Chương 8
Sergei rời đi ngay đêm đó trên tàu Cò Quăm, tàu chở hàng buộc phải đi vào phục vụ trong lúc tàu Bồ Nông được sửa chữa. Nikolai đã sắp xếp cho anh ta chỗ ở tại một trạm dừng yên tĩnh gần Duva - nơi anh ta có thể hồi phục tinh thần và giúp đỡ phần nào cho những người buôn lậu ghé ngang qua. Gã thậm chí còn đề nghị cho Sergei chờ và trú ẩn ở Tây Ravka, nhưng Sergei chỉ nôn nóng muốn rời đi.
Sáng hôm sau, Nikolai và tôi đến gặp Mal và cặp sinh đôi để bàn về hậu cần cho những người theo tìm kiếm Hỏa Điểu ở miền nam Sikurzoi. Những Grisha còn lại không biết vị trí của bộ khuếch đại thứ ba, và chúng tôi định sẽ giữ kín bí mật lâu nhất có thể.
Nikolai đã dành ra hai đêm nghiên cứu ghi chép của Morozova, và gã cũng lo lắng như tôi, tin rằng có vài cuốn thất lạc hoặc ở trong tay Hắc Y. Gã muốn tôi gây sức ép với Baghra, nhưng tôi phải cẩn thận xem nên đề cập vấn đề thế nào. Nếu tôi chọc giận bà, chúng tôi sẽ không có thông tin mới và bà sẽ ngưng dạy tôi.
“Những cuốn sách không chỉ dở dang,” Nikolai nói. “Có ai thấy Morozova có vẻ là một kẻ… hơi gàn dở không?”
“Nếu ý anh gàn dở nghĩa là điên loạn thì, đúng rồi đấy,” tôi thú thực. “Tôi mong rằng ông ta quẫn trí nhưng cũng vẫn đúng đắn.”
Nikolai ngắm nghía bản đồ ghim trên tường. “Và đây vẫn là đầu mối duy nhất?” Gã đánh dấu một thung lũng mờ nhạt trên biên giới phía Nam. “Đấy là một mảnh đất đặt trên hai dãy đá mỏng manh.”
Thung lũng chưa đánh dấu là Dva Stolba, nơi có khu dân cư mà Mal và tôi đã ra đời, và được đặt tên dựa trên tàn tích sừng sững trước cổng nam - hai tháp hình chóp thuôn dài bị xói mòn mà ai đó cho rằng đấy là những gì còn sót lại của hai cối xay gió. Nhưng bọn tôi tin chúng thật sự là tàn tích của một khối vòng cung cổ xưa, một biển chỉ đường cho Hỏa Điểu, bộ khuếch đại cuối cùng của Morozova.
“Có một mỏ đồng bỏ hoang ở Murin,” Nikolai lên tiếng. “Hai người có thể cập bến tàu Con Vạc ở đó và đi bộ vào thung lũng.”
“Sao không bay thẳng vào Sikurzoi?” Mal thắc mắc.
Tamar lắc đầu. “Rất khó để làm được. Ít chỗ hạ cánh hơn, và địa hình hiểm trở hơn rất nhiều.”
“Được rồi,” Mal đồng ý. “Vậy chúng ta sẽ hạ cánh ở Murin và đến Chi Lộ Jidkova.”
“Chúng ta sẽ có vỏ bọc tốt,” Tolya nói. “Nevsky bảo là rất nhiều người đang băng qua các thành phố xuyên biên giới, cố rời khỏi Ravka trước khi mùa đông đến và những dãy núi trở nên vô phương vượt qua.”
“Cậu phải mất bao lâu mới tìm được Hỏa Điểu?” Nikolai hỏi.
Mọi người quay về phía Mal.
“Không biết được,” cậu đáp. “Tôi đã tốn hàng tháng trời để tìm con hươu đực. Săn tìm Hải Long mất chưa đến một tuần.” Cậu chăm chú nhìn bản đồ, nhưng tôi có thể nhận ra kỷ niệm về những ngày ấy dâng trào giữa chúng tôi. Chúng tôi đã trải qua chúng trong vùng nước lạnh lẽo của Xương Đạo với đe dọa nhục hình lơ lửng trên đầu. “Vùng Sikurzoi bao gồm rất nhiều lãnh thổ. Chúng ta phải xuất phát càng nhanh càng tốt.”
“Cô đã chọn xong nhóm chưa?” Nikolai hỏi Tamar.
Cô ấy thật sự đã nhảy cẫng lên khi gã đề nghị cô dẫn đầu Con Vạc và ngay lập tức làm quen với con tàu lẫn vật dụng thiết yếu của nó.
“Zoya không giỏi làm việc nhóm,” Tamar trả lời, “nhưng chúng tôi cần Tiết Khí Sư, và cô ấy cùng Nadia là lựa chọn tốt nhất. Stigg xử lý dây thép không tệ, và chẳng hại gì khi có ít nhất một Tiết Hỏa Sư trên tàu. Chúng tôi có thể chạy thử vào ngày mai.”
“Cô sẽ di chuyển nhanh hơn với một nhóm binh sĩ thiện nghệ.”
“Tôi đã thêm vào một Tiết Hỏa Sư và một Sáng Chế Gia của ngài trong bảng phân công,” cô tiếp tục. “Tôi thấy an tâm hơn khi cho người của chúng tôi đảm nhiệm phần còn lại.”
“Đám lính lang thang rất trung thành.”
“Có lẽ vậy,” Tamar đáp lời. “Nhưng chúng tôi hợp tác rất tốt.”
Khẽ giật mình, tôi nhận ra cô ấy nói đúng. Người của chúng tôi. Chuyện đó xảy ra từ lúc nào? Trong chuyến hành trình rời khỏi Giáo Hội Trắng? Lúc sụp hầm? Khoảnh khắc chúng tôi đối mặt với cận vệ của Nikolai rồi đến một vị vua?
Nhóm nhỏ của chúng tôi đang bị chia cách, và tôi không thích thế. Adrik tức điên vì bị bỏ lại, và tôi sẽ nhớ cậu nhóc lắm. Tôi thậm chí sẽ nhớ Harshaw và Oncat. Nhưng phần khó khăn nhất chính là nói lời tạm biệt với Genya. Với thuyền viên và đồ dự trữ, tàu Con Vạc vốn dĩ đã nặng, và không có lý do gì để cô ấy đi cùng chúng tôi vào Sikurzoi. Và dù rằng chúng tôi từng cần đến một Sáng Chế Gia để luyện thành chiếc vòng thứ hai, Nikolai vẫn nghĩ rằng David hữu dụng nhất khi ở đây, cống hiến trí tuệ của mình cho chiến trận. Thay vào đó, chúng tôi chọn Irina, Sáng Chế Gia vô chủ đã từng nối liền những chiếc vẩy Hải Long quanh cổ tay tôi hồi ở trên tàu Volkvolny. David hài lòng với quyết định ấy, và Genya đón nhận tin tức tốt hơn tôi.
“Ý cô là tôi sẽ không được đi một dãy núi mịt mù với Zoya than phiền suốt đường đi và Tolya luyên thuyên kể Câu Chuyện Thứ Hai của Kregi à?” Cô ấy bật cười. “Tôi đau khổ quá.”
“Cô ở đây sẽ ổn chứ?” Tôi hỏi.
“Tôi nghĩ vậy. Tôi không tin rằng mình đang nói điều này, nhưng tôi dần thấy thích Nikolai. Anh ta không giống với cha của mình chút nào. Và rất biết ăn mặc.”
Rõ ràng cô ấy đúng về việc đó. Kể cả trên đỉnh núi, đôi bốt của Nikolai luôn sáng bóng, quân phục của gã trắng không tì vết.
“Nếu mọi thứ suôn sẻ,” Tamar nói, “chúng ta sẽ sẵn sàng lên đường vào cuối tuần.”
Tôi cảm thấy cơn thỏa mãn dâng lên và phải ngăn mình không xoa lên khoảng trống trên cổ tay. Nhưng rồi Nikolai hắng giọng. “Về chuyện đó… Alina, ta tự hỏi không biết cô có định đi đường vòng một chút không.”
Tôi chau mày. “Đường vòng như nào?”
“Liên minh với Tây Ravka vẫn còn mới. Họ sẽ cảm thấy áp lực từ phía Fjerda để mở đường vào Vực Tối cho Hắc Y. Cho họ chứng kiến Tiết Dương Sư có thể làm được gì sẽ có ý nghĩa rất lớn. Trong lúc những người khác bắt đầu trinh sát vùng Sikurzoi, ta nghĩ chúng ta có thể tham dự vài bữa tiệc quốc gia, chặt đứt một đỉnh núi, giúp dân chúng an lòng. Ta có thể đưa cô đến chỗ mọi người ở trên núi trên đường về Os Kervo. Như Mal đã nói, có rất nhiều lãnh thổ, và sự trì hoãn này không đáng kể.”
Trong phút chốc, tôi tưởng Mal sẽ lên tiếng về yêu cầu xâm nhập và rời khỏi Sikurzoi trước khi trận tuyết đầu mùa đổ xuống, về mối nguy của bất kì chậm trễ nào.
Thay vào đó, cậu trải bản đồ lên bàn và nói, “Có lý. Tolya có thể đi với tư cách cận vệ của Alina. Tôi cần thực hành với dây thép.”
Tôi ngó lơ trái tim nhói đau của mình. Đây là điều tôi muốn. “Dĩ nhiên,” tôi đáp.
Nếu Nikolai quả có trông chờ một cuộc cãi vã thì gã đã che giấu rất tốt. “Tuyệt cú mèo,” gã trả lời, vỗ hai tay với nhau. “Giờ hãy nói về tủ quần áo của cô.”
Nào có ngờ, chúng tôi có nhiều vấn đề cần xử lý trước khi Nikolai có thể nhấn chìm tôi trong nhung lụa. Gã đã đồng ý gửi tàu Bồ Nông đến Keramzin sau khi nó trở về, nhưng đấy chỉ là việc đầu tiên trong danh sách. Sau khi chúng tôi bàn luận xong về đạn dược, thời gian đón bão và thiết bị chống nước thì trời đã quá trưa và mọi người đều muốn nghỉ.
Phần lớn binh sĩ dùng bữa cùng nhau trong một đại sảnh bừa bộn tạm thời được dựng nên ở phía tây của Guồng Quay Tơ, dưới chòm Nam Tam Giác và chòm Đại Hùng. Tôi không có hứng ở cùng người khác cho lắm, nên tôi lấy một ổ bánh mì phủ hạt carum cùng một tách trà nóng bỏ đầy đường và bước ra sân thượng phía nam.
Bên ngoài lạnh buốt. Bầu trời màu xanh lơ, và mặt trời ban trưa lẩn khuất sau những đám mây. Tôi nhấp từng ngụm trà, lắng nghe tiếng gió thổi vun vút vào tai trong lúc nó mơn trớn lớp lông thú bao quanh mặt. Hai bên phải và trái, tôi có thể thấy những chấn song của sân thượng phía đông và tây. Ở đằng xa, phẩn đỉnh cụt lủn của dãy núi mà tôi đã cắt đứt đã sớm bị tuyết trắng phủ lấp.
Qua thời gian, tôi chắc rằng Baghra có thể dạy tôi thúc đẩy năng lực tiến xa hơn, nhưng bà sẽ không giúp tôi thành thạo merzost, và tôi không biết phải bắt đầu từ đâu bằng chính sức mình. Tôi hồi tưởng cảm giác mình từng có trong nhà thờ nhỏ, cảm giác của kết nối và tan rã, cảm giác kinh hoàng khi sự sống bị xé toạc, nỗi rộn ràng khi chứng kiến những sinh vật của tôi trỗi dậy. Nhưng không có Hắc Y, tôi không thể tiếp cận được sức mạnh đó, và tôi không chắc Hỏa Điểu sẽ thay đổi được nó. Có lẽ tất cả đều dễ dàng hơn với Hắc Y. Anh ta từng bảo tôi rằng mình có nhiều thời gian luyện tập hơn nhờ sự bất tử. Hắc Y đã lấy đi bao nhiêu sinh mạng? Anh ta đã sống qua bao nhiêu cuộc đời? Có lẽ sau tất cả, sự sống và cái chết đã trở nên khác biệt với anh ta - bé nhỏ và dễ hiểu, một thứ để lợi dụng.
Với một tay, tôi triệu hồi ánh sáng, để nó trượt qua ngón tay theo từng tia biếng nhác. Chúng đốt xuyên mây, hé lộ những vực cao lởm chởm và tàn độc của dãy núi bên dưới. Tôi đặt tách trà xuống và chồm qua bức tường để nhìn mấy bậc thang đá được chạm khắc vào một bên núi phía dưới. Tamar từng kể rằng vào thời xưa, những người hành hương đã leo thang bằng đầu gối.
“Nếu cô muốn nhảy xuống thì ít nhất phải cho ta thời gian soạn một bản ballad để vinh danh chứ,” Nikolai cất tiếng. Tôi quay lại và thấy gã đang sải bước trên sân thượng, mái tóc vàng óng ánh. Gã khoác trên người một chiếc áo bành tô trang nhã màu xám quân đội, trên có hình hai con đại bàng màu vàng. “Một bản nhạc với nhiều đoạn violin bi thảm và một đoạn thơ ca tụng tình yêu của cô dành cho cá trích.”
“Nếu tôi đứng chờ thì sẽ phải nghe anh hát mất.”
“Ta có giọng nam trung hơi bị hay à nha. Và cô vội thế làm gì? Mùi nước hoa nồng quá à?”
“Anh đâu có xịt nước hoa.”
“Người ta tỏa hương thơm tự nhiên đến mức quá đà. Nhưng nếu cô thích nước hoa, ta sẽ bắt đầu dùng nó.”
Tôi nhăn mũi. “Không, cảm ơn.”
“Ta sẽ nghe lời cô trong mọi trường hợp. Đặc biệt là sau màn diễn thị phạm kia,” gã nói rồi gật đầu về phía ngọn núi cụt đỉnh. “Bất cứ khi nào muốn ta ngả mũ, cô cứ nói.”
“Trông rất được, đúng không?” tôi thở dài. “Nhưng Baghra đã dạy Hắc Y từ lúc anh ta còn nhỏ. Anh ta có hàng trăm năm để hoàn thiện sức mạnh của mình. Tôi chỉ có chưa đầy một năm.”
“Ta có món quà này cho cô.”
“Là Hỏa Điểu sao?”
“Cô muốn nó à? Đáng ra cô nên nói sớm hơn.” Gã đưa tay vào trong túi và đặt nó lên bờ tường.
Ánh sáng lóe lên từ một chiến nhẫn đính ngọc lục bảo. Viên đá tròn đầy màu xanh ở chính giữa lớn hơn ngón tay cái của tôi, nó được vây quanh bởi vô số hạt kim cương tí hon.
“Tôi đánh giá cao sự khoe khoang của anh rồi,” tôi nói bằng giọng run rẩy.
“Ta thích nghe cô trích dẫn lời của ta,” Nikolai gõ vào chiếc nhẫn. “Hãy lấy làm an ủi rằng, nếu cô đấm ta lúc đang đeo nó, có khi mắt của ta sẽ bị rơi ra. Và ta rất muốn cô làm thế. Đeo nhẫn. Không phải đấm ta.”
“Anh lấy nó từ đâu?”
“Mẫu hậu trao nó cho ta trước khi rời đi. Đấy là viên ngọc lục bảo gia truyền của dòng họ Lantsov. Người đã đeo nó trong đêm tiệc sinh nhật của ta, cái đêm chúng ta bị tấn công. Ngẫm cũng hay, đấy chưa phải sinh nhật tệ nhất ta từng có.”
“Chưa phải?”
“Hồi ta mười tuổi, phụ vương và mẫu hậu đã mời một tên hề”
Một cách ngần ngại, tôi vươn tay cầm lấy chiếc nhẫn. “Nặng quá,” tôi nói.
“Chỉ là một hòn đá thôi, thiệt đó.”
“Anh có nói với Hoàng hậu là anh định sẽ đưa nó cho một đứa thường dân mồ côi chưa?”
“Ta toàn nghe mẫu hậu nói thôi,” gã đáp. “Người muốn kể ta nghe về Magnus Opjer.”
“Ai?”
“Sứ giả người Fjerda, một thủy thủ đáo để, kiếm tiền bằng cách dùng thuyền vận chuyển hàng hóa.” Nikolai nhìn ra đám mây phía xa. “Ngoài ra, ông cũng là cha ruột của ta.”
Tôi không chắc mình nên chúc mừng hay chia buồn. Nikolai vẫn hay thản nhiên nói về thân phận của gã, nhưng tôi biết gã thấy cay đắng về nó hơn những lời đã thú nhận.
“Thật lạ khi biết rõ sự thật,” gã tiếp tục. “Ta nghĩ phần nào đó trong ta đã luôn mong rằng tin đồn cũng chỉ là tin đồn mà thôi.”
“Anh sẽ trở thành một vị vua tốt.”
“Dĩ nhiên rồi,” gã cười khẩy. “Ta u sầu chứ có mất trí đâu.” Gã phủi đi một sợi vải tưởng tượng trên tay áo. “Ta không biết liệu mẫu hậu sẽ tha thứ cho việc ta đưa người đi đày hay không, nhất là đến Thuộc Địa.”
Chuyện gì khó khăn hơn, đánh mất mẹ mình hay chưa từng biết mặt bà? Dù là thế nào, tôi cũng đồng cảm với gã. Gã đã đánh mất từng người một trong gia đình - ban đầu là anh trai, giờ đến cha mẹ. “Tôi rất tiếc, Nikolai.”
“Có gì đâu mà tiếc? Cuối cùng ta đã đạt được những gì mình muốn. Đức vua đã thoái vị, con đường dẫn tới ngai vàng rộng mở. Nếu không phải lo đến một tên độc tài quyền năng và bè lũ quái vật của hắn thì giờ này ta đã khui sâm-panh rồi.”
Nikolai có thể bông đùa theo ý gã. Tôi biết đây không phải cách đón nhận quyền cai trị Ravka gã từng tưởng tượng - anh trai bị giết chết, cha bị hủy hoại thanh danh bởi lời buộc tội của một người hầu.
“Chừng nào anh mới lên ngôi?” Tôi hỏi.
“Sau khi chúng ta thắng. Ta sẽ lên ngôi ở Os Alta hoặc không bao giờ. Và bước đầu tiên là củng cố liên minh giữa chúng ta và Tây Ravka.”
“Nên mới có chiếc nhẫn?”
“Nên mới có chiếc nhẫn.” Gã vuốt mượt ve áo và nói. “Cô biết đấy, cô có thể nói với ta về Genya mà.”
Cơn day dứt ập đến. “Tôi chỉ đang cố bảo vệ cô ấy. Chẳng mấy ai để tâm đến việc đó.”
“Ta không muốn có sự giả dối giữa chúng ta, Alina.” Gã đang nghĩ đến tội lỗi của cha gã? Vụ ngoại tình của mẹ gã? Dẫu vậy, gã không công bằng.
“Anh đã dối tôi bao nhiêu lần rồi, Sturmhond?” Tôi đưa tay về phía Guồng Quay Tơ. “Anh đã giấu tôi bao nhiêu bí mật đến khi thấy sẵn sàng mới chia sẻ?”
Gã chắp tay sau lưng, trông áy náy thấy rõ. “Đặc quyền của hoàng tử chăng?”
“Nếu một hoàng tử bình thường được đặc cách thì một vị thánh sống cũng vậy.”
“Thói quen sắp tới của cô là thắng mọi cuộc tranh cãi đấy à? Chả hấp dẫn chút nào.”
“Đây là một cuộc tranh cãi ư?”
“Rõ ràng là không. Ta không cãi thua bao giờ.” Rồi gã ngó sang bên. “Quỷ thần ơi, cậu ta đang chạy bộ trên cầu thang đá à?”
Tôi nheo mắt nhìn qua màn sương. Đúng vậy, ai đó đang đi trên những bậc thang chật hẹp hình zigzag bên cạnh dốc núi, hơi thở cuộn thành khói trong tiết trời lạnh giá. Tôi chỉ mất một giây để nhận ra đấy là Mal, cậu ấy cúi đầu, ba lô đặt trên vai.
“Nhìn rất… khỏe mạnh. Nếu cậu ta cứ tiếp tục, có thể ta cũng sẽ bắt đầu tập luyện luôn.” Giọng Nikolai khá tươi tỉnh, nhưng tôi có thể cảm thấy đôi mắt màu nâu thông tuệ ấy hướng về phía mình. “Giả sử chúng ta đánh thắng Hắc Y, và ta chắc rằng chúng ta sẽ làm được, Mal có định ở lại dưới danh nghĩa đội trưởng cận vệ của cô không?”
Tôi dừng lại trước khi có thể xoa ngón cái lên vết sẹo ở lòng bàn tay.
“Tôi không biết.” Sau tất cả những chuyện đã xảy ra, tôi vẫn muốn giữ Mal ở bên. Điều đó thật không công bằng với cả hai. Tôi buộc mình phải nói, “Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu cậu ấy chuyển công tác. Cậu ấy chiến đấu giỏi, nhưng cậu ấy còn dò đường giỏi hơn.”
“Cô biết cậu ta sẽ không nhận nhiệm vụ nào khác ngoài chiến đấu mà.”
“Cứ làm những gì anh nghĩ là tốt nhất.” Cơn đau như lưỡi dao mỏng cứa ngang qua xương sườn. Tôi đang cắt đứt Mal khỏi đời mình, nhưng giọng tôi vẫn ổn định. Nikolai đã dạy dỗ rất tốt. Tôi cố trao chiếc nhẫn lại. “Tôi không thể nhận nó. Không phải lúc này.” Có lẽ không bao giờ.
“Cứ giữ lấy đi,” gã nói, đẩy tay tôi đè lên viên đá. “Một thuyền trưởng luôn biết cách tận dụng mọi cơ hội.”
“Và một hoàng tử thì sao?”
“Hoàng tử vốn quen với câu ‘đồng ý?’”
Khi tôi trở về phòng tối hôm ấy, Nikolai còn nhiều bất ngờ khác chờ sẵn. Tôi chần chừ, rồi quay lưng đi xuống hành lang, chỗ mấy người con gái còn lại tạm nghỉ. Mất một lúc lâu, tôi chỉ đứng đó, cảm thấy xấu hổ và ngớ ngẩn, rồi tôi ép mình gõ cửa.
Nadia mở cửa. Sau lưng cô, tôi thấy Tamar đã đến thăm và đang ngồi mài rìu bên cửa sổ. Genya ngồi ngay bàn, thêu chỉ vàng xung quanh một dải băng che mắt, và Zoya đang ngả lưng trên một trong những chiếc giường, giữ một chiếc lông vũ bay lơ lửng bằng ngọn gió từ đầu ngón tay cô ta.
“Tôi muốn cho mấy cô xem cái này,” tôi nói.
“Gì đấy?” Zoya hỏi, mắt vẫn chăm chú vào chiếc lông vũ.
“Cứ đến xem đi.”
Cô ta lăn khỏi giường với tiếng thở dài ngao ngán. Tôi dẫn họ đến phòng mình ở cuối hành lang, và mở tung cửa.
Genya nhào đến đống áo choàng trải trên giường tôi. “Lụa!” cô rên rỉ. “Nhung!”
Zoya cầm bộ kefta treo đằng sau ghế của tôi lên. Nó là gấm vàng thêu kim tuyến, tay áo và viền áo được dệt màu xanh xa hoa, cổ tay đính trang sức hình mặt trời. “Lông chồn Zibelin,” cô ta nói với tôi, tay vuốt ve viền áo. “Tôi chưa bao giờ hận cô hơn thế.”
“Cái đó của tôi,” tôi nói. “Nhưng mấy bộ khác thì lấy thoải mái. Tôi không thể mặc hết chúng ở Tây Ravka.”
“Nikolai đặt may riêng cho cô à?” Nadia hỏi.
“Anh ta không thích nửa vời.”
“Cô có chắc anh ta muốn cô cho chúng không?”
“Cho mượn,” tôi chỉnh lại. “Và nếu anh ta không thích, anh ta có thể học cách hướng dẫn kỹ lưỡng hơn.”
“Thông minh đấy,” Tamar nói, cô khoác lên vai một cái áo choàng không tay màu xanh mòng két rồi ngắm mình trong gương. “Ngài ấy cần giống như một vị vua, và cô cần giống như một hoàng hậu.”
“Còn một thứ khác,” tôi nói. Một lần nữa, nỗi xấu hổ lại lan tỏa khắp người. Tôi vẫn chưa biết phải cư xử thế nào quanh những Grisha khác. Họ là bạn? Là thần dân? Đây là địa phận hoàn toàn mới. Nhưng tôi không muốn ở một mình trong phòng với không gì khác ngoài suy nghĩ vẩn vơ và một đống váy áo để bầu bạn.
Tôi lấy nhẫn của Nikolai ra và đặt nó lên bàn.
“Quỷ thần ơi,” Genya thở hắt ra. “Đấy là ngọc lục bảo của dòng họ Lantsov.”
Dưới ánh đèn, viên ngọc dường như tỏa sáng, những hạt kim cương lấp lánh xung quanh.
“Anh ta cứ thế đưa nó sao? Cho cô giữ?” Nadia thắc mắc.
Genya siết chặt cánh tay tôi. “Anh ta có cầu hôn không?”
“Không hẳn.”
“Cũng gần giống thế rồi,” Genya bảo. “Chiến nhẫn ấy là vật gia truyền. Hoàng hậu đeo nó mỗi đêm, kể cả lúc ngủ.”
“Vất anh ta sang bên,” Zoya đề nghị. “Làm trái tim anh ta tan nát một cách tàn nhẫn. Tôi sẵn sàng an ủi hoàng tử đáng thương của chúng ta, và tôi sẽ trở thành một vị hoàng hậu lộng lẫy.”
Tôi bật cười. “Cô có thể làm thế, Zoya. Nếu cô ngưng xấu tính được một phút.”
“Với kiểu động viên ấy, tôi có thể cố gắng ngưng xấu tính được một phút. Có khi hai.”
Tôi đảo mắt. “Chỉ là một chiếc nhẫn thôi mà.”
Zoya thở dài và giơ nhẫn lên cao để nó lóe sáng. “Tôi thật tệ hại,” cô ta đột ngột nói. “Người ta chết biết bao nhiêu, thế mà tôi vẫn nhớ những thứ xinh đẹp.”
Genya cắn môi, rồi buột miệng, “Tôi nhớ món kulich hạnh nhân. Và bơ, và mứt anh đào mà đầu bếp hay đem về từ chợ ở Balakirev.”
“Tôi nhớ biển,” Tamar phụ họa, “và võng của tôi trên tàu Volkvolny.”
“Tôi nhớ những ngày ngồi bên bờ hồ ở Tiểu Điện,” Nadia thêm vào. “Yên tĩnh uống trà, mọi thứ thật bình yên.”
Zoya nhìn xuống đôi bốt của cô ta rồi nói, “Tôi nhớ cảm giác biết được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.”
“Tôi cũng vậy,” tôi thú thật.
Zoya đặt nhẫn xuống. “Cô sẽ đồng ý chứ?”
“Anh ta vẫn chưa cầu hôn.”
“Nhưng anh ta sẽ.”
“Có thể. Tôi không biết.”
Cô ta khịt mũi kinh tởm. “Tôi nói dối đấy. Tôi chưa bao giờ hận cô hơn bây giờ.”
“Đấy sẽ là một điều đặc biệt,” Tamar góp ý, “khi có một Grisha trên ngai vàng.”
“Cô ấy nói đúng,” Genya bổ sung. “Là người cai trị, thay vì chỉ phục tùng.”
Họ muốn một Hoàng hậu Grisha. Mal muốn một Hoàng hậu thường dân. Và tôi muốn gì? Hòa bình cho Ravka. Cơ hội để ngủ ngon trên giường không chút sợ hãi. Kết thúc nỗi day dứt và lo sợ chào đón tôi mỗi sáng, vẫn còn những khao khát xưa cũ, được yêu thương vì chính con người tôi, không phải vì những gì tôi có thể làm, được nằm trên bãi cỏ trong vòng tay của một người con trai và ngắm mây bay theo gió. Nhưng những giấc mơ ấy thuộc về một người con gái, không phải Tiết Dương Sư, không phải Thánh nữ.
Zoya khụt khịt, cài một hạt ngọc kokochnik lên tóc. “Tôi vẫn nghĩ người đấy nên là tôi.”
Genya ném một chiếc dép bằng nhung về phía cô ta. “Cái ngày tôi phải cúi chào cô là cái ngày David khỏa thân hát một vở opera ở giữa Vực Tối.”
“Làm như tôi sẽ giữ cô trong triều vậy.”
“Cô phải thấy may mắn chứ. Lại đây. Cái kẹp tóc đó xiên xẹo hết rồi kìa.”
Tôi cầm chiếc nhẫn lên lần nữa, lăn nó qua lại trên tay. Tôi chưa thể đeo nó được.
Nadia huých nhẹ vai tôi. “vẫn còn nhiều thứ tệ hơn một hoàng tử.”
“Đúng.”
“Nhiều thứ tốt hơn nữa,” Tamar nói. Cô ấy đẩy một bộ váy viền ren màu xanh coban về phía Nadia. “Thử bộ này đi.”
Nadia giơ nó lên. “Cô bị điên à? Vạt trên của áo cứ như trễ xuống tận rốn ấy.”
Tamar nhăn răng. “Chính xác.”
“Chậc, Alina không mặc được đâu,” Zoya nói. “Thể nào ngực của cô ta cũng tuột khỏi áo rồi rơi xuống đĩa tráng miệng.”
“Thật vô lễ!” Tamar hét lên.
Nadia khúc khích vỡ òa. “Tây Ravka tuyên chiến vì bộ ngực của Tiết Dương Sư.”
Tôi cố tỏ ra nhăn nhó, nhưng tôi đang cười sảng khoái. “Tôi mong các cô đều thấy thoải mái.”
Tamar quàng một chiếc khăn qua cổ Nadia và kéo cô ấy lại cho một nụ hôn.
“Ôi trời ạ,” Zoya than phiền. “Giờ ai cũng có đôi có cặp hết à?”
Genya khịt mũi. “Để ý một chút. Tôi đã thấy Stigg hướng ánh mắt rầu rĩ về phía cô đấy.”
“Anh ta là người Fjerda,” Zoya nói. “Đấy là ánh mắt duy nhất anh ta có. Và tôi có thể tự chọn người yêu cho mình, cảm ơn rất nhiều.”
Chúng tôi sắp xếp lại rương quần áo, chọn những váy, áo choàng, và nữ trang phù hợp nhất cho chuyến đi. Nikolai suy nghĩ rất thấu đáo, vẫn như mọi khi. Từng bộ váy đều được chạm trổ theo nhiều tông xanh và vàng. Tôi hiểu chuyến đi này là để trình diễn, không phải hưởng thụ.
Mọi người ở lại đến khi đèn sắp tắt, và tôi vô cùng cảm kích sự hiện diện của họ. Nhưng khi họ chọn được bộ áo mình thích, và những thứ lộng lẫy còn lại được gói lại và xếp vào rương, họ liền chào tạm biệt.
Tôi cầm chiếc nhẫn trên bàn lên, cảm nhận sức nặng lố bịch của nó trong lòng bàn tay.
Sớm thôi thuyền Chim Ruồi sẽ quay lại và Nikolai cùng tôi sẽ đi đến Tây Ravka. Lúc đó, Mal và đội của cậu ấy sẽ lên đường tiến về Sikurzoi. Đấy là cách mọi chuyện nên diễn ra. Tôi ghét cuộc sống trong triều, còn Mal khinh miệt nó. Để cậu ấy đứng gác trong dạ tiệc ở Os Kervo lại càng khốn khổ hơn cho cậu.
Nếu tôi thật lòng với bản thân, tôi có thể thấy cậu ấy đã tiến bộ kể từ khi rời khỏi Tiểu Điện, thậm chí ở dưới mặt đất. Cậu ấy đã trở thành một vị lãnh đạo có đường lối riêng, đã tìm ra mục đích mới. Tôi không thể nói trông cậu hạnh phúc, nhưng có lẽ theo thời gian nó sẽ đến, với hòa bình, với một cơ hội gây dựng tương lai.
Chúng tôi sẽ tìm Hỏa Điểu. Chúng tôi sẽ đối mặt với Hắc Y. Thậm chí có lẽ chúng tôi sẽ thắng. Tôi sẽ đeo nhẫn của Nikolai, và Mal sẽ chuyển công tác. Cậu ấy sẽ có một cuộc đời đáng ra phải có được từ lâu, đáng ra phải có được nếu không có tôi. Vậy thì tại sao lưỡi dao ở giữa xương sườn tôi cứ mãi quặn đau thế này?
Tôi nằm xuống giường, ánh sáng từ những ngôi sao tràn qua cửa sổ, viên ngọc lục bảo được siết chặt trong tay.
Sau này, tôi sẽ không bao giờ biết chắc rằng mình đã cố ý làm thế, hay đấy chỉ là một tai nạn, trái tim tan nát của tôi bấu víu vào ràng buộc vô hình ấy. Có lẽ tôi đã quá mệt mỏi để cưỡng lại sức hút của anh ta. Tôi thấy mình đứng giữa một căn phòng mờ nhạt, nhìn chằm chằm vào Hắc Y.