Chương 13
Cuối cùng, mọi người đều ở lại. Kể cả Zoya, dù cô ta luôn miệng phàn nàn suốt quãng đường đến Dva Stolba.
Chúng tôi đồng ý chia nhau thành từng nhóm. Tamar, Nadia và Adrik sẽ đi cùng David, Genya và Misha. Họ sẽ tìm chỗ nghỉ chân tại một trong những khu dân cư ở phía đông nam của thung lũng. Genya sẽ phải giấu mặt, nhưng có vẻ như cô ấy không hề phiền lòng. Cô quấn chặt khăn choàng quanh đầu và tuyên bố, “Tôi sẽ là một người phụ nữ bí ẩn.” Tôi nhắc cô ấy không nên quá bí ẩn.
Mal và tôi sẽ tiến vào Sikurzoi với Zoya, Harshaw, và Tolya. Vì chúng tôi rất gần với biên giới, chúng tôi biết mình sẽ chạm trán với nhiều binh lính hơn, nhưng tôi mong rằng tất cả có thể trà trộn vào đoàn người tị nạn đang cố vượt qua Sikurzoi trước khi tuyết đầu mùa đổ xuống.
Nếu chúng tôi không quay về dãy núi trong hai tuần, Tamar sẽ đến gặp bất kì quân đội nào được lão Tư Tế điều tới Caryeva. Tôi không thích phải để cô ấy và Nadia đi một mình, nhưng Mal và tôi không thể tách nhóm nhỏ hơn nữa. Thổ phỉ nước Shu nổi tiếng hay cướp bóc những lữ khách Ravka gần biên giới, và chúng tôi muốn sẵn sàng để đối phó rắc rối. Ít nhất Tamar biết nhóm Soldat Sol, và tôi cố trấn an bản thân rằng cả cô ấy và Nadia đều là những chiến binh kì cựu.
Tôi cũng không chắc mình sẽ làm gì với những người lính sẽ xuất hiện nữa, nhưng tin nhắn đã được gửi, và tôi phải tin rằng chúng tôi sẽ tìm ra thứ gì đó. Có lẽ đến khi ấy tôi đã có được Hỏa Điểu và khởi đầu của một kế hoạch. Tôi không thể nghĩ quá xa. Mỗi lần làm thế, khủng hoảng lại giằng xé trong tôi. Như thể tôi đã trở lại dưới lòng đất, không có không khí để thở, chỉ chờ thế giới đổ sụp xung quanh.
Nhóm của tôi lên đường lúc mặt trời mọc, để mọi người ngủ tiếp dưới bóng râm. Chỉ Misha còn thức, nó quan sát chúng tôi bằng ánh mắt kết tội trong lúc dùng đá cuội ném vào một bên tàu Con Vạc.
“Lại đây,” Mal nói, vẫy nó đến gần. Tôi tưởng Misha sẽ không nhúc nhích, nhưng rồi nó lệt xệt chạy tới, cằm nhô ra hờn dỗi. “Em còn giữ cái cài áo Alina tặng chứ?”
Misha gật đầu.
“Em biết ý nghĩa của nó, đúng không? Em là một chiến binh. Những chiến binh không được đi đến những nơi họ muốn. Họ phải đến những nơi cần họ.”
“Anh chỉ không muốn em đi chung thôi.”
“Không, bọn anh cần em ở đây để chăm sóc những người khác. Em biết rõ David hoàn toàn vô vọng, và Adrik cũng cần được giúp đỡ nữa, dù cậu ấy thậm chí không muốn thừa nhận điều đó. Em phải cẩn thận, giúp Adrik mà không để cậu ấy biết. Em làm được không?”
Misha nhún vai.
“Bọn anh cần em chăm sóc họ như cách em đã chăm sóc Baghra.”
“Nhưng em đã không chăm sóc bà.”
“Em có chứ. Em trông chừng bà, và em giúp bà thấy thoải mái, và em để bà đi khi bà cần em làm vậy. Em đã làm những điều cần thiết, dù nó khiến em tổn thương. Đấy là những gì mà các chiến binh làm.”
Misha lập tức ngẩng lên nhìn cậu ấy, như thể đang cân nhắc. “Đáng ra em nên cản bà lại,” nó nói, giọng nức nở.
“Nếu em làm vậy, sẽ không ai trong chúng ta còn ở đây. Bọn anh biết ơn vì em đã thực hiện một việc khó khăn đến thế.”
Misha cau mày. “David đúng là hơi vụng về.”
“Đúng,” Mal tán thành. “Vậy bọn anh tin em được chứ?”
Misha quay đi vẻ mặt vẫn còn khó xử, nhưng nó nhún vai lần nữa.
“Cảm ơn em,” Mal nói. “Em có thể bắt đầu bằng việc đun nước nấu bữa sáng.”
Misha lại gật đầu, rồi chạy về phía đống sỏi để đổ nước.
Mal liếc sang tôi trong lúc nhỏm dậy và đeo hành lý lên vai. “Gì hả?”
“Không có gì. Chỉ là… bồ xử lý tốt quá.”
“Giống cách Ana Kuya đã khiến mình ngừng việc xin bà thắp đèn vào buổi tối mà thôi.”
“Thật à?”
“Ừa,” cậu ấy nói rồi bắt đầu trèo lên cao. “Bà bảo mình phải trở nên gan dạ vì bồ, rằng nếu mình sợ hãi thì bồ sẽ sợ theo.”
“Chậc, bà bảo mình phải ăn hết củ cải để làm gương cho bồ, nhưng mình vẫn từ chối.”
“Và bồ tự hỏi vì sao bồ luôn bị đánh.”
“Mình có nguyên tắc riêng.”
“Nghĩa là, ‘nếu mình có thể cãi bướng, mình sẽ làm thế.’”
“Bất công.”
“Nè!” Zoya hét lên từ miệng hố bên trên. “Nếu hai người không lên đây trước khi tôi đếm đến mười, tôi sẽ quay lại ngủ tiếp và hai người có thể khiêng tôi đến Dva Stolba đấy’’
“Mal,” tôi thở dài. “Nếu mình giết cô ta ở Sikurzoi, bồ sẽ kết tội mình chứ?”
“Ừa,” cậu ấy đáp. Rồi thêm vào, “Nghĩa là, ‘hãy làm hiện trường trông như một tai nạn.”’
Dva Stolba khiến tôi bất ngờ. Không hiểu sao tôi đã cho rằng thung lũng nhỏ tí sẽ trông như một nghĩa trang, một khu đất hoang cằn cỗi gồm những bóng ma và nhà cửa bỏ trống. Thay vào đó, đường phố tấp nập vô cùng. Khung cảnh lác đác những tàu thuyền rệu rã cùng bao cánh đồng quạnh vắng tàn tro, nhưng những dãy nhà mới và khu buôn bán đã mọc lên ngay bên cạnh.
Có quán rượu và nhà trọ, một biển quảng cáo sửa đồng hồ đặt trước cửa hàng, và một cửa tiệm dường như cho thuê sách theo tuần. Mọi thứ trông tạm bợ đến lạ. Những ô cửa bị vỡ được đắp giấy tuềnh toàng. Nhiều căn nhà có nóc phủ vải bạt hoặc lỗ thủng trên tường đã được che bằng chăn len hoặc thảm dệt. Ai biết chúng ta sẽ ở đây đến chừng nào? chúng như muốn nói. Hãy tận dụng những gì mình có.
Nơi đây đã luôn như vậy sao? Thị trấn liên tục bị phá hủy và tái dựng, nằm dưới sự kiểm soát của Shu Han hoặc Ravka, tùy vào biên giới được vẽ ra vào cuối một trận chiến nào đó. Đây là cách cha mẹ tôi từng sống sao? Thật lạ khi hình dung về họ theo cách này, nhưng tôi không ghét ý nghĩ ấy. Có lẽ họ là chiến binh hoặc thương nhân. Có lẽ họ hạnh phúc nơi đây. Có lẽ một trong hai người đã luôn che giấu năng lực, di sản tiềm ẩn của con gái út Morozova. Từng có những truyền thuyết về Tiết Dương Sư trước tôi. Phần lớn mọi người nghĩ rằng đấy chỉ là lừa đảo hoặc những câu chuyện vô nghĩa, những ước vọng hão huyền sinh ra từ nỗi thống khổ do Vực Tối tạo ra. Nhưng biết đâu ý nghĩa của chúng sâu xa hơn. Hoặc tôi đang bấu víu vào một giấc mơ về món quà thừa kế mà mình không có quyền được hưởng.
Chúng tôi băng qua quảng trường đông đúc trong chợ, hàng hóa được bày trên mấy cái bàn dựng tạm: chảo thiếc, dao đi săn, lông thú cho hành trình vượt núi. Chúng tôi nhìn thấy mấy lọ mỡ ngỗng, quả sung sấy khô bán theo bó, yên ngựa còn tốt và vài khẩu súng mỏng manh. Mấy cọng dây xiên vịt vừa mới vặt lông treo ngay trên một quầy hàng. Mal nhét cung tên và súng liên châu trong ba lô. Vũ khí của chúng tôi đặc biệt được chế tạo để không thu hút sự chú ý.
Trẻ con lăn lộn trên đất cát. Một gã mập mặc áo vest không tay đang nướng một loại thịt gì đó trong một cái trống lớn bằng kim loại. Tôi nhìn gã ném một nhánh cây vào đấy, làm bốc lên một đám mây xanh nồng mùi. Zoya nhăn mũi, nhưng Tolya và Harshaw mau mắn móc tiền ra.
Đây là nơi gia đình của Mal và tôi đã qua đời. Vì lẽ gì đó, không khí hoang dại và tươi tỉnh nơi đây dường như không phải lắm. Rõ ràng nó không hợp với tâm trạng của tôi.
Tôi thấy nhẹ nhõm khi Mal nói, “Mình tưởng chỗ này phải khắc khổ hơn.”
“Bồ thấy nghĩa trang nhỏ đến cỡ nào chưa?” Tôi khẽ hỏi. Cậu ấy gật đầu. Gần như khắp Ravka, nghĩa trang đều lớn hơn thị trấn, nhưng khi người Shu thiêu rụi những khu dân cư này, không còn ai ở lại để tiếc thương người chết.
Dù chúng tôi đã được trang bị đầy đủ từ kho dự trữ ở Guồng Quay Tơ, Mal vẫn muốn mua một tấm bản đồ được vẽ bởi người bản xứ. Chúng tôi cần biết con đường nào bị chặn do lở đất hoặc cầu sập ở nơi đâu.
Một cụ bà với bím tóc trắng nhìn chúng tôi từ bên dưới chiếc mũ len màu cam, bà ngồi trên ghế đẩu thấp, ngân nga trong họng và lắc chuông để lôi kéo sự chú ý của khách qua đường. Bà không buồn kê bàn mà trải thảm để trưng bày hàng hóa - bi đông, túi treo yên ngựa, bản đồ, và một đống nhẫn cầu nguyện bằng kim loại - ngay trên đất. Một con la đứng sau lưng bà, hai tai co giật để đuổi ruồi, thi thoảng bà với ra sau đặng vỗ về trên mũi nó.
“Tuyết sắp rơi rồi,” bà nói, nheo mắt nhìn trời trong lúc chúng tôi xem qua bản đồ. “Mọi người cần chăn đắp cho chuyến đi không?”
“Chúng cháu ổn,” tôi nói. “Cảm ơn bà.”
“Nhiều người hướng về phía biên giới lắm.”
“Bà không đi sao?”
“Lão quá già để đi rồi. Người Shu, Fjerda, Vực Tối…” bà nhún vai. “Hãy cứ ngồi yên, rắc rối sẽ lướt qua.”
Hoặc nó sẽ đập vào mặt bà, rồi quay lại lần thứ hai, tôi chán nản thầm nghĩ.
Mal giơ một tấm bản đồ lên. “Cháu không thấy dãy núi phía đông, chỉ có phía tây thôi.”
“Tốt hơn nên tránh xa phía đông,” bà lão nói. “Cậu định men theo đường bờ biển?”
“Vâng,” Mal thản nhiên nói dối, “Rồi đến Novyi Zem. Nhưng…”
“Bám sát phía tây đi. Không có người nào quay về từ phía tây cả.”
“Ju weh” Tolya nói. “Ey ye eʼyuan’.’
Bà lão đáp lại, và họ cùng nhau nhìn bản đồ, trò chuyện bằng tiếng Shu trong lúc chúng tôi kiên nhẫn chờ.
Cuối cùng, Tolya đưa Mal một tấm bản đồ khác. “Phía Tây,” anh ta nói.
Bà lão đập chuông lên người Tolya và hỏi tôi, “Cô sẽ cho cậu ta ăn gì ở vùng đồi núi hả? Phải bảo đảm cậu ta không xiên que nướng cô đấy.”
Tolya nhăn mặt, nhưng bà lão cười ngất ngưởng đến mức suýt ngã khỏi ghế.
Mal lấy thêm vài chiếc nhẫn cầu nguyện cùng bản đồ và đưa tiền cho bà lão.
“Lão có một ông anh đã đến Novyi Zem,” bà nói, vẫn còn cười khi thối tiền cho Mal. “Chắc giờ đã giàu sụ. Nơi đấy rất tốt để bắt đầu cuộc sống mới.”
Zoya khịt mũi. “So với cái gì?”
“Nó thật sự không tệ đến thế,” Tolya phân bua.
“Chỉ có bẩn và bẩn hơn.”
“Có những thành phố mà,” Tolya càu nhàu trong lúc cả bọn rời đi.
“Bà lão đó nói gì về dãy núi phía tây?” Tôi hỏi.
“Chúng rất linh thiêng,” Tolya đáp, “và hình như bị ma ám. Bà ta khẳng định rằng Cera Huo được hồn ma canh giữ.”
Cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. “Cera Huo là cái gì?”
Đôi mắt màu vàng của Tolya lóe lên. “Thác Lửa.”
Tôi thậm chí còn không nhận ra tàn tích cho đến khi chúng tôi gần như ở ngay bên dưới chúng. Thật khó nhận ra chúng - hai vòng đá xoắn ốc bị sương gió bào mòn ôm sát hai bên con đường dẫn đến phía đông nam của thung lũng. Chúng có thể đã từng mang hình vòng cung. Hoặc một cống nước. Hoặc hai cối xay gió, như cái tên của chúng. Hoặc chỉ là hai mẩu đá nhọn. Tôi đã mong chờ điều gì? Ilya Morozova bên vệ đường với vòng hào quang, cầm tấm biển ghi chữ “Cô đã đúng, Alina. Hỏa Điểu ở hướng này”?
Nhưng góc độ dường như đều chính xác. Tôi đã nghiên cứu hình minh họa Thánh Ilya giữa gông cùm nhiều đến nỗi bức vẽ được khắc sâu trong tâm khảm. Cảnh tượng Sikurzoi bên kia trục quay khớp với trí nhớ của tôi về trang sách. Morozova đã tự tay vẽ nó sao? Ông ta là chủ nhân của tấm bản đồ sót lại trong bức vẽ ấy, hay người nào khác đã xâu chuỗi cả tiểu sử của ông ta? Có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết được.
Đúng là chỗ này, tôi nhủ thầm. Nhất định là thế.
“Bồ thấy gì quen quen không?” tôi hỏi Mal.
Cậu ấy lắc đầu. “Mình đoán bản thân đã hy vọng…” cậu nhún vai. Cậu không cần phải nói thêm gì nữa. Tôi cũng đã mang theo hy vọng giống vậy trong tim, rằng tôi đã từng ở trên con đường này, trong thung lũng này, phần nào quá khứ của tôi sẽ bất chợt rõ ràng hơn. Nhưng tất cả những gì tôi có vẫn là đoạn ký ức xưa cũ ấy: món củ cải đường, một bờ vai rộng lớn, những chiếc đuôi bò ve vẩy trước mắt.
Chúng tôi nhìn thấy vài dân tị nạn - một phụ nữ đang cho con bú ngồi trên xe ngựa lùn kéo trong lúc chồng cô ấy cuốc bộ kế bên, một nhóm người trạc tuổi chúng tôi mà tôi đoán là lính đào ngũ của Thượng Quân. Nhưng con đường bên dưới tàn tích không đông lắm. Cửa ngõ phổ biến nhất để thử tiến vào Shu Han nằm xa ở mé Tây, nơi những dãy núi ít dốc và lộ trình đến bờ biển dễ dàng hơn.
Vẻ đẹp của Sikurzoi ập đến với tôi bất thình lình. Dãy núi duy nhất tôi từng biết là đỉnh cao băng giá ở phía Bắc xa xôi và dãy Petrazoi - lởm chởm, xám xịt và cấm kị. Nhưng những dây núi này thật hiền hòa, cuồn cuộn, triền dốc thoai thoải phủ đẩy cỏ cao, thung lũng ở giữa bắt chéo qua những dòng sông êm đềm lóe sáng màu xanh và vàng dưới nắng. Thậm chí cả bầu trời cũng mang lại cảm giác chào đón, một dải xanh vô tận, từng cụm mây trắng dày chất thành đụn cao nơi chân trời, đỉnh núi phương nam ngập tuyết hiển hiện ở phía xa.
Tôi biết đây là một vùng đất trống, là ranh giới nguy hiểm đánh dấu kết thúc của Ravka và khởi đầu của lãnh thổ kẻ thù, nhưng nó không giống thế. Nơi đây có nguồn nước dồi dào, có chỗ chăn thả. Nếu không có chiến tranh, nếu ranh giới bằng cách nào đó đã được vạch định khác hẳn, đây sẽ là một chốn yên bình.
Đêm đó chúng tôi không đốt lửa và dựng trại ngoài trời, giường xếp trải ra dưới ngàn sao. Tôi lắng nghe tiếng xì xào của gió giữa luống cỏ và nghĩ đến Nikolai.
Gã có ở đây, theo dấu bọn tôi như bọn tôi theo dấu Hỏa Điểu? Gã còn nhận ra chúng tôi không? Hay đã hoàn toàn đánh mất bản thân rồi? Sẽ có một ngày chúng tôi chỉ còn là con mồi đối với gã chứ? Tôi đánh mắt về phía bầu trời, chờ nhìn thấy hình dạng một đôi cánh che khuất những vì sao. Rồi tôi rơi vào giấc ngủ trằn trọc.
Ngày hôm sau, chúng tôi lánh xa đường cái và khởi sự leo trèo. Mal dẫn chúng tôi về phía Tây, hướng đến Cera Huo, men theo một lối đi cứ thoắt ẩn thoắt hiện xuyên suốt dãy núi. Bão ập đến bất thình lình, những trận mưa dày đặc lớp đất dưới chân chúng tôi biến thành bùn nhão, rồi nhanh chóng biến mất như đã xuất hiện.
Tolya lo gặp phải lũ lụt, nên chúng tôi tách hẳn khỏi lối đi và tìm đến chỗ cao hơn. Xế trưa, chúng tôi lên đến một đỉnh núi đá, nơi chúng tôi có thể nhìn thấy những cụm mây báo bão nối đuôi nhau bên dưới những đồi thấp và thung lũng tối om, thi thoảng lóe lên vì sấm chớp.
Ngày dài lê thê, và tôi nhận thức rõ rệt được rằng, một bước tiến sâu vào Shu Han hơn cũng là một bước xa Ravka hơn. Chúng tôi sẽ thấy gì khi trở về? Liệu Hắc Y đã tiến quân đến Tây Ravka chưa? Và nếu chúng tôi tìm thấy Hỏa Điểu, nếu cuối cùng ba bộ khuếch đại cũng được kết hợp, liệu tôi sẽ đủ mạnh để đối đầu với anh ta chứ? Đa phần, tôi nghĩ về Morozova và tự hỏi có phải ông cũng đã từng đi trên những con đường này, ngắm nhìn những những dãy núi này không. Khao khát được hoàn thành sứ mệnh mà mình đã bắt đầu có thúc đẩy ông như nỗi tuyệt vọng đang thúc đẩy tôi bây giờ, đang bắt tôi phải đặt chân này trước chân kia, phải cất thêm một bước, lội thêm một dòng sông, trèo thêm một quả đồi hay không?
Đêm đó, nhiệt độ xuống thấp khiến chúng tôi phải dựng lều. Zoya hình như cho rằng tôi nên là người làm việc ấy, dù lều là cho cả hai ngủ chung. Tôi đang chửi rủa đống vải bạt trước mặt thì Mal khẽ suỵt.
“Có người ở ngoài kia,” cậu ấy nói.
Chúng tôi đang ở trên một cánh đồng cỏ lau rộng lớn trải dài giữa hai ngọn đồi thấp trũng. Tôi nhìn về phía bóng tối, không thấy được chút gì, bèn hoang mang giơ tay toan triệu hồi.
Mal lắc đầu. “Khi nào cấp bách lắm hẵng ra tay,” cậu thì thầm.
Tôi gật đầu. Tôi không muốn cả bọn rơi vào tình trạng đã từng gặp với đám quân dân.
Mal nhặt súng trường lên rồi ra hiệu. Tolya rút gươm ra, và chúng tôi tụ họp lại, lưng đối lưng, chờ đợi.
“Harshaw,” tôi khẽ gọi.
Tôi nghe tiếng đá lửa của Harshaw đánh vào nhau. Hắn bước lên trước và dang tay ra. Một quầng lửa rực sáng xuất hiện. Nó vây quanh chúng tôi giữa vòng tròn bừng cháy, soi rõ khuôn mặt của mấy gã đàn ông đang ẩn nấp phía bên kia cánh đồng. Có năm, hoặc sáu người, mắt vàng và mặc áo lông cừu. Tôi thấy họ giương cung và ánh sáng lóe lên từ ít nhất một nòng súng.
“Làm đi,” tôi nói.
Zoya và Harshaw di chuyển cùng lúc, vung tay ra thành một vòng cung lớn, ngọn lửa cháy xuyên qua đám cỏ như một sinh vật sống, kết quả từ sức mạnh kết hợp của họ.
Tiếng người thét lên. Quầng lửa táp vào chúng như cái lưỡi đói ăn. Tôi nghe tiếng súng nổ, và bọn cướp quay đầu bỏ chạy. Harshaw và Zoya cho lửa đuổi theo chúng đến tận bên kia cánh đồng.
“Chúng có thể quay lại,” Tolya nói. “Dẫn theo nhiều đồng bọn hơn. Họ trả giá rất cao cho Grisha ở Koba.” Đấy là một thành phố nằm sát phía Nam biên giới.
Lần đầu tiên trong đời, tôi nghĩ đến cảm giác của Tolya và Tamar, không bao giờ có thể trở về quê cha đất tổ, ngoại nhân ở Ravka, ngoại nhân ở cả nơi đây.
Zoya rùng mình. “Ở Fjerda cũng chẳng khá hơn đâu. Có những thợ săn phù thủy không ăn động vật, không mang giày da hoặc giết nhện trong nhà, nhưng họ sẽ thiêu sống Grisha trên giàn thiêu.”
“Lương y ở Shu không đến nỗi,” Harshaw cất tiếng. Hắn vẫn đang đùa với đống lửa, thổi chúng thành vòng tròn hay những hình xoắn uốn lượn. “Ít nhất họ còn khử trùng dụng cụ của mình. Ở Du Hoang Đảo, họ nghĩ máu của Grisha là thuốc chữa bách bệnh - liệt dương, dịch hạch, bất kì thứ gì. Khi năng lực của anh trai tôi bộc lộ, họ cắt cổ và treo ngược anh ấy để lấy máu như một con lợn trong lò mổ.”
“Quỷ thần ơi, Harshaw,” Zoya rít lên.
“Tôi đã đốt trụi ngôi làng cùng tất cả người dân ở đó. Rồi lên thuyền ra khơi và không bao giờ nhìn lại.”
Tôi nghĩ đến giấc mơ Hắc Y từng ấp ủ, rằng chúng tôi có thể là người Ravka và không chỉ là Grisha. Anh ta đã cố tạo ra một nơi an toàn cho những người như chúng tôi, có thể là nơi duy nhất trên thế giới. Ta hiểu khao khát được tự do.
Đấy là lý do Harshaw tiếp tục chiến đấu? Lý do hắn chọn ở lại? Ắt hẳn hắn đã từng chung lý tưởng với Hắc Y. Hắn đã phó thác nó cho tôi rồi sao?
“Tối nay chúng ta sẽ gác đêm,” Mal nói, “và ngày mai sẽ đi xa về hướng Tây hơn.”
Hướng Tây đến Cera Huo, nơi những bóng ma canh giữ. Nhưng chúng tôi đã và đang lên đường cùng bóng ma của chính mình.
Không có dấu vết gì của bọn cướp vào sáng hôm sau, chỉ một cánh đồng bị thiêu rụi theo những đường kì dị.
Mal dẫn chúng tôi đi sâu hơn vào dãy núi. Khi mới bắt đầu hành trình, chúng tôi vẫn còn nhìn thấy đụn khói vòng vèo do ai đó đốt lửa nấu ăn hoặc bóng một ngôi nhà gỗ trên sườn đồi. Giờ chúng tôi hoàn toàn tách biệt, bạn đồng hành duy nhất là những con kì đà nằm phơi nắng trên đá và, chỉ một lần duy nhất, một bầy nai sừng tấm ăn cỏ trên cánh đồng phía xa.
Nếu dấu hiệu về Hỏa Điểu có tồn tại, chúng vô hình với tôi, nhưng tôi nhận ra sự im lặng của Mal, vẻ chăm chú chuyên tâm. Tôi đã nhìn thấy dáng vẻ ấy ở Tsibeya khi cả hai đang săn tìm con hươu đực, và lần thứ hai ở vùng nước trên Xương Đạo.
Theo như Tolya, Cera Huo được đánh dấu khác nhau trên bản đồ, và chúng tôi không có cách nào chắc chắn đấy sẽ là nơi tìm ra Hỏa Điểu. Nhưng nó đã cho Mal một phương hướng và giờ cậu ấy di chuyển theo phương cách chậm rãi, chắc chắn của mình, như thể mọi thứ nơi hoang dã nay đã quen thân với cậu, như thể cậu thấu hiểu mọi bí mật của chúng. Với những người khác, việc này đã trở thành một trò chơi, cố đoán xem cậu ấy sẽ đưa chúng tôi đi đâu.
“Cậu thấy gì hả?” Harshaw bực dọc hỏi khi Mal đổi hướng khỏi một đường mòn dễ đi.
Mal nhún vai. “Phải là tôi không thấy cái gì mới đúng.” Cậu chỉ về phía một đàn ngỗng đang bay về phương Nam thành hình mũi nhọn. “Đấy là cách lũ chim di cư, cách lũ thú rừng trốn dưới bụi rậm.”
Harshaw gãi gãi sau tai Oncat và thì thầm lớn tiếng, “Thế mà người ta bảo tao bị điên đấy.”
Từng ngày trôi qua, tôi mất dần kiên nhẫn. Chúng tôi có quá nhiều thời gian đi bộ mà không có gì khác để làm ngoài suy nghĩ, và chẳng có nơi nào an toàn để tôi chờ mong. Quá khứ ngập tràn kinh hãi, và tương lai chỉ hứa hẹn nỗi hốt hoảng khó thở dâng trào.
Sức mạnh của tôi đã từng được xem như phép màu, nhưng mỗi lần đối mặt với Hắc Y lại khiến tôi phát hiện khả năng của mình giới hạn đến đâu. Làm gì có trận chiến nào. Bất chấp cái chết tôi từng chứng kiến và nỗi tuyệt vọng tôi từng trải qua, tôi vẫn chưa hiểu thêm hay thành thạo merzost dù chỉ một chút. Tôi thấy mình chán ghét sự bình thản của Mal, cách cậu ấy cất bước đầy chắc chắn.
“Bồ có nghĩ nó ở ngoài đó không?” Tôi hỏi vào một buổi trưa khi cả bọn đang trú mưa dưới một cụm thông dày đặc chờ bão tan.
“Khó nói lắm. Bây giờ có khi mình chỉ đang đuổi theo một con diều hâu lớn thôi. Mình chủ yếu chỉ nghe theo linh cảm, và điều đó luôn khiến mình lo lắng.”
“Hình như bồ chẳng lo lắng tẹo nào. Bồ trông hoàn toàn thoải mái ấy.” Tôi có thể nghe thấy bực tức trong giọng nói.
Mal liếc tôi. “Nhờ vào việc không bị ai đe dọa xé xác đấy’’
Tôi không nói gì. Ý nghĩ về con dao của Hắc Y thật ra còn dễ chịu đựng - một nỗi sợ đơn giản, cụ thể, dễ kiểm soát.
Cậu nheo mắt nhìn cơn mưa. “Và còn một điều nữa, điều Hắc Y đã nói trong nhà thờ. Anh ta nghĩ anh ta sẽ cần mình để tìm ra Hỏa Điểu. Mình ghét phải thừa nhận, nhưng đấy là lý do mình biết mình có thể làm được, vì anh ta đã rất chắc chắn.”
Tôi hiểu cậu. Niềm tin nơi tôi của Hắc Y là một liều thuốc độc. Tôi đã muốn một sự bảo đảm, nhận thức rằng mọi thứ sẽ được xử lý, rằng ai đó sẽ nắm quyền kiểm soát. Sergei đã chạy về với Hắc Y để nhận được sự bảo đảm ấy. Tôi chỉ muốn cảm thấy an toàn một lần nữa.
“Khi thời điểm đến,” Mal hỏi, “bồ có thể giết con Hỏa Điểu không?”
Được. Tôi đã thôi chần chừ. Không phải chỉ vì chúng tôi không còn lựa chọn, hoặc vì có quá nhiều thứ phụ thuộc vào sức mạnh của nó. Tôi đã trở nên đủ nhẫn tâm hoặc đủ ích kỷ để lấy mạng một sinh vật khác. Nhưng tôi nhớ người con gái đã nhân từ với con hươu đực, người đủ mạnh mẽ để lánh xa cám dỗ của quyền lực, người đã tin vào một thứ cao cả hơn. Một mất mát nữa trong trận chiến này.
“Với mình nó vẫn có vẻ không thật,” tôi nói. “Và dù nó có tồn tại, chưa chắc thế đã đủ. Hắc Y có cả một đội quân. Anh ta có đồng minh. Chúng ta có…” Một nhóm người lạc lõng? Vài kẻ cuồng tín xăm mình? Dù có thêm sức mạnh của bộ khuếch đại, nghe vẫn chỉ là cuộc đấu không cân sức.
“Cảm ơn,” Zoya chua chát nói.
“Cô ấy nói đúng,” Harshaw đồng ý, hắn đang tựa lên một thân cây. Hắn để Oncat ngồi trên vai và đang thổi nên mấy khối lửa nhỏ nhảy múa trong không trung. “Tôi cũng chả muốn làm gì nhiều.”
“Ý tôi không phải thế,” tôi phản đối.
“Như vậy đủ rồi,” Mal nói. “Chúng ta sẽ tìm ra Hỏa Điểu. Bồ sẽ đối đầu với Hắc Y. Chúng ta sẽ đấu với anh ta, và chúng ta sẽ thắng.”
“Rồi sau đó?” Khủng hoảng lại ập đến với tôi. “Dù chúng ta đánh thắng Hắc Y và mình hủy diệt Vực Tối, Ravka vẫn yếu thế.” Không có hoàng tử Lantsov dẫn dắt. Không Hắc Y. Chỉ một cô nhi ốm yếu từ Keramzin với đội quân chắp vá mà tôi góp nhặt được từ những Grisha còn sống và tàn dư của Thượng Quân.
“Lão Tư Tế,” Tolya đề nghị. “Lão có thể không đáng tin, nhưng môn đồ của cô thì có.”
“Và David nghĩ anh ta có thể chữa lành cho Nikolai,” Zoya thêm vào.
Tôi quay về phía cô ấy, giận dữ trào dâng. “Cô nghĩ Fjerda sẽ đợi chúng ta tìm ra thuốc chữa à? Còn nước Shu thì sao?”
“Thì bồ sẽ tìm đồng minh mới,” Mal bảo.
“Bán sức mạnh của mình cho người đấu giá cao nhất?”
“Bồ thương lượng. Đề ra điều kiện của chính bồ.”
“Vất ra một hợp đồng hôn nhân, chọn một quý tộc Fjerdan hay tướng quân nước Shu? Mong rằng người chồng mới sẽ không ám sát mình trong lúc ngủ?”
“Alina…”
“Và bồ sẽ đi đâu?”
“Mình sẽ ở cạnh bồ chừng nào bồ cho phép.”
“Mal cao quý. Bồ sẽ đứng canh bên ngoài phòng ngủ của chúng mình vào ban đêm chứ?” Tôi biết mình thật bất công, nhưng lúc ấy tôi chẳng buồn quan tâm nữa.
Cậu ấy nghiến hàm. “Mình sẽ làm những gì mình phải làm để bảo vệ bồ.”
“Cúi đầu xuống. Thực hiện nhiệm vụ.”
“Đúng.”
“Chân này trước chân kia. Tiến bước tìm Hỏa Điểu. Hành quân như một chiến binh thực thụ.”
“Đúng vậy, Alina. Mình là một chiến binh.” Tôi tưởng cuối cùng cậu ấy sẽ cáu lên và cãi nhau như tôi muốn, điều tôi đang cần. Thay vào đó, cậu ấy đứng dậy giũ nước khỏi áo. “Và mình sẽ tiếp tục lên đường vì Hỏa Điểu là tất cả những gì mình có thể cho bồ. Không tiền. Không quân đội. Không thành trì trên đỉnh núi.” Cậu ấy vác hành lý lên vai. “Đây là tất cả những gì mình có thể cho bồ. Cái khả năng cũ rích này.” Cậu ấy bước ra ngoài màn mưa. Tôi không chắc mình muốn chạy theo cậu và xin lỗi hay xô cậu ngã dập mặt xuống bùn nữa.
Zoya yểu điệu nhún một bên vai. “Tôi thích có ngọc lục bảo hơn.”
Tôi nhìn cô ta chằm chằm, rồi lắc đầu và để thoát ra tiếng cười xen lẫn thở dài. Cơn giận làm tôi mờ mắt, khiến tôi thấy mình nhỏ mọn và xấu hổ. Mal không đáng bị như thế. Không ai trong số họ đáng bị như thế.
“Xin lỗi,” tôi lẩm bẩm.
“Có lẽ cô đang đói,” Zoya nói. “Mỗi khi đói bụng tôi xấu tính lắm.”
“Thế lúc nào cô cũng đói à?” Harshaw hỏi.
“Anh vẫn chưa thấy tôi xấu tính hẳn hoi đâu. Khi thấy rồi anh sẽ cần đến một chiếc khăn cỡ lớn đấy.”
Hắn khịt mũi. “Để lau nước mắt?”
“Để cầm máu.”
Lần này tôi thật sự bật cười. Không hiểu sao một chút mỉa mai của Zoya lại chính là thứ tôi cần. Rồi, bất chấp mọi lý trí, tôi hỏi cô ta câu mình đã muốn hỏi gần một năm nay. “Cô và Mal, hồi ở Kribirsk…”
“Đúng vậy.”
Tôi biết điều đó, và tôi biết trước cô ta cũng có nhiều người khác, nhưng nó vẫn khiến tôi đau nhói. Zoya liếc sang tôi, hàng mi đen dài lấp lánh nước mưa. “Nhưng kể từ dạo đó thì không,” cô ta hằn học nói, “và không phải vì tôi không cố gắng đâu. Nếu có gã đàn ông nào từ chối được tôi thì đúng là trời sập.”
Tôi đảo mắt. Zoya chọt tay tôi bằng ngón tay thon dài. “Anh ta đã không ngủ với ai nữa, đồ ngốc. Cô có biết bọn con gái ở Giáo Hội Trắng gọi cậu ta là gì không? Beznako.”
Một gã vô vọng.
“Nghĩ cũng buồn cười,” Zoya trầm tư nói. “Tôi hiểu vì sao Hắc Y và Nikolai muốn có sức mạnh của cô. Nhưng Mal nhìn cô như thể… chậc, như cô là tôi ấy.”
“Không, không hề,” Tolya nói. “Cậu ta nhìn cô ấy như cách Harshaw nhìn ngọn lửa. Như thể cậu ta không bao giờ thấy đủ. Như thể cậu ta đang cố nắm bắt những gì mình có thể trước khi cô ấy biến mất.”
Zoya và tôi trố mắt nhìn anh ta. Rồi cô ấy nhăn mặt. “Này, nếu anh thơ thẩn được một chút như thế với tôi, tôi có thể cân nhắc về việc cho anh một cơ hội đấy.”
“Ai bảo cô là tôi cần nó?”
“Tôi muốn!” Harshaw reo lên.
Zoya thổi bay một lọn tóc ẩm trên trán. “Oncat còn có cơ hội hơn anh.”
Harshaw bế cao con mèo tam thể lên trước mặt. “Tại sao hở, Oncat,” hắn nói. “Con nhóc ranh này.”
Càng đến gần khu vực mà Cera Huo tồn tại trong lời đồn, chúng tôi càng nhanh chân. Mal trở nên im lặng hơn, đôi mắt xanh của cậu liên tục đảo qua ngọn đồi. Tôi nợ cậu một lời xin lỗi, nhưng dường như tôi không thể tìm được thời điểm thích hợp để nói ra.
Gần đúng một tuần sau khi lên đường, chúng tôi đã bắt gặp một lòng sông nhỏ khô hạn chảy giữa hai bên vách đá. Chúng tôi đi dọc theo nó gần mười phút trước khi Mal quỳ xuống và đưa tay lần mò lớp cỏ.
“Harshaw,” cậu nói, “anh có thể đốt bỏ mấy bụi rậm này không?”
Harshaw đánh đá và một quầng lửa thấp màu xanh phạt qua lòng sông hẹp, để lộ một lớp đá trải đều đến mức chỉ có thể do người làm. “Là một con đường,” cậu ấy ngạc nhiên thốt lên.
“Ở đây sao?” tôi hỏi. Tất cả những gì chúng tôi đi qua sau hàng dặm đều là những dãy núi trống trơn.
Chúng tôi giữ cảnh giác, tìm dấu hiệu của những gì từng tồn tại trước đó, mong tìm thấy vài ký tự điêu khắc, có thể là những bệ thờ tí hon được tạc vào đá ở gần Dva Stolba, nôn nóng tìm ra bằng chứng cho thấy chúng tôi đi đúng hướng. Nhưng bài học duy nhất giấu sau những tảng đá chỉ là bao thành phố được dựng nên rồi sụp đổ và bị lãng quên. Cô sống trong một khoảnh khắc. Ta sống qua cả ngàn đời. Tôi có thể sống lâu đến mức nhìn thấy Os Alta trở về cát bụi. Hoặc có thể tôi có thể dùng sức mạnh kết liễu chính mình trước đó. Cuộc sống sẽ thế nào khi những người tôi yêu không còn nữa? Khi những bí ẩn không còn nữa?
Chúng tôi đi đến nơi có vẻ là cuối con đường, chôn vùi dưới đống đá được cỏ xanh và hoa dại màu vàng bao phủ. Chúng tôi trèo qua nó, và khi lên đến đỉnh, một cơn ớn lạnh như thấu vào xương tôi.
Khung cảnh tựa hồ đã bị tước mất sắc màu. Cánh đồng trước mắt chúng tôi là một bãi cỏ xám xịt. Một dãy đổi chạy ngang đường chân trời, rừng cây phủ lấp, vỏ cây trơn nhẵn và sáng bóng như đá mài, những nhánh cây không lá chĩa tứ tung. Nhưng kì lạ nhất chính là cách chúng mọc lên, những đường thẳng tắp hoàn hảo cách đều nhau, như thể được ai trồng.
“Trông quái gở thật,” Harshaw nói.
“Đấy là dãy cây quân đội,” Mal nói. “Chúng mọc lên vậy thôi, như đang xếp hàng vậy.”
“Đó không phải lý do duy nhất,” Tolya cất tiếng. “Đây là rừng tần bì. Cổng vào Cera Huo.”
Mal lấy bản đồ ra. “Tôi không thấy nó đâu hết.”
“Có một câu chuyện. Từng có một cuộc thảm sát ở nơi này.”
“Một trận chiến?” Tôi hỏi.
“Không. Một đạo quân nước Shu bị kẻ thù đưa đến đây. Họ là tù binh chiến tranh.”
“Kẻ thù nào?” Harshaw thắc mắc.
Tolya nhún vai. “Người Ravka, Fjerda, có thể những người Shu khác. Chuyện lâu lắm rồi.”
“Chuyện gì đã xảy ra với họ?”
“Họ bị bỏ đói, và khi thèm khát đến cực hạn, họ ăn thịt lẫn nhau. Đồn rằng người cuối cùng sống sót đã trồng cây để tưởng nhớ đồng đội của mình. Và giờ họ chờ những lữ khách đến thật gần mấy nhánh cây, để họ có thể ăn một bữa cuối cùng.”
“Tuyệt vời,” Zoya càu nhàu. “Nhớ nhắc tôi đừng bao giờ bảo anh kể chuyện cho nghe trước khi ngủ nhé.”
“Chỉ là truyền thuyết thôi,” Mal nói. “Tôi từng thấy loại cây đó gần Balakirev rồi.”
“Cũng mọc theo lối đó?” Harshaw hỏi.
“Không giống lắm.”
Tôi nhìn vào những cái bóng trong rừng. Quả thật hàng cây trông y hệt một trung đoàn đang hành quân về phía chúng tôi. Tôi đã nghe qua vài câu chuyện tương tự về khu rừng gần Duva, rằng trong những mùa đông dài đằng đẵng, cánh rừng sẽ bắt cóc con gái để ăn thịt. Mê tín, tôi tự nhủ, nhưng tôi không muốn đi thêm một bước nào về phía triền đồi ấy.
“Nhìn kìa!” Harshaw thốt lên.
Tôi dõi theo ánh mắt hắn. Ở ngay đó, giữa bóng tối của những tàng cây, thứ gì đó màu trắng đang chuyển động, một hình thể phấp phới cứ bay lên rồi hạ xuống, len lỏi giữa nhánh cây.
“Còn nữa,” tôi thở dốc, chỉ về hướng một cụm trắng đang tỏa sáng lung linh, rồi biến mất vào thinh không.
“Không thể nào,” Mal nói.
Một cụm khác xuất hiện giữa đám cây, rồi một cụm nữa.
“Tôi không thích việc này,” Harshaw nói. “Tôi không thích việc này chút nào.”
“Ôi, lạy Chúa,” Zoya khinh bỉ. “Các người đúng là lũ quê mùa.”
Cô ta giơ tay, và một luồng gió lớn thổi tung ngọn núi. Những cụm trắng dường như rút lui. Rồi Zoya cong tay, và chúng lao về phía chúng tôi dưới dạng một đám mây rền rĩ.
“Zoya…”
“Thư giãn đi,” cô ta trấn an.
Tôi giơ tay lên nhằm đỡ cái thứ kinh khủng mà Zoya vừa thổi ập xuống người. Đám mây nổ tung. Nó vỡ ra thành những bông tuyết vô hại rồi rơi xuống mặt đất xung quanh chúng tôi.
“Tro?” Tôi vươn ra bắt lấy vài bông tuyết trên ngón tay. Chúng mềm mịn và trắng tinh, màu của phấn.
“Chỉ là một hiện tượng thời tiết thôi, Zoya nói, biếng nhác thổi tro bay lên thành hình xoắn ốc. Chúng tôi quay lại nhìn ngọn đồi. Những đám mây trắng vẫn tiếp tục di chuyển thành từng cụm luân phiên, nhưng giờ khi chúng tôi đã biết rõ thực hư, chúng dường như bớt ghê rợn hơn chút. “Đừng nói cô tưởng chúng là ma thật đấy nhé?”
Tôi đỏ mặt và Tolya hắng giọng. Zoya đảo mắt rồi sải bước về phía đồi. “Tôi bị vây quanh bởi lũ ngốc.”
“Khi nãy nhìn chúng ma quái thật mà,” Mal nhún vai nói.
“Giờ vẫn thế,” tôi lầm bầm.
Trong lúc leo lên đồi, những đợt gió kì lạ thảng hoặc ập đến với chúng tôi, nóng rồi lạnh. Bất chấp những gì Zoya nói, khu rừng vẫn là một nơi đáng sợ. Tôi né xa tầm với của những nhánh cây và cố không để ý việc hai cánh tay đang sởn hết da gà. Mỗi lần một cụm trắng bay đến gần, tôi lại nhảy dựng lên và Oncat rít lên từ trên vai Harshaw.
Khi cuối cùng cũng đến được đỉnh đồi, chúng tôi nhận ra hàng cây kéo dài xuống tận thung lũng, dù những nhánh cây ở đây xum xuê lá tím, hàng ngũ của chúng trải rộng khắp quang cảnh phía dưới như nếp gấp áo choàng của một Sáng Chế Gia. Nhưng đấy không phải điều khiến chúng tôi dừng chân.
Trước mắt chúng tôi là một vách đá cao vợi. Trông nó giống như bức tường của một thành trì khổng lồ hơn một phần của ngọn núi. Nó đen nhẵn và khổng lồ, trên đỉnh gần như bằng phẳng, đá mang màu xám đậm của sắt. Một mớ cây chết hỗn độn nằm dưới chân vách. Vách đá bị chẻ đôi ngay chính giữa bởi một thác nước ầm ầm đổ xuống mặt hồ trong đến nỗi chúng tôi có thể nhìn thấy đá ở dưới đáy. Hồ nước trải rộng gần bằng chiều dài thung lũng, bao quanh là những hàng cây quân đội nở rộ, rồi dường như biến mất dưới lòng đất.
Chúng tôi tìm đường xuống thung lũng, đạp lên những vũng và lạch nhỏ, tiếng ào ào của thác nước inh ỏi bên tai. Khi đến cái hồ lớn nhất, cả bọn dừng lại để đổ đầy bi đông và dấp nước rửa mặt.
“Nó đây à?” Zoya hỏi. “Cera Huo?”
Đặt Oncat qua một bên, Harshaw nhấn đầu xuống nước. “Có thể,” hắn nói. “Tiếp theo là gì?”
“Đi lên, tôi nghĩ vậy,” Mal nói.
Tolya chăm chú nhìn vách đá trơn nhẵn. Bề mặt của nó ướt đẫm vì hơi nước từ thác. “Chúng ta phải đi đường vòng. Không leo trực tiếp được đâu.”
“Để sáng mai,” Mal đáp lại. “Leo trèo vào ban đêm ở địa hình thế này quá nguy hiểm.”
Harshaw nghiêng đầu sang bên. “Chúng ta nên cắm trại ở chỗ nào xa hơn.”
“Tại sao?” Zoya gặng hỏi. “Tôi mệt rồi.”
“Oncat không thích khung cảnh này.”
“Con mèo tam thể đó có ngủ ở dưới đáy hồ tôi cũng không quan tâm,” cô ta gắt.
Harshaw chỉ trỏ tay về mớ cây khô chất quanh chân vách. Hóa ra đấy chẳng phải cây khô gì sất. Chúng là một đống xương.
“Quỷ thần ơi,” Zoya nói, lùi bước về sau. “Xương người hay xương thú thế?”
Harshaw chĩa ngón cái qua vai. “Tôi vừa thấy một đống đá cuội trông khá hay ho ở đằng đó đấy.”
“Mau đi thôi,” Zoya bảo. “Ngay bây giờ.”
Chúng tôi nhanh chân rời khỏi thác nước, xuyên qua rừng cây và lên vách thung lũng.
“Có thể đống tro ấy đến từ núi lửa,” tôi cố vớt vát. Trí tưởng tượng của tôi rối tung cả lên, và tôi đột nhiên chắc rằng tàn tro của những người chết cháy đang vương trên tóc mình.
“Cũng có thể,” Harshaw đồng ý. “Biết đâu có hoạt động núi lửa gần đây. Có thể đấy là lý do nó được gọi là Thác Lửa.”
“Không,” Tolya phản đối. “Đây mới là lý do.”
Tôi ngoái nhìn sau vai xuống thung lũng bên dưới. Trong ánh chiều tà, thác nước đã chuyển thành suối vàng tuôn chảy. Có khi do sương mù hoặc góc độ đánh lừa thị giác, nhưng trông nó như thể nguồn nước đã thật sự bắt lửa. Mặt trời hạ thấp dần, rọi sáng từng vũng nước, biến thung lũng thành một nồi nung kim loại.
“Không thể tin được,” Harshaw rên rỉ. Mal và tôi liếc nhìn nhau. Thật may cho chúng tôi nếu hắn không cố lao mình vào đó.
Zoya vất hành lý xuống đất rồi ngồi phịch lên nó. “Anh cứ việc giữ lấy cái khung cảnh chết tiệt ấy đi. Tất cả những gì tôi muốn là một chiếc giường ấm cúng cùng ly rượu vang thôi.”
Tolya cau mày. “Đây là đất thánh.”
“Tuyệt,” cô ta đốp lại chua chát. “Để xem anh có cầu nguyện cho tôi được một đôi tất khô ráo không.”