Chương 6
Tiếng súng vỡ òa ra xung quanh, và Mal xô tôi ngã. Tôi nằm sấp trên mặt đất giữa rừng và nhận ra cậu ấy đang dùng thân mình che lấy tôi.
“Nằm xuống!” cậu ấy hét.
Tôi ngoẹo đầu sang bên và thấy đoàn Grisha đang hợp thành vòng tròn quanh chúng tôi. Harshaw nằm xuống, nhưng Stigg cầm đá lửa trên tay, và từng đợt lửa bắn xuyên không khí. Tamar và Tolya đã lao vào trận. Zoya, Nadia và Adrik giơ tay lên, và lá bay theo gió lơ lửng trên đất, nhưng thật khó nhận ra ai bạn ai thù giữa đám đông vũ trang ấy.
Đột nhiên có tiếng thịch vang lên kế bên khi ai đó nhảy xuống từ ngọn cây. “Hai người ở trần và chân không đi giữa bùn làm gì vậy?” chất giọng quen thuộc cất lên. “Ta mong là đang hái nấm, đúng không?”
Nikolai chém đứt dây thừng trên tay chúng tôi và kéo tôi đứng dậy. “Lần tới ta sẽ thử bị bắt giữ. Để mọi chuyện thú vị hơn thôi mà.” Gã ném cho Mal khẩu súng trường. “Bắt đầu chứ?”
“Tôi không biết ai là ai hết!” tôi phản đối.
“Phe ta là bên ít người đến đáng thương ấy.”
Phiền nỗi, tôi không nghĩ gã đang đùa. Khi đội quân di chuyển và tôi bắt đầu hoàn hồn, việc nhận diện người của Nikolai qua băng đeo tay màu xanh của họ đã dễ hơn. Họ cắt đứt hàng ngũ dân quân của Luchenko, nhưng dù mất đi thủ lĩnh, kẻ thù vẫn không chút nao núng.
Tôi nghe một tiếng thét. Người của Nikolai xông lên, dẫn độ nhóm Grisha ở trước họ. Chúng tôi đang bị lùa đi.
“Chuyện gì đang xảy ra thế?” tôi hỏi.
“Đây là lúc chúng ta chạy trốn,” Nikolai thản nhiên đáp, nhưng tôi có thể thấy vẻ căng thẳng trên khuôn mặt lấm lem của gã.
Chúng tôi băng xuyên rừng, cố đuổi kịp trong khi Nikolai chạy xoẹt qua đám cây. Tôi không biết cả bọn đang đi đâu. Đến chỗ nhánh sông? Đường lớn? Tôi đã mất phương hướng hoàn toàn.
Tôi nhìn ra sau, điểm danh những người còn lại, chắc chắn không để ai thất lạc. Hai Tiết Khí Sư đang triệu hồi năng lượng, đẩy ngã cây để chặn đứng bọn dân quân. Stigg theo sau họ, phóng ra từng đợt lửa. David đã lấy lại hành lí của mình bằng cách nào đó và lảo đảo bên dưới sức nặng của nó khi chạy ngay bên cạnh Genya.
“Để nó lại đi!” tôi hét, nhưng nếu anh ta có nghe thấy thì cũng tảng lờ.
Tolya vác Harshaw trên vai, và trọng lượng của gã Tiết Hỏa Sư to con đang làm anh ta giảm tốc độ. Một tên lính đang tiến lại gần, hắn rút kiếm ra. Tamar nhảy lên một cái rương rơi trên đất, ngắm bắn, và bóp cò. Giây lát sau, gã dân quân đã ôm ngực và ngã xuống giữa đường. Oncat chạy ngang qua xác hắn, bám sát gót chân Tolya.
“Sergei đâu rồi?” Tôi hét, ngay sau khi thoáng thấy anh ta tụt lại đằng sau, biểu cảm ngơ ngác. Tamar lùi lại, lách khỏi làn đạn và cây đổ, và thô bạo kéo anh ta chạy theo. Tôi không thể nghe được cô ấy đang la ó gì, ráo riết chạy băng qua bùn lầy cho đến khi Nikolai hét to, “Ở đây!”
Chúng tôi dừng ngay lại, đất bắn lên tung tóe. Ở đây là sao? Cả bọn đang ở giữa đồng vắng với không gì hơn ngoài sương mù làm chỗ trú, và một đám dân quân hung hăng đòi nợ máu và tiền thưởng đang truy đuổi sát sao.
Tôi nghe hai tiếng huýt sáo the thé vang lên. Mặt đất rung chuyển bên dưới.
“Bám chặt vào!” Nikolai nói.
“Vào đâu?” tôi thảng thốt.
Và rồi chúng tôi bay lên. Những sợi dây neo giật ngược về vị trí bên cạnh chúng tôi và cả cánh đồng như được nhấc bổng. Tôi ngước lên - sương mù tan dần, và một cỗ máy khổng lồ lơ lửng ngay trên đầu, khoang chở hàng mở toang. Trông nó như một con tàu rỗng, một đầu gắn đầy buồm và được treo ngay phía dưới một túi khí lớn hình thuôn.
“Cái quái gì thế?” Mal nói.
“Tàu Bồ Nông,” Nikolai đáp. “À, mẫu thử nghiệm của tàu Bồ Nông. Mánh khóe ở đây là làm sao để túi khí không sụp xuống.”
“Và anh đã xử lý được rắc rối nhỏ ấy chưa?”
“Phần lớn là rồi.”
Đất đá bên dưới rơi xuống, và tôi thấy mình đang đứng trên một cái bục lắc lư đan bằng lưới kim loại. Chúng tôi bay cao hơn - mười, rồi mười lăm feet so với mặt đất. Một viên đạn bắn vào lớp kim loại.
Chúng tôi dồn vào một góc trên bục, siết chặt dây neo trong lúc cố ngắm bắn đám đông đang xả súng về phía mình.
“Đi thôi!” tôi hét lên. “Sao chúng ta không mau rời khỏi đây hả?”
Nikolai và Mal liếc nhìn nhau.
“Chúng đã biết bọn ta có Thần Mặt Trời,” Nikolai nói. Mal gật đầu, vô lấy một khẩu súng ngắn, rồi huých vội vào Tolya và Tamar.
“Bồ đang làm gì vậy?” tôi hỏi, thốt nhiên thấy hoảng sợ.
“Chúng ta không thể để ai sống sót,” Mal giải thích. Rồi cậu ấy lao khỏi vị trí. Tôi hét lên, nhưng cậu ấy đã lăn một vòng tròn rồi nhổm dậy nổ súng.
Tolya và Tamar theo sau, xuyên qua hàng ngũ dân quân còn sót lại trong khi Nikolai và thuyền viên cố cung cấp chỗ trú ẩn từ trên cao. Tôi nhìn thấy một tên lính thoát ra và chạy về phía rừng. Tolya bắn một phát súng ngay lưng hắn ta, và trước khi nạn nhân kịp chạm đất, gã khổng lồ đã quay lại, tay siết thành nắm đấm khi bóp nát trái tim của một binh sĩ mang dao đang lù lù phía sau.
Tamar xông thẳng vào Ekaterina. Đôi rìu vung lên hai lần, và ả dân quân ngã xuống, búi tóc xõa xượi bên cạnh thân hình bất động, vẫn còn dính vào một mảng da đầu. Một tên khác giơ súng nhắm vào Tamar, nhưng Mal đã tóm lấy hắn, tàn nhẫn dùng dao cứa đứt cổ. Ta sẽ thành lưỡi gươm. Và rồi không còn ai, chỉ xác người la liệt giữa đồng.
“Mau lên!” Nikolai gọi khi tàu bay cao hơn. Gã quăng dây neo xuống. Mal giậm chân xuống đất, giữ dây kéo căng để Tamar và Tolya có thể trèo lên. Ngay khi cặp sinh đôi lên tới bục, Mal quấn dây vào mắt cá chân và cổ tay và họ cúi xuống kéo cậu lên.
Đấy là lúc tôi nhìn thấy chuyển động phía sau cậu. Một tên lính đứng dậy khỏi mặt đất, người phủ đầy bùn và máu, kiếm giơ ra trước mặt.
“Mal!” tôi thét lên. Nhưng đã quá trễ, chân tay cậu giờ đang kẹt trong dây.
Hắn rống lên một tiếng và vung tay. Mal vô lực giơ một tay chống đỡ.
Ánh sáng lóe lên từ lưỡi kiếm của tên lính. Tay hắn dừng giữa chừng, kiếm vuột khỏi đầu ngón tay. Rồi thân thể hắn đứt lìa, bổ đôi ngay chính giữa như có ai đã vẽ một đường hoàn hảo từ đỉnh đầu xuống giữa chân, một đường thẳng lóe sáng khi hắn ngã xuống thành từng mảnh.
Mal ngước lên. Tôi đứng trong góc, tay vẫn phát quang trước năng lượng của Vết Cắt. Tôi chao đảo. Nikolai kéo tôi lại trước khi tôi ngã khỏi tàu. Tôi hất tay gã ra, chạy về phía xa nhất của bục và nôn xuống phía bên kia.
Tôi bấu víu lấy lớp kim loại mát lạnh, cảm thấy bản thân thật hèn nhát. Mal và cặp sinh đôi đã xông pha chiến trận để bảo đảm rằng Hắc Y không phát hiện ra nơi ở của chúng tôi. Họ đã không do dự. Họ giết người bằng sự tàn độc hiệu quả. Tôi chỉ giết một mạng, và tôi đã cuộn người như đứa trẻ, chùi vết nôn trên môi.
Stigg gọi lửa quét qua những xác người trên đồng. Tôi đã không nghĩ đến tên lính bị chẻ đôi kia sẽ để lộ tung tích của tôi như bất cứ con buôn tin tức nào sẽ làm.
Một lát sau, bục sắt được kéo vào khoang chở hàng, và chúng tôi lên đường. Khi chúng tôi bước lên boong tàu, mặt trời đang chiếu rọi trên mạn trái trong lúc cả đoàn leo lên mây. Nikolai hét to mệnh lệnh. Một nhóm Tiết Khí Sư cung cấp khí cho bong bóng hình thoi khổng lồ, trong khi một nhóm khác dùng sức gió đẩy buồm. Tiết Hải Sư dùng sương mù che lấp đáy tàu để tránh ai đó bên dưới nhìn thấy chúng tôi. Tôi nhận ra một vài Grisha giang hồ từ thời Nikolai còn giả dạng Sturmhond và Mal lẫn tôi đã bị bắt làm tù binh trên tàu của gã.
Con tàu này lớn hơn và kém thanh nhã hơn so với tàu Chim Ruồi và Chim Bói Cá. Tôi sớm biết được rằng nó dùng để vận chuyển hàng hóa - vũ khí từ Zemeni và Nikolai đang buôn lậu qua hai biên giới bắc nam và thi thoảng qua cả Vực Tối. Tàu không được xây từ gỗ mà từ một vật liệu nhẹ cân được Sáng Chế Gia tạo thành khiến David rơi vào tình trạng kích động. Anh ta nằm hẳn lên sàn tàu để nhìn rõ hơn, gõ hết chỗ này đến chỗ kia. “Đây là một loại nhựa cây pha chế, nhưng được gia cố thêm bằng… sợi cacbon?”
“Thủy tinh,” Nikolai đáp, trông hết sức vui lòng bởi sự hào hứng của David.
“Mềm dẻo hơn!” David reo lên trong phấn chấn tột cùng.
“Tôi có thể nói gì đây?” Genya khô khan cất tiếng. “Anh ấy là một người nhiệt huyết.”
Sự hiện diện của Genya khiến tôi có chút lo lắng, nhưng Nikolai chưa bao giờ thấy khuôn mặt đầy sẹo của cô ấy, và dường như gã không nhận ra cô.
Tôi truyền tin cho Nadia, thì thầm vài lời nhắn nhủ tới đoàn Grisha của mình về việc không gọi tên thật của cô.
Một thuyền viên đưa cho tôi một ly nước sạch để súc miệng cùng rửa tay và mặt. Tôi nhận lấy, hai má đỏ bừng, xấu hổ vì cảnh tượng vừa rồi ở trên bục.
Khi xong việc, tôi chống tay lên hàng rào và nhìn khung cảnh bên dưới qua lớp sương mù - Những cánh đồng tưng bừng hai sắc đỏ vàng vào mùa thu, ánh sáng xanh xám lấp lánh của thành phố ven sông và bến cảng tấp nập của chúng. Sức mạnh của Nikolai điên rồ đến nỗi khiến tôi quên khuấy về việc mình đang bay. Tôi đã ở trên những con tàu nhỏ hơn của gã, và tôi bảo đảm mình thích cảm giác của Bồ Nông hơn. Nó toát ra vẻ oai nghiêm. Nó có thể không đưa tôi đến nơi nhanh chóng, nhưng nó sẽ không bị lật bất tử.
Từ ngàn dặm dưới lòng đất đến ngàn dặm tít trên không. Tôi gần như không thể tin được tất cả chuyện này, rằng Nikolai đã tìm thấy chúng tôi, rằng gã vẫn an toàn, rằng mọi người đều có mặt. Nỗi nhẹ nhõm như tràn khắp người, khiến mắt tôi ngập nước.
“Trước nôn, sau khóc,” Nikolai lên tiếng, đến đứng cạnh tôi. “Đừng nói là ta lụt nghề rồi chứ.”
“Tôi chỉ mừng vì anh vẫn còn sống,” tôi nói, vội vã chớp mắt. “Dù tôi chắc rằng anh sẽ làm tôi mất hứng ngay.”
“Ta cũng mừng khi được gặp lại cô. Nghe đồn cô đã chuyển xuống lòng đất, nhưng bảo cô hoàn toàn biến mất thì đúng hơn.”
“Cảm giác ấy giống như bị chôn sống thật.”
“Những người còn lại vẫn ở đó à?”
“Chỉ thế này thôi.”
“Ý cô không phải…”
“Đây là tất cả tàn dư của Hạ Quân. Hắc Y có Grisha của hắn, và anh cũng vậy, nhưng…” tôi bỏ dở câu.
Nikolai quan sát boong tàu. Mal và Tolya đang trò chuyện say sưa với một thuyền viên, giúp anh ta cột dây và giăng buồm. Ai đó đã tìm áo khoác cho Mal, nhưng cậu ấy vẫn thiếu một đôi bốt. David đang sờ soạng khắp sàn như thể anh muốn chìm luôn trong nó. Những người khác họp lại thành từng nhóm nhỏ: Genya túm tụm với Nadia và người Etherealki còn lại. Stigg bị kẹt với Sergei, người cúi gằm mặt trên tàu, hai tay vùi lên mặt. Tamar đang chữa thương cho Harshaw trong lúc Oncat bấu vào chân cô và xù lông. Con mèo tam thể ấy rõ ràng không thích bay.
“Tất cả tàn dư,” Nikolai lặp lại.
“Một Thiện Tâm Y quyết định ở lại dưới lòng đất.” Sau một phút im lặng, tôi hỏi. “Làm sao anh tìm được chúng tôi?”
“Ta không hề, thật đấy. Đám quân dân vốn đang theo dõi đường dây buôn lậu của ta. Bọn ta không thể mất thêm một đợt vận chuyển nữa, nên ta đã bám theo Luchenko. Rồi ta thấy Tamar ở quảng trường, và khi chúng ta nhận ra doanh trại chúng đang tiến đánh là của cô, ta đã nghĩ sao không giải cứu cô gái…”
“Và mấy khẩu súng?”
Gã nhăn răng cười. “Chính xác.”
“Cảm ơn trời vì chúng tôi đã tiên đoán trước để bị bắt.”
“Suy nghĩ rất nhanh nhạy. Ta tuyên dương cô.”
“Đức vua và hoàng hậu thế nào?”
Gã khịt mũi và đáp, “Họ khỏe. Chán nản. Có quá ít việc cho họ làm.” Gã chỉnh lại tay áo. “Họ quá đau buồn vì cái chết của Vasily.”
“Tôi rất tiếc,” tôi nói. Thật sự, tôi chả hề quan tâm đến anh trai của Nikolai.
“Do anh ấy tự chuốc lấy thôi, nhưng ta ngạc nhiên khi nói rằng ta cũng rất tiếc.”
“Tôi cần biết… anh có cứu Baghra không?”
“Bằng rất nhiều công sức và một chút lòng biết ơn. Đáng ra cô nên báo trước với ta về bà ấy.”
“Bà ấy thú vị lắm, đúng không?”
“Như bệnh dịch hoành hành.” Gã vươn tay và kéo một lọn tóc trắng của tôi. “Vẻ ngoài táo bạo thật.”
Tôi lúng túng vén tóc ra sau tai. “Thời trang dưới lòng đất đấy.”
“Thế à?”
“Xảy ra giữa trận chiến. Tôi mong nó sẽ sớm hồi phục, nhưng có vẻ như nó sẽ thế này vĩnh viễn.”
“Anh họ Ludovic của ta tỉnh dậy với một lọn tóc trắng trên đầu sau khi suýt chết trong một trận hỏa hoạn. Anh ta bảo cánh phụ nữ khen nó nhìn rất bảnh. Dĩ nhiên, anh ta cũng tuyên bố nguyên nhân vụ cháy là do ma quỷ, nên ai biết được.”
“Tội nghiệp anh họ Ludovic.”
Nikolai tựa vào hàng rào và quan sát bong bóng bay phía trên. Ban đầu, tôi cứ tưởng nó bằng vải, nhưng giờ tôi nghĩ nó có thể là lụa phủ cao su. “Alina…,” gã bắt đầu. Tôi hiếm khi thấy gã bối rối nên phải một lúc sau tôi mới nhận ra gã đang ấp úng. “Alina, cái đêm cung điện bị tấn công, ta đã quay trở lại.”
Đấy là nỗi lo của gã ư? Lo tôi nghĩ rằng gã bỏ rơi mình? “Tôi chưa bao giờ nghi ngờ chuyện đó. Anh đã thấy gì?”
“Lúc ta bay đến thì mặt đất đã tối đen. Có vài nơi phát hỏa. Ta nhìn thấy chiếc đĩa của David vỡ tan tành trên trần nhà và bãi cỏ của Tiểu Điện. Nhà thờ đã sụp đổ. Nichevo’ya nhung nhúc khắp nơi. Ta cứ ngỡ cả bọn sẽ gặp rắc rối, nhưng chúng không thèm nhìn đến Chim Bói Cá lần thứ hai.”
Chúng sẽ không thế, một khi chủ nhân của mình đang bị mắc kẹt và hấp hối dưới đống đổ nát.
“Ta đã mong lấy được xác của Vasily bằng cách nào đó,” gã nói. “Nhưng không thể. Khắp nơi đều bị tàn phá. Chuyện gì đã xảy ra?”
“Bầy nichevo’ya tấn công Tiểu Điện. Lúc tôi đến kịp, một chiếc đĩa đã vỡ nát.” Tôi bấu tay vào song sắt trên tàu, cào một vết xước nhỏ hình bán nguyệt. “Chúng tôi không có cơ hội nào cả.” Tôi không muốn nghĩ đến đại sảnh đầy máu, những xác người rải rác trên trần, dưới sàn, ở cầu thang - những chất chồng vỡ vụn màu xanh, đỏ và tím.
“Còn Hắc Y?”
“Tôi đã cố giết hắn.”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Bằng cách tự sát.”
“Ra thế.”
“Tôi đánh sập nhà thờ,” tôi nói.
“Cô…”
“Chậc, thật ra là lũ nichevo’ya, theo mệnh lệnh của tôi.”
“Cô có thể sai khiến chúng?”
Chưa gì tôi đã thấy gã toan tính về lợi thế khả dĩ. Vẫn luôn là một nhà chiến lược.
“Đừng hào hứng quá,” tôi bảo. “Tôi phải tạo ra bầy nichevo’ya của riêng mình để làm thế. Và tôi phải trực tiếp chạm vào Hắc Y.”
“Ồ,” gã rầu rĩ đáp. “Nhưng một khi cô tìm ra Hỏa Điểu?”
“Tôi không chắc lắm,” tôi thú nhận, “nhưng…” tôi ngần ngại. Tôi chưa bao giờ nói ra suy nghĩ này. Nó được xem là dị giáo trong cộng đồng Grisha. Dẫu vậy, tôi vẫn muốn nói, muốn cho Nikolai nghe. Tôi mong gã hiểu được nguy hiểm mà nó đem lại, dù có khi gã sẽ chẳng hiểu được ham muốn đang thúc đẩy tôi. “Tôi nghĩ mình có thể xây dựng quân đội riêng.”
“Chiến binh ánh sáng?”
“Ý tưởng là vậy.”
Nikolai đang quan sát tôi. Tôi có thể nhận ra gã đang thận trọng lựa lời. “Cô từng nói với ta rằng merzost không giống với thuật Điều Nhiên, rằng cái giá phải trả của nó rất đắt.” Tôi gật đầu. “Đắt đến đâu, Alina?”
Tôi nghĩ đến xác người con gái bị đè nghiến dưới đĩa thủy tinh, kính bảo hộ lệch sang bên, đến thân thể đứt lìa của Marie trong tay Sergei, đến Genya giấu mặt trong khăn choàng. Tôi nghĩ đến những bức tường nhà thờ, như những mẩu giấy da đẫm máu, chi chít tên người chết. Nhưng dẫn lối cho tôi không phải cơn thịnh nộ vì chính nghĩa, mà là khát khao tìm Hỏa Điểu - âm ỉ, nhưng luôn bùng cháy.
“Không quan trọng,” tôi kiên quyết khẳng định. “Tôi sẽ trả nó.”
Nikolai cân nhắc một chút, rồi nói, “Được rồi.”
“Thế thôi ư? Không ngôn ngữ hiền triết? Không cảnh báo khốc liệt?”
“Quỷ thần ơi, Alina. Ta mong cô không định bắt ta làm người cung cấp lý lẽ. Ta hạn chế hết mức những sự hăng hái cả tin và nuối tiếc chân thành.” Gã ngừng lại, nụ cười nhạt dần. “Nhưng ta thành thật xin lỗi vì những chiến binh đã mất của cô, cũng như đêm đó đã không giúp được nhiều hơn.”
Ở bên dưới, tôi có thể thấy điểm đầu màu trắng của tầng đất đóng băng và, phía bên kia, bóng những ngọn núi lấp ló đằng xa. “Anh có thể làm gì chứ, Nikolai? Biết đâu anh đã bị giết. Giờ vẫn có nguy cơ.” Tuy cay nghiệt, nhưng đấy là sự thật. So với đội quân bóng tối của Hắc Y - tất cả mọi người - bất kể mưu trí hay tháo vát thế nào - đều gần như bất lực.
“Chưa chắc đâu,” Nikolai nói. “Dạo này ta bận rộn lắm. Có khi ta vẫn còn vài ngạc nhiên dành cho Hắc Y.”
“Làm ơn đừng nói với tôi anh sẽ hóa tranh thành một con volcra rồi nhảy khỏi bánh kem đấy nhé.”
“Hừ, giờ thì cô làm hư bột hư đường hết rồi.” Gã nhổm dậy khỏi lan can. “Ta phải lái chúng ta qua biên giới.”
“Biên giới?”
“Chúng ta đang tiến vào Fjerda.”
“Ồ, tuyệt. Lãnh thổ kẻ thù. Và tôi chỉ vừa mới thư giãn.”
“Đây là vùng trời của ta,” Nikolai nháy mắt và nói. Rồi gã băng ngang boong tàu, huýt điệu nhạc lạc tông quen thuộc.
Tôi nhớ gã. Cách gã nói. Cách gã tiếp cận vấn đề. Cách gã đem hy vọng theo mình đến mọi nơi. Lần đầu tiên trong mấy tháng vừa qua, tôi cảm thấy khúc mắc trong lòng mình được tháo bỏ.
Sau khi băng qua biên giới, tôi nghĩ con tàu sẽ hướng về bờ biển hoặc thậm chí là Tây Ravka, nhưng chẳng mấy chốc chúng tôi đã trở buồm về phía dãy núi tôi vừa thấy. Từ những ngày còn là người vẽ bản đồ, tôi biết chúng là đỉnh cực bắc của Sikurzoi, dãy núi chạy dọc phần lớn biên giới phía đông và nam của Ravka. Người Fjerda gọi chúng là Elbjen, Khuỷu Tay, dù khi đến gần hơn, chúng tôi vẫn không rõ lý do. Chúng là những địa hình khổng lồ phủ tuyết, toàn băng trắng và đá xám. Chúng khiến Pertrazoi nhìn như một thực thể tí hon. Nếu đấy là khuỷu tay thì tôi không muốn biết chúng gắn liền với cái gì.
Chúng tôi trèo lên cao hơn. Không khí trở nên lạnh lẽo trong lúc cả bọn trôi dạt vào đám mây dày đặc che phủ đỉnh núi dốc nhất. Khi tàu trồi lên trên, tôi thở dốc đầy ngạc nhiên. Ở đây, một vài đỉnh núi đủ cao để đâm xuyên áng mây, lơ lửng tựa những quần đảo giữa biển trắng. Đỉnh cao nhất trông như bị bao lấy bởi mấy ngón tay sương giá khổng lồ, và khi bay vòng quanh nó, tôi nghĩ mình đã nhìn thấy vài bóng hình trong băng. Một cầu thang hẹp bằng đá dẫn lối ngoằn ngoèo ra vách núi. Tên điên nào lại làm thế? Và bởi lý do gì?
Chúng tôi đi vòng ngọn núi, ngày càng đến gần tường đá hơn. Ngay khi tôi định hoảng hốt kêu lên, chúng tôi đã quẹo gấp sang bên phải. Bất thình lình, con tàu bay vào giữa hai bức tường băng. Tàu Bồ Nông tiến vào một cái hang đá dội tiếng vang.
Quả thật Nikolai đã rất bận rộn. Chúng tôi xúm lại cạnh lan can, há hốc nhìn hoạt động hối hả xung quanh. Ba con tàu khác neo lại trong hang: Một tàu chở hàng như tàu Bồ Nông, tàu Chim Ruồi bóng bẩy, và một tàu lớn tương tự với cái tên Chim Diệc.
“Nó là một loại Vạc,” Mal nói, xỏ chân vào một đôi bốt đi mượn. “Chúng nhỏ hơn. Rất tinh quái.” Cũng như tàu Chim Ruồi, Chim Diệc có hai thân, dù đế phẳng và rộng hơn, được trang bị với thứ gì trông như xe trượt tuyết.
Thuyền viên của Nikolai ném dây thép qua lan can tàu Bồ Nông, và nhân công chạy tới trước để bắt lấy chúng, kéo căng dây và cột vào móc thép trên tường và sàn hang. Chúng tôi đỗ bến với một tiếng thình và tiếng kêu đinh tai của thân tàu chà xát trên đá.
David cau mày phản đối. “Quá nặng.”
“Đừng nhìn tôi,” Tolya nói.
Ngay khi tàu dừng lại, Tolya và Tamar nhảy vọt qua lan can, nhanh chóng chào hỏi những thủy thủ và nhân công trên tàu Volkvolny lúc trước mà họ nhận ra. Chúng tôi ở lại chờ lối đi hạ xuống, rồi lê bước rời khỏi tàu.
“Ấn tượng thật,” Mal nói.
Tôi lắc đầu ngạc nhiên. “Gã làm thế bằng cách nào nhỉ?”
“Muốn biết bí mật của ta không?” Nikolai cất tiếng từ phía sau. Chúng tôi cùng nhảy dựng. Gã ghét sát vào, nhìn từ trái sang phải rồi thì thầm thật lớn, “Ta có rất nhiều tiền.”
Tôi đảo mắt.
“Không, thật đấy,” gã chống chế. “Rất nhiều tiền.”
Nikolai ra lệnh sửa chữa cho những cửu vạn đang đứng chờ rồi dẫn nhóm người tả tơi, mắt trố bọn tôi đến một ô cửa trong đá.
“Mọi người vào đi,” gã nói. Một cách bối rối, chúng tôi ùa vào trong một căn phòng nhỏ hình chữ nhật. Bức tường nhìn như được làm bằng đá. Nikolai đóng cổng phía bên kia lối vào.
“Cô giẫm lên chân tôi,” Zoya cáu kỉnh than phiền, nhưng chúng tôi ép chặt vào nhau đến nỗi chẳng biết cô ta đang nói ai.
“Cái gì thế?” Tôi hỏi.
Nikolai thả đòn bẩy, và chúng tôi đồng loạt hét lên khi căn phòng phóng vọt lên cao, dạ dày tôi cũng theo đó bay vút.
Chúng tôi khựng đứng lại. Ruột tôi rớt lại xuống chân, và cánh cổng bật mở. Nikolai bước ra, gập người cười to. “Ta chưa bao giờ chán trò này.”
Chúng tôi nhào ra khỏi hộp kín càng nhanh càng tốt - Tất cả ngoại trừ David, người nán lại để sờ nắn cơ chế của đòn bẩy.
“Cẩn thận đấy,” Nikolai gọi. “Đi xuống xốc nảy hơn đi lên nhiều.”
Genya nắm lấy tay David và kéo anh ta ra ngoài.
“Trời ạ,” tôi rủa. “Tôi quên mất mình từng muốn đâm anh đến mức nào.”
“Thế là ta vẫn chưa lụt nghề.” Gã liếc sang Genya và khẽ hỏi, “Chuyện gì xảy ra với cô ta vậy?”
“Chuyện dài lắm,” Tôi đánh trống lảng. “Làm ơn nói với tôi rằng ở đây có cầu thang. Tôi thà xây nhà ngay chỗ này mãi mãi còn hơn quay lại cái thứ kia.”
“Dĩ nhiên là có cầu thang, nhưng chúng không thú vị bằng. Và khi cô đã lê xác lên xuống bốn tầng lầu, cô sẽ thấy bản thân cởi mở hơn.”
Tôi định phản bác, nhưng khi nhìn kỹ xung quanh, lời nói liền tắt nghẹn nơi đầu lưỡi. Nếu hang chứa tàu đã kỳ vĩ, thì đây đơn giản là phép màu.
Nó là căn phòng lớn nhất tôi từng biết - gấp đôi, có lẽ gấp ba chiều dài lẫn chiều cao của đại sảnh mái vòm trong Tiểu Điện. Nó thậm chí còn không phải một căn phòng, tôi chợt nhận ra. Chúng tôi đang đứng trên đỉnh của một ngọn núi rỗng ruột.
Giờ tôi đã hiểu những gì mình đã thấy khi đến gần tàu Bồ Nông. Những ngón tay sương giá thật ra là dãy cột bằng đồng được đúc thành hình người và vật.
Chúng sừng sững ngay phía trên chúng tôi, ôm lấy những khung cửa kính khổng lồ nhìn ra đại dương mây phía dưới. Kính trong đến mức tạo nên một không gian rộng mở đến đáng sợ, như thể gió sẽ thổi qua và đẩy tôi rơi xuống ngút ngàn thinh không. Tim tôi bắt đầu đập mạnh.
“Hít thở sâu vào,” Nikolai nói. “Đúng là hơi dồn dập nhiều thứ quá.”
Căn phòng đầy người. Nhiều người họp lại thành nhóm ở bàn vẽ kỹ thuật cùng một vài linh kiện máy móc. Số khác đang đánh dấu thùng đồ dự trữ ở trong nhà kho tạm thời. Một khu vực khác được tách riêng để tập luyện; binh sĩ đấu tập với nhau bằng kiếm cùn trong khi những người còn lại triệu hồi gió của Tiết Khí Sư hay phun lửa của Tiết Hỏa Sư.
Qua lớp kính, tôi nhìn thấy sân thượng đâm ra bốn phía, những nhánh gai dài như mũi tên la bàn - Đông, Tây, Nam, Bắc. Hai phía dùng để tập bắn. Tôi khó tránh khỏi so sánh nó với hang động ẩm ướt, tù túng của Giáo Hội Trắng. Mọi thứ ở đây đều thấm đẫm sự sống và hy vọng. Chúng mang dấu ấn của Nikolai.
“Nơi này là gì?” Tôi hỏi trong lúc chúng tôi chậm rãi tham quan.
“Ban đầu nó là trại hành hương, từ lúc biên giới của Ravka vẫn còn kéo dài xa hơn ở phía Bắc,” Nikolai đáp. “Tu viện Thánh Demyan.”
Thánh Deyman Sương Gió. Ít nhất đó là lời giải thích cho cầu thang xoắn ốc mà chúng tôi vừa bắt gặp. Chỉ có đức tin hoặc nỗi sợ mới khiến người ta leo lên đấy. Tôi còn nhớ trang sách về Demyan trong cuốn Istorii Sankt’ya. Ông đã thực hiện một phép màu gần biên giới phía bắc. Tôi nhớ chắc rằng ông đã bị ném đá tới chết.
“Mấy trăm năm trước, nó bị chuyển thành đài thiên văn,” Nikolai tiếp lời. Gã chỉ về phía kính viễn vọng bằng đồng nặng trịch được chèn vào trong một hốc kính. “Nơi đây đã bỏ hoang hơn một thế kỷ. Ta nghe về nó trong chiến dịch Halmhend, nhưng phải tốn chút công tìm kiếm. Giờ chúng ta chỉ gọi nó là Guồng Quay Tơ.”
Rồi nhận thức ập đến với tôi: Dãy cột bằng đồng là những chòm sao - chòm Lạp Hộ với cánh cung giương cao, chòm Học Giả cúi người nghiên cứu, chòm Nam Tam Giác co cụm vào nhau, cố sẻ chia nhau một tấm áo. Chòm Thủ Quỹ, chòm Đại Hùng, chòm Du Mục. Nàng Trinh Nữ thoăn thoắt mũi kim bằng xương. Mười hai vị trí: Nan hoa của Guồng Quay.
Tôi phải ngửa cổ hết mức để nhìn bao quát hết mái vòm bằng kính ở phía trên. Mặt trời đang lặn và xuyên qua nó, tôi có thể thấy bầu trời chuyển sang sắc xanh thấm đẫm. Nếu nheo mắt, tôi có thể thấy rõ ngôi sao mười hai cánh ở giữa vòm.
“Nhiều kính quá,” tôi thì thầm, tâm trí quay cuồng.
“Nhưng không có sương mù,” Mal nhận xét.
“Ống sưởi,” David nói. “Chúng ở dưới sàn. Có thể được đóng vào trong cột nữa.”
Căn phòng này đỡ lạnh hơn, tôi vẫn phải mặc nguyên áo hoặc nón, nhưng chân tôi ấm sực trong giày bốt.
“Bên dưới chúng ta là nồi đun,” Nikolai giải thích. “Toàn bộ chỗ này chạy bằng tuyết tan và hơi nóng. Vấn đề là nhiên liệu, nhưng ta đã trữ sẵn than đá.”
“Trong bao lâu?
“Hai năm. Chúng ta bắt đầu sửa chữa khi ta cải tổ những hang động thấp hơn thành nơi để tàu. Nó không phải nơi nghỉ mát lý tưởng, nhưng đôi khi cô chỉ muốn đi xa.”
Tôi ngạc nhiên, nhưng cũng nao núng. Bên cạnh Nikolai lúc nào cũng thế, dõi theo gã di dời và thay đổi, hé lộ vài bí mật dọc đường. Gã làm tôi nhớ đến những con búp bê gỗ lồng vào nhau mình từng chơi cùng hồi nhỏ. Chỉ khác là thay vì nhỏ dần đi, gã lại ngày càng lớn mạnh và bí ẩn. Ngày mai, có khi gã sẽ bảo tôi rằng gã đã xây một cung điện ăn chơi trên mặt trăng. Khó xây dựng, nhưng cảnh đẹp mê hồn.
“Tham quan một vòng đi,” Nikolai nói với chúng tôi. “Cảm nhận nơi này. Nevsky đang dỡ hàng trong hang, và ta cần bảo trì thân tàu.” Tôi nhớ Nevsky. Anh ta từng là binh sĩ trong trung đoàn cũ của Nikolai, trung đoàn Hai Mươi Hai, và không thích Grisha cho lắm.
“Tôi muốn gặp Baghra,” tôi nói.
“Cô chắc chứ?”
“Không hẳn.”
“Ta sẽ đưa cô đến gặp bà ấy. Xem như bài thực hành phòng khi ta phải đưa ai đến giá treo cổ. Và sau khi cô lãnh nhận hình phạt xong rồi, cô và Oretsev có thể ăn tối cùng ta.”
“Cảm ơn,” Mal nói, “nhưng tôi phải chuẩn bị đồ nghề cho chuyến đi tìm Hỏa Điểu.”
Đã từng một thời, cách đây không lâu, Mal sẽ xù lông nhím trước ý nghĩ để tôi một mình với Hoàng Tử Hoàn Hảo, nhưng Nikolai đủ khôn khéo để không tỏ ra ngạc nhiên. “Dĩ nhiên. Ta sẽ gửi Nevsky đến chỗ cậu khi anh ta xong việc. Anh ta có thể giúp cậu sắp xếp chỗ ở nữa.” Gã vỗ vai Mal. “Thật tốt khi thấy cậu, Ortsev.”
Nụ cười đáp lại của Mal rất chân thành. “Anh cũng vậy. Cảm ơn vì đã cứu chúng tôi.”
“Ai cũng cần một sở thích mà.”
“Tôi tưởng sở thích của anh là thể hiện bản thân.”
“Hai sở thích vậy.”
Họ siết tay nhau trong chóng vánh, rồi Mal cúi đầu và rời đi cùng nhóm.
“Ta có nên thấy xúc phạm vì cậu ta không muốn ăn tối cùng ta không?” Nikolai hỏi. “Ta bày biện bàn ăn vô cùng đẹp mắt, và ta hiếm khi nhỏ dãi.”
Tôi không muốn thảo luận chuyện này. “Baghra,” tôi giục.
“Cậu ta rất đáng nể lúc ở ngoài đồng lúa mạch,” Nikolai tiếp tục, nắm khuỷu tay tôi để đẩy tôi về trước. “Dùng gươm và súng thành thạo hơn trước giờ ta từng thấy.”
Tôi nhớ đến lời Lão Tư Tế từng nói: Những người đàn ông chiến đấu cho Ravka vì Đức vua ra lệnh. Mal đã luôn là một người dò đường tài năng, nhưng cậu ấy cũng là binh sĩ vì tất cả chúng tôi đều là binh sĩ, vì chúng tôi không có sự lựa chọn. Giờ cậu đang chiến đấu vì điều gì? Tôi nghĩ đến cảnh cậu lao khỏi bục mắt lưới, dao găm xoẹt qua cổ họng của gã dân quân. Ta sẽ thành lưỡi gươm.
Tôi nhún vai, mau mắn đổi chủ đề. “Dưới lòng đất chẳng có gì làm ngoài luyện tập cả.”
“Ta có thể nghĩ ra vài thứ thú vị để làm cho qua giờ đấy”
“Anh muốn bóng gió gì hả?”
“Đầu óc cô bậy bạ thiệt. Ý ta là bày trò xếp hình hay nghiên cứu văn bản giáo dục.”
“Tôi không quay trở lại cái hộp sắt ấy đâu,” tôi nói trong lúc cả hai đến gần cánh cửa trong đá. “Nên tốt hơn là anh nên đưa tôi đến cầu thang.”
“Sao ai cũng nói thế nhỉ?”
Tôi thở phào nhẹ nhõm khi chúng tôi bước xuống những bậc thang bằng đá thênh thang và cực kỳ vững chãi. Nikolai dắt tôi xuyên qua một lối đi ngoằn ngoèo, và tôi cởi áo khoác ra, bắt đầu đổ mồ hôi. Tầng nhà ngay bên dưới đài thiên văn có chút ấm hơn, và khi lướt qua một ô cửa rộng lớn, tôi bắt gặp một mê cung gồm những nồi nước bốc khói đương rực lửa và sôi sục trong bóng tối. Đến cả khuôn mặt lịch lãm của Nikolai luôn-bóng-bẩy còn bị phủ lấp bởi một lớp mồ hôi.
Chắc chắn chúng tôi đang đến gần hang ổ của Baghra. Dường như bà ấy không bao giờ thấy ấm. Tôi tự hỏi không biết có phải vì bà hiếm khi sử dụng năng lực hay không. Phần tôi có lẽ sẽ không bao giờ giũ bỏ được giá lạnh ở Giáo Hội Trắng.
Nikolai dừng trước một cánh cửa sắt. “Cơ hội trốn chạy cuối cùng.”
“Tới đi,” tôi nói. “Hãy tự cứu lấy mình.”
Gã thở dài. “Hãy nhớ về ta như một người hùng.” Gã gõ nhẹ lên cửa, rồi cả hai bước vào.
Tôi chưng hửng tưởng như mình vừa bước vào căn nhà đá của Baghra ở Tiểu Điện. Bà ấy ngồi đó, khom lưng bên bên bếp lò, mặc cùng một bộ kefta bạc màu, tay bà đặt trên cây gậy mà bà đã thích thú dùng để đánh tôi. Vẫn cậu người hầu cũ đang đọc sách cho bà, và nỗi hổ thẹn vỡ òa trong tôi khi nhận ra mình thậm chí còn không để tâm hỏi thăm xem thằng bé có thoát khỏi Os Alta không. Nó ngừng lại khi Nikolai hắng giọng.
“Baghra,” Nikolai nói, “Tối nay bà thế nào?”
“Vẫn già cỗi và mù lòa,” bà càu nhàu.
“Và duyên dáng,” Nikolai dài giọng. “Đừng bao giờ quên nét duyên dáng ấy”
“Nhãi ranh.”
“Mụ già.”
“Ngươi muốn gì, đồ sâu bọ?”
“Tôi đưa khách đến thăm bà đây,” Nikolai nói, đẩy tôi về phía trước.
Sao tôi lại căng thẳng đến vậy?
“Chào bà, Baghra,” tôi lúng búng.
Bà ấy khựng lại, bất động. “Vị Thánh bé nhỏ,” bà lẩm bẩm, “đã quay về để cứu rỗi tất cả chúng ta.”
“Ờ, cô ấy thật sự đã suýt chết khi cố tiêu diệt thằng con quỷ ám của bà,” Nikolai nói bâng quơ. Tôi chớp mắt. Ra Nikolai biết Baghra là mẹ của Hắc Y.
“Cô còn chẳng thể tử vì đạo đúng cách, phải không?” Baghra vẫy tay gọi tôi. “Vào đây và đóng cửa lại, cô gái. Cô đang để hơi nóng thoát ra ngoài đấy.” Tôi nhăn răng cười trước điệp khúc quen thuộc này. “Còn ngươi,” bà nạt Nikolai. “Đến chỗ nào mình được chào đón đi.”
“Chỗ nào cũng thế mà,” gã nói. “Alina, ta sẽ quay lại đón cô đi ăn tối, nhưng nếu thấy không ổn, cô cứ vô tư la hét rồi bỏ chạy khỏi đây hoặc lấy dao đâm bà ấy. Cách nào phù hợp với hoàn cảnh nhất.”
“Ngươi vẫn còn đấy à?” Baghra gắt lên.
“Tôi đi ngay, nhưng tôi mong mình còn mãi trong trái tim bà,” gã nói một cách nghiêm trang. Rồi gã nháy mắt và biến mất.
“Thằng nhóc thảm hại.”
“Bà thích anh ta,” tôi ngỡ ngàng nhận xét.
Baghra cau có. “Tham lam. Ngạo mạn. Liều mạng quá trớn.”
“Nghe cứ như bà đang lo ấy.”
“Cô cũng thích nó đấy thôi, thánh nữ bé bỏng,” bà nói với vẻ bỡn cợt trong giọng nói.
“Đúng thế,” tôi thú thật. “Anh ta tử tế dù đã có thể tàn nhẫn. Rất mới mẻ.”
“Nó cười quá nhiều.”
“Vẫn có những điểm tệ hơn.”
“Như cãi lại người lớn hơn?” bà làu bàu. Rồi bà gõ gậy lên sàn. “Nhóc con, đi lấy cho ta cái gì ngọt ngọt.”
Thằng bé giúp việc nhảy khỏi ghế và đặt sách xuống.
Tôi nắm lấy thằng bé khi nó chạy ngang qua tôi để mở cửa. “Chờ một chút,” tôi nói. “Tên em là gì?”
“Misha,” nó đáp. Tóc nó thật sự cần được cắt tỉa, nhưng ngoài ra trông vẫn ổn.
“Em mấy tuổi rồi?”
Tám.
“Bảy,” Baghra gắt.
“Gần tám tuổi,” nó chữa lại.
Thân hình của nó nhỏ hơn so với tuổi. “Em có nhớ chị không?”
Nó vươn tay với vẻ e dè và chạm vào mảnh sừng trên cổ tôi, rồi gật đầu nghiêm nghị. “Sankta Alina,” nó thở hắt. Mẹ của nó đã dạy nó rằng tôi là một Thánh nữ, và rõ ràng sự khinh miệt của Baghra vẫn chưa khiến nó ghét tôi. “Chị có biết mẹ em ở đâu không?” thằng bé hỏi.
“Chị không biết. Chị xin lỗi.” Nó thậm chí còn chẳng ngạc nhiên. Có lẽ đấy là câu trả lời nó đã đoán trước.
“Em thấy ở đây thế nào?”
Mắt nó hướng về Baghra, rồi quay lại với tôi.
“Không sao đâu,” tôi động viên. “Em cứ nói thật.”
“Không có ai để chơi cùng hết.”
Tim tôi nhói lên, nhớ đến những tháng ngày cô đơn ở Keramzin trước khi Mal đến, những trẻ mồ côi lớn hơn không chút hứng thú với một con bé tị nạn ốm o. “Điều đó sẽ thay đổi sớm thôi. Cho đến khi ấy thì, em có muốn học chiến đấu không?”
“Người hầu không được phép đánh nhau,” nó trả lời, nhưng tôi có thể thấy nó thích ý tưởng đó.
“Chị là Tiết Dương Sư, và em được chị cho phép.”
Tôi lờ đi cái khịt mũi của Baghra. “Nếu em đến tìm Malyen Oretsev, anh ấy sẽ tìm cho em một thanh kiếm tập nhé.”
Trước khi tôi kịp chớp mắt, thằng bé đã lao vút khỏi căn phòng, hai chân thoăn thoắt vì hào hứng.
Chờ nó đi rồi, tôi bèn hỏi, “Mẹ của thằng bé?”
“Một hầu gái trong Tiểu Điện.” Baghra tém khăn sát vào người hơn. “Có thể cô ta vẫn còn sống. Không sao biết được.”
“Nó phản ứng thế nào?”
“Cô nghĩ sao? Nikolai phải lôi thằng nhóc đang gào khóc lên con tàu đáng nguyền rủa ấy. Dù có lẽ đấy chỉ là linh cảm. Ít nhất giờ nó đã bớt khóc hơn.”
Trong lúc chuyển chỗ cuốn sách để đến ngồi cạnh bà, tôi liếc sơ qua cái tựa. Truyện ngụ ngôn tôn giáo. Thằng bé tội nghiệp. Rồi tôi hướng sự chú ý về phía Baghra. Bà mập hơn chút đỉnh, ngồi thẳng hơn trên ghế. Việc rời khỏi Tiểu Điện rất có ích cho bà, dù chỉ để ẩn nấp trong một hang động nóng bức khác.
“Trông bà khỏe lắm.”
“Ta chẳng biết,” bà chua chát nói. “Những lời cô nói với Misha là thật chứ? Cô định sẽ đem học sinh đến đây sao?” Những đứa trẻ từ trường Grisha ở Os Alta đã được sơ tán đến Keramzin, cùng với giáo viên của chúng và Botkin, thầy dạy cận chiến cũ của tôi. Tôi cứ băn khoăn mãi về sự an toàn của chúng hàng tháng trời, và vị thế của tôi bây giờ đã có thể thực hiện điều gì đó.
“Nếu Nikolai đồng ý cho chúng ở Guồng Quay Tơ, bà sẽ xem xét việc dạy dỗ chúng chứ?”
“Hừm,” bà ấy cau mặt nói. “Ai đó phải làm thôi. Ai biết chúng đã học những thứ rác rưởi gì với đám ô hợp đấy chứ.”
Tôi mỉm cười. Quả nhiên có tiến triển. Nhưng nụ cười của tôi biến mất khi Baghra lấy gậy gõ lên đầu gối tôi. “ối!” tôi la oai oái. Bà ấy ngắm mục tiêu chính xác vô cùng.
“Đưa tay cho ta.”
“Tôi không sở hữu Hỏa Điểu.”
Bà giơ gậy lên lần nữa, nhưng tôi rụt người né tránh. “Được rồi, được rồi.” Tôi nắm tay bà và đặt nó lên cổ tay trống trơn của tôi. Trong lúc bà lần mò đến gần khuỷu tay của tôi, tôi hỏi, “Sao Nikolai biết bà là mẹ của Hắc Y?”
“Nó hỏi ta. Nó còn tinh tường hơn lũ ngốc bọn cô.” Hẳn bà rất hài lòng khi biết tôi không giấu giếm bộ khuếch đại thứ ba vì bà buông tay tôi cùng mấy tiếng càu nhàu.
“Và bà cứ thế nói cho anh ta?”
Baghra thở dài. “Đấy là những bí mật của con trai ta,” bà kiệt quệ đáp lời. “Ta không có nghĩa vụ phải che giấu chúng lâu thêm nữa.” Rồi bà ngả người ra sau. “Vậy là cô lại thất bại trong việc giết nó.”
“Vâng.”
“Ta không thể nói rằng mình rất tiếc được. Rốt cuộc, ta còn yếu đuối hơn cô, cô nhỏ ạ.”
Tôi chần chừ, rồi buột miệng, “Tôi đã dùng merzost”
Đôi mắt u tối của bà bật mở. “Cô dùng cái gì?.”
“Tôi… tôi không tự mình làm thế. Tôi sử dụng kết nối giữa chúng tôi, kết nối được tạo ra bởi chiếc vòng cổ, để kiểm soát sức mạnh của Hắc Y. Tôi đã tạo ra nichevoʼya?”
Tay Baghra quờ quạng tìm đến tay tôi. Bà siết cổ tay tôi đau điếng. “Cô không được làm thế, cô gái. Cô không được đùa bỡn với năng lực này. Đây là thứ đã kiến tạo Vực Tối. Nó sẽ chỉ sinh ra lầm than.”
“Tôi có thể sẽ chẳng còn lựa chọn, Baghra. Chúng tôi biết tung tích của Hỏa Điểu, hoặc ít nhất là chúng tôi nghĩ thế. Một khi tìm được nó…”
“Cô sẽ lại hiến tế một tạo vật cổ xưa để chiếm đoạt năng lượng cho chính mình.”
“Có lẽ không.” Tôi yếu ớt chống đối. “Tôi đã nhân từ với con hươu đực. Có lẽ Hỏa Điểu sẽ không phải chết.”
“Nghe cô nói kìa. Đây không phải truyện kể cho trẻ nít. Con hươu đực phải chết để cô lấy được sức mạnh của nó. Hỏa Điểu cũng không khác gì, và lần này máu của nó sẽ đổ trên tay cô.” Rồi bà cười thành tiếng, trầm thấp và u buồn. “Ý nghĩ ấy không khiến cô muộn phiền như đáng ra phải thế, đúng không, cô gái?”
“Phải,” tôi thừa nhận.
“Cô không quan tâm mình sẽ đánh mất những gì sao? Những thiệt hại cô có thể gây nên?”
“Tôi có,” tôi rầu rĩ nói. “Tôi có quan tâm. Nhưng tôi không còn lựa chọn, và dù không thế…”
Bà buông tay tôi. “Thì cô vẫn sẽ tìm nó.”
“Tôi không phủ nhận. Tôi muốn có Hỏa Điểu. Tôi muốn tập hợp sức mạnh của những bộ khuếch đại. Nhưng điều đấy không thay đổi được sự thật rằng không đội quân người thường nào có thể chống lại binh đoàn bóng tối của Hắc Y.”
“Lấy độc trị độc.”
Nếu đấy là cái giá phải trả. Đã có quá nhiều mất mát, tôi không thể quay lưng với bất kì vũ khí gì có thể giúp mình đủ mạnh để thắng được cuộc chiến này. Dù được Baghra giúp đỡ hay không, tôi vẫn phải tìm ra cách vận dụng merzost.
Tôi ngần ngừ. “Baghra, tôi đã đọc những ghi chép của Morozova.”
“Giờ cô mới đọc sao? Cô thấy chúng khuyến khích được cô chứ?”
“Không, tôi thấy chúng thật đáng ghét.”
Ngạc nhiên thay, bà ấy lại bật cười. “Con trai ta nghiền ngẫm chúng như thể đấy là sách thánh. Nó hẳn đã đọc qua hàng ngàn lần, suy xét từng con chữ. Nó còn nghĩ rằng có mật thư được giấu trong sách. Nó hơ giấy trên lửa để tìm vết mực vô hình. Cuối cùng, nó nguyền rủa cái tên Morozova.”
Giống như tôi. Chỉ nỗi ám ảnh của David còn mãi. Nó đã suýt giết chết anh hôm nay khi cứ khăng khăng kéo lê đống sách ấy theo.
Tôi ghét phải hỏi điều này, ghét cả việc phát biểu khả năng này thành lời, nhưng tôi buộc mình làm thế. “Có… có khi nào Morozova đã bỏ dở quá trình đó không? Có khi nào ông ta chưa bao giờ tạo ra bộ khuếch đại thứ ba không?”
Trong một chốc, bà ấy im lặng, biểu cảm xa xăm, ánh nhìn mù lòa chăm chú vào một thứ tôi không thể thấy. “Morozova không bao giờ bỏ dở việc đó,” bà khẽ khàng nói. “Đấy không phải cung cách của ông ta.”
Có gì đấy trong câu nói của bà khiến lông tay tôi dựng đứng cả lên. Một mảng ký ức tìm về với tôi: Baghra đặt tay lên chiếc vòng cổ của tôi ở Tiểu Điện. Ta thật muốn nhìn thấy sừng của nó.
“Baghra…”
Một giọng nói vang lên từ phía cửa: “Moi soverenyi.” Tôi ngước nhìn Mal, bực bội vì bị chen ngang.
“Có chuyện gì?” tôi hỏi, nhận ra vẻ gắt gỏng trong giọng nói mỗi khi dính đến Hỏa Điểu.
“Có vấn đề với Genya,” cậu nói. “Và Đức vua.”