không chắc mình nên làm gì tiếp theo.
Khi tôi đến nhánh sông, Mal đang khom người xuống chỗ nước nông, cậu đi chân trần và không mặc áo, quần xắn đến đầu gối. Cậu đang nhìn theo làn nước, vẻ mặt chuyên tâm, nhưng khi nghe tiếng tôi lại gần, cậu liền đứng bật dậy, ngay lập tức với lấy súng trường.
“Là mình,” tôi nói, bước ra khỏi lùm cây.
Cậu ấy thả lỏng người, mắt lại hướng về dòng sông. “Bồ làm gì ở đây?”
Giây lát trôi qua, tôi chỉ nhìn cậu ấy. Cậu đứng yên lặng, rồi bất ngờ, tay cậu bổ nhào xuống nước và lôi lên một con cá đang giãy giụa. Cậu ấy quăng nó trở về. Chẳng việc gì phải giữ lại khi chúng tôi không dám mạo hiểm đốt lửa để nướng cá.
Tôi từng thấy cậu ấy bắt cá kiểu này ở Keramzin, kể cả vào mùa đông, khi ao Trivka đông cứng. Cậu ấy biết phá băng ở đâu, buông dây chỗ nào hoặc lúc nào nên bắt cá. Tôi chờ ở trên bờ, chỉ ở cạnh cậu như thế, cố tìm xem những nơi chim làm tổ trên cây.
Tất cả giờ đã khác, lòng sông phản chiếu những vân sáng lên từng nét trên mặt cậu, trên cơ bắp săn chắc bên dưới làn da. Tôi nhận ra mình đang nhìn chăm chú và cố trấn tĩnh lại. Tôi đã từng thấy cậu ở trần trước đây. Chẳng việc gì phải ngây ngốc ra cả.
“Tamar về rồi,” tôi nói.
Cậu ấy đứng dậy, hứng thú về lũ cá biến mất. “Và?”
“Không thấy người của Nikolai đâu cả.”
Mal thở dài và đưa tay vò đầu. “Chết tiệt.”
“Tụi mình có thể chờ thêm ngày nữa,” tôi đề nghị, dù tôi biết trước cậu ấy sẽ nói gì.
“Bọn mình phí thời gian đủ rồi. Mình không biết phải mất bao lâu để đi về phía Nam hoặc để tìm Hỏa Điểu. Tệ nhất là chúng ta bị kẹt lại trên núi khi tuyết rơi. Và mình phải tìm một chỗ ẩn náu cho mấy người trong đoàn.”
“Tamar nói Tây Ravka đã tuyên bố ủng hộ Nikolai. Nếu đưa họ đến đó thì sao?”
Cậu ấy cân nhắc. “Đấy là một quãng đường dài, Alina. Sẽ mất rất nhiều thời gian.”
“Mình biết, nhưng nó an toàn hơn bất kì đâu ở phía này của Vực Tối. Và đấy là một cơ hội khác để tìm ra Nikolai.”
“Có thể đi về phía Nam ở hướng ấy sẽ ít nguy hiểm hơn.” Cậu ấy gật đầu. “Được rồi. Chúng ta phải bảo mọi người chuẩn bị. Mình muốn rời đi ngay tối nay.”
“Tối nay?”
“Không việc gì phải chờ thêm.” Cậu ấy lội khỏi mặt nước, mười ngón chân bấu chặt trên đá.
Cậu ấy không hề bảo “giải tán”, nhưng hành động cũng chẳng khác biệt gì. Giữa chúng tôi còn gì để nói nữa đâu?
Tôi bắt đầu hướng về khu trại, rồi sực nhớ mình vẫn chưa nói cho cậu ấy về bọn oprichinki. Tôi trở lại nhánh sông. “Mal…,” tôi dợm nói, nhưng ngôn từ như giãy chết trên môi.
Cậu ấy đang cúi xuống để nhặt bình nước. Lưng cậu ấy quay về phía tôi.
“Cái gì thế?” tôi tức giận gặng hỏi.
Cậu ấy quay phắt lại, nhưng đã quá trễ. Cậu ấy bèn mở miệng.
Trước khi cậu kịp nói một lời nào, tôi đã gắt lên, “Nếu bồ bảo là ‘không có gì’, mình sẽ đập bồ tơi tả đấy.”
Cậu ấy ngậm miệng lại.
“Quay lại,” tôi ra lệnh.
Cậu ấy đứng yên một chốc. Rồi cậu thở dài và quay lưng.
Một hình xăm trải dài trên tấm lưng rộng vững chãi - trông như biểu đồ trên la bàn, nhưng giống với mặt trời hơn, những mũi nhọn vươn khắp hai bên vai và kéo dài dọc xương sống.
“Tại sao?” Tôi hỏi. “Sao bồ lại làm thế?”
Cậu ấy nhún vai và những thớ cơ cong lên dưới họa tiết rối rắm.
“Mal, sao bồ lại làm đau bản thân bằng cách này?”
“Mình có rất nhiều sẹo,” cuối cùng cậu ấy lên tiếng. “Đây là vết sẹo mà mình chọn.”
Tôi nhìn kỹ hơn. Lồng vào hình vẽ là những chữ cái. E’ya sta rezku. Tôi cau mày. Hình như đây là chữ Ravka cổ.
“Câu này nghĩa là gì?”
Cậu ấy không trả lời.
“Mal…”
“Xấu hổ lắm.”
Và quả nhiên, tôi có thể thấy vệt ửng hồng đang lan dần xuống cổ cậu.
“Nói cho mình biết đi.”
Cậu ấy do dự, rồi hắng giọng và lẩm bẩm, “Ta sẽ thành lưỡi gươm.”
Ta sẽ thành lưỡi gươm. Có đúng là vậy không? Người con trai được đoàn Grisha theo sau không chút phản đối, người vẫn giữ giọng bình tĩnh khi trái đất đổ sụp quanh chúng tôi, người đã nói rằng tôi sẽ thành nữ hoàng? Tôi không chắc mình còn nhận ra cậu hay không.
Tôi lướt đầu ngón tay trên từng con chữ. Cậu ấy cứng người. Da cậu vẫn còn ẩm nước từ sông.
“Cũng không đến nỗi,” tôi bảo. “Ý mình là, nếu nó mang nghĩa đại loại như ‘Ôm nhau đi’ hay ‘Ta sẽ thành bánh pudding gừng’ thì mới xấu hổ.”
Cậu ấy để thoát ra tràng cười đầy ngạc nhiên, rồi rít lên khi tôi vuốt tay dọc sống lưng. Hai tay cậu ấy siết lại thành nắm đấm. Tôi biết mình nên rời đi, nhưng tôi không muốn.
“Ai xăm cho bồ?”
“Tolya,” cậu khàn giọng.
“Có đau không?”
“Đỡ hơn tớ nghĩ.”
Tôi vươn tới điểm xa nhất của hình họa mặt trời, rờ phần xương cụt. Tôi khựng lại, rồi lê ngón lên trên, cậu ấy giật nảy người, và chộp lấy tay tôi thật chặt.
“Đừng,” cậu quyết liệt nói.
“Mình…”
“Mình không thể làm được. Không thể nếu bồ làm mình cười, nếu bồ chạm vào mình như thế.”
“Mal…”
Bất thình lình, cậu ấy hất đầu và đặt tay lên môi.
“Giơ tay lên.” Tiếng nói phát ra từ trong bóng râm. Mal lao đến chỗ súng trường và vác nó lên vai trong tích tắc nhưng ba người khác đã bước ra khỏi rừng cây - hai đàn ông và một phụ nữ tóc búi - họng súng của họ chĩa về phía chúng tôi. Tôi chợt phát hiện họ chính là những người trong đoàn hộ tống mình bắt gặp trên đường.
“Bỏ súng xuống,” gã đàn ông với chòm râu dê nói “Trừ khi mày muốn cô gái của mình phải ăn kẹo đồng.”
Mal đặt súng trở lại lên đá.
“Lại đây,” gã nói. “Từ từ thôi.” Gã mặc áo choàng Thượng Quân, nhưng gã không giống những chiến binh tôi từng thấy. Tóc gã dài thượt và bù xù, tết thành hai đuôi sam tả để tránh che phủ mắt. Gã đeo một băng đạn ngang người và mặc áo ghi-lê bẩn thỉu có lẽ từng mang sắc đỏ nhưng giờ đã nhạt dần thành tông màu lẫn giữa tím và nâu.
“Tôi cần mang giày bốt,” Mal nói.
“Không có giày mày càng khó chạy trốn hơn.”
“Ông muốn gì?”
“Mày có thể bắt đầu bằng cách trả lời,” gã đàn ông bảo. “Thị trấn ngay bên cạnh, nhiều chỗ thoải mái hơn để nghỉ chân. Vậy thì một đám người trốn trong rừng làm gì?” Hẳn gã đã thấy phản ứng của tôi, vì sau đó gã tiếp, “Đúng vậy. Tao đã tìm ra chỗ cắm trại của tụi mày. Tụi mày là lính đào ngũ à?”
“Đúng,” Mal tự nhiên nói. “Ở ngoài Kerskii.”
Gã đàn ông gãi má. “Kerskii? Có thể,” gã nói. “Nhưng…” Gã bước lên phía trước. “Oretsev?”
Mal sững người, rồi bảo, “Lunchenko?”
“Quỷ thần ơi, ta chưa gặp lại nhau từ hồi tao huấn luyện cho đơn vị của mày ở Poliznaya.” Gã quay sang tên còn lại. “Thằng lỏi này là người dò đường giỏi nhất trong cả mười trung đoàn. Tao chưa gặp được ai như nó.” Gã nhăn răng cười, nhưng không hạ súng xuống. “Và giờ, mày là tên đào ngũ nổi tiếng nhất ở Ravka.”
“Chỉ cố giữ lấy mạng thôi.”
“Cả tao và mày đều thế, người anh em.” Gã đưa tay về phía tôi. “Đây đâu phải loại mày thường thích.”
Nếu tôi không bị súng chĩa vào mặt, chắc bình luận đó đã thành sự xúc phạm.
“Thêm một hạng lính quèn Thượng Quân như chúng ta.”
“Như chúng ta hử?” Luchenko thọc mạnh súng vào tôi. “Cởi khăn quàng ra.”
“Trời hơi lạnh,” tôi nói.
Luchenko lại thọc thêm cái nữa. “Mau lên, cô gái.”
Tôi liếc nhìn Mal. Tôi có thể thấy cậu ấy đang cân nhắc lựa chọn. Chúng tôi đang ở một khoảng cách gần. Tôi có thể gây ra chấn thương nghiêm trọng với Vết Cắt, nhưng vẫn kịp cho bọn dân quân nổ vài phát súng trước đó. Tôi có thể làm mù mắt chúng, nhưng nếu chúng tôi xả súng vào nhau, chuyện gì sẽ xảy ra cho những người ở trại.
Tôi nhún vai và kéo khăn thật mạnh khỏi cổ. Luchenko khẽ huýt sáo.
“Nghe đồn bạn đồng hành của mày rất cao quý, Oretsev. Có vẻ như chúng ta bắt được một vị Thánh rồi.” gã hất đầu sang bên. “Tao tưởng nó phải cao hơn cơ. Trói cả hai bọn chúng.”
Một lần nữa, tôi nhìn về phía Mal. Cậu ấy muốn tôi hành động, tôi cảm nhận được điều đó. Miễn hai tay không bị trói, tôi có thể triệu hồi và điều khiển ánh sáng. Nhưng những Grisha khác thì sao?
Tôi giơ tay ra và để người phụ nữ cột chặt cổ tay bằng dây thừng.
Mal thở dài và làm theo. “Ít nhất phải để tôi mặc áo chứ?” cậu hỏi.
“Không,” ả nói cùng ánh nhìn lả lơi. “Ta thích hình ảnh này.”
Luchenko cười lớn. “Đời thật thú vị, phải không?” Gã ra vẻ triết lý trong lúc thúc súng đưa chúng tôi vào rừng. “Tất cả những gì tao muốn là chút vận may để khá khẩm. Giờ tao lại sắp đổi đời. Hắc Y sẽ trút hết kho bạc để tao đưa bọn mày đến tận cửa.”
“Ngươi sẽ giao nộp ta dễ dàng thế sao?” Tôi hỏi. “Ngu ngốc.”
“Bị súng chĩa sau lưng mà ăn to nói lớn quá nhỉ.”
“Chỉ là mối làm ăn tốt thôi,” tôi nói. “Ngươi nghĩ nước Fjerda hay Shu Han sẽ không trả chút tiền còm - có khi là cả một gia tài - để nắm trong tay Tiết Dương Sư sao? Ngươi có bao nhiêu thuộc hạ?”
Luchenko ngoái ra sau vai và lắc lắc ngón tay trước mặt tôi như một thầy giáo. Chà, cũng đáng để thử đấy chứ.
“Ý ta là,” tôi ngây thơ nói tiếp, “ngươi có thể bán ta cho người nào trả giá cao nhất rồi giữ thuộc hạ của mình béo tốt và hạnh phúc suốt đời.”
“Tôi thích cách nghĩ của cô ta,” ả phụ nữ tóc búi nhận xét.
“Đừng quá tham lam, Ekaterina,” Luchenko cản. “Chúng ta không phải đại sứ hay nhà ngoại giao. Tiền thưởng cho cái đầu của cô ta sẽ mua lại tất cả lối đi xuyên biên giới. Có thể ta sẽ bắt tàu đến Djerholm. Hoặc có thể ta sẽ ngủ với những cô ả tóc vàng đến hết đời.”
Hình ảnh khó nuốt về việc Luchenko nhảy nhót cùng mấy cô gái Fjerda có thân hình hấp dẫn bị đẩy lùi khỏi tâm trí tôi khi cả bọn bước vào bãi đất trống. Nhóm Grisha đã bị dồn lại ở chính giữa, vây quanh là một vòng tròn khoảng ba mươi gã dân quân mang vũ trang. Tolya đang mất máu khá nặng vì một cú đánh có vẻ rất mạnh trên đầu. Harshaw vốn đang đứng gác, vì nhìn thôi cũng biết anh ta đã bị bắn. Da hắn tái nhợt, hai chân lảo đảo, ôm lấy vết thương bên hông và thở dốc trong khi Oncat ngao lên.
“Thấy không? Luchenko nói. “Với của trời cho này, tao không cần lo về người trả giá cao nhất nữa.”
Tôi bước đến trước mặt gã, hạ thấp giọng nhất có thể. “Để họ đi,” tôi nói. “Nếu ngươi giao nộp họ cho Hắc Y, họ sẽ bị tra tấn.”
“Và?”
Tôi cố nuốt xuống cơn thịnh nộ đang chạy dọc khắp người. Đe dọa sẽ chẳng đi tới đâu. “Tù nhân sống sót sẽ có giá trị hơn một xác chết,” tôi nhẹ nhàng giải thích, “ít nhất xin ngươi cởi trói để ta chữa thương cho bạn mình.” Và giết chết đám dân quân của ngươi bằng một cú hất tay.
Ekaterina nheo mắt. “Đừng làm thế,” ả nói. “Bảo một tên sát nhân trong nhóm của cô chăm sóc hắn ta đi.” Ả thọc mạnh vào lưng tôi và đẩy cả hai đứng vào hàng cùng những người khác.
“Thấy chiếc vòng cổ đó không?” Luchenko hỏi đám đông. “Chúng ta đã có Tiết Dương Sư!”
Tiếng reo hò và hú hét phát ra từ đám dân quân còn lại. “Nên hãy nghĩ xem các người sẽ tiêu tiền của Hắc Y thế nào đi.”
Bọn họ hoan hô.
“Sao ngài không đòi Nikolai Lantsov bỏ tiền chuộc cô ta?” Một binh sĩ ở đâu đó phía sau vòng tròn đề nghị.
Giờ khi đang đứng giữa bãi đất trống, tôi nhận ra hình như họ có nhiều người hơn.
“Lantsov?” Luchenko nói. “Nếu hắn có não thì đã về vui thú điền viên ở nơi nào ấm áp, với một cô nàng xinh đẹp phủ phục dưới chân rồi. Ấy là nếu hắn còn sống.”
“Hắn còn sống,” người nào đó nói.
Luchenko nhổ nước bọt. “Chẳng liên quan tới tao.”
“Và đất nước của ngươi?” Tôi hỏi.
“Đất nước này đã làm gì cho tao hở, cô bé? Không nhà cửa, cuộc sống, chỉ một bộ quân phục và súng trường. Tao chẳng cần biết người ngồi trên ngai vàng là Hắc Y hay gã Lantsov vô dụng nào cả.”
“Tôi từng thấy hoàng tử lúc ở Os Alta,” Ekaterina nói. “Anh ta nhìn không tệ đâu.”
“Nhìn không tệ?” một giọng khác vang lên. “Anh ta đẹp trai chết được.”
Luchenko đổ quạu. “Từ lúc nào…”
“Dũng cảm trong chiến đấu, lại thông tuệ vô cùng.” Giờ thì giọng nói dường như đến từ phía trên. Luchenko ngửa đầu, ngước nhìn qua tán cây. “Một vũ công điệu nghệ,” giọng nói tiếp tục. “Ồ, còn là tay thiện xạ tài ba nữa.”
“Ai-” Luchenko không kịp nói dứt câu. Tiếng nổ vang lên, và một lỗ đen nhỏ xuất hiện giữa hai mắt gã.
Tôi há hốc miệng. “Không thể nào…”
“Đừng nói,” Mal lẩm bẩm.
Rồi hỗn loạn bùng phát.