← Quay lại trang sách

Chương 14

Rạng sáng hôm sau, khi những người khác dập lửa và gặm mấy mẩu bánh khô khốc, tôi mặc áo vào và lùi ra xa một chút để quan sát thác nước. Hơi nước dày đặc trong thung lũng. Từ đây, đống xương dưới chân vách trông giống hệt cây khô. Không ma quỷ. Không đốm lửa. Tựa hồ một chốn thinh lặng, một nơi để nghỉ chân.

Chúng tôi đang thu dọn mấy chiếc lều lấm đầy tro khi nghe thấy âm thanh ấy - một tiếng kêu lảnh lót và chói tai, vang vọng khắp bình minh. Chúng tôi khựng lại, im lặng, chờ xem nó có phát lên lần nữa không.

“Có thể chỉ là một con diều hâu,” Tolya cảnh cáo.

Mal không nói gì. Cậu vác súng trường lên vai và lao vào rừng sâu. Chúng tôi phải gấp rút mới đuổi kịp cậu.

Việc trèo lên thác trở lại khiến chúng tôi mất một khoảng khá lâu. Dốc đứng và hiểm hóc, dù chân tôi đã chai sạn và quen dần với địa hình trắc trở, tôi vẫn thấy đuối sức. Cơ bắp tôi đau nhức dưới sức nặng hành lý, và bất chấp khí lạnh trong không trung, mồ hôi vẫn nhễ nhại trên trán.

“Lúc bắt được con quỷ này,” Zoya thở dốc, “tôi sẽ biến nó thành món thịt hầm.”

Tôi có thể nhận ra sự phấn khích lan khắp cả bọn, cảm giác chúng tôi đã ở gần lắm rồi, và chúng tôi buộc mình leo lên núi nhanh hơn. Ở một số chỗ, dốc đứng gần như thẳng băng. Chúng tôi phải trèo lên cao bằng cách bám chặt vào những rễ cây xiêu vẹo hay bấu chặt tay vào đó. Một lúc sau, Tolya lôi những chiếc đinh sắt ra và đóng chúng vào vách núi để chúng tôi có thể dùng tạm như một cái thang.

Cuối cùng, đến buổi chiều, chúng tôi đã kéo lê thân mình lên một mép đá lởm chởm và đặt chân lên đỉnh cao bằng phẳng của vách đá, bề mặt bóng nhẵn những lớp đá và rêu, trơn trượt vì hơi nước và nứt nẻ bởi thủy triều sủi bọt của con sông.

Nhìn ra phía Bắc, bên kia thác nước dốc đứng, chúng tôi có thể thấy lộ trình mình đã đi - dải thung lũng phía xa, cánh đồng xám dẫn tới rừng cây tần bì, mặt đường cũ kỹ lồi lõm, và xa hơn nữa, những cơn bão đang vần vũ phía trên triền dốc thoai thoải rợp cỏ. Và chúng chỉ là những triền dốc. Giờ đã quá rõ ràng. Vì nếu rẽ về hướng Nam, chúng tôi sẽ chứng kiến khung cảnh thật sự của dãy núi, đỉnh Sikurzoi rộng lớn, tinh khôi, nguồn cơn của trận tuyết lở đổ xuống Cera Huo.

“Chúng kéo dài đến vô tận,” Harshaw mệt mỏi cất tiếng.

Chúng tôi đi đến hai bên dốc đứng. Thật khó mà vượt qua chúng, và tôi không chắc làm thế liệu có ý nghĩa gì. Chúng tôi có thể nhìn thấy phía bên kia, nơi cuối vách đá. Chẳng có gì ở đó. Bình nguyên hoàn toàn trống trải, rõ ràng và thất vọng.

Gió thổi mạnh hơn, luồn qua tóc tôi và hơi nước tạt vào má tôi đau rát. Tôi liếc về dãy núi trắng toát ở phía Nam. Mùa thu đã qua và đông đang trên đường tới. Chúng tôi đã đi được một tuần. Nếu có chuyện gì xảy đến với những người còn lại ở Dva Stolba thì sao?

“Nào,” Zoya tức tối gặng hỏi, “nó đâu rồi?”

Mal rảo bước đến rìa thác và nhìn ra ngoài thung lũng.

“Tôi tưởng anh là người dò đường giỏi nhất trên khắp Ravka,” cô ta nói. “Giờ chúng ta đi đâu đây?”

Mal xoa gáy. “Ngọn núi này không có thì tìm ngọn núi khác. Đấy là cách chúng ta tìm kiếm, Zoya.”

“Đến chừng nào?” cô ta hỏi tới. “Chúng ta không thể cứ thế này được.”

“Zoya,” Tolya cảnh cáo.

“Sao chúng ta biết được con vật này thật sự tồn tại chứ?”

“Cô đang trông đợi gì hả?” Tolya hỏi. “Một cái tổ?”

“Tại sao không? Một cái tổ, một chiếc lông, một đống phân còn ấm. Thứ gì đó. Bất cứ thứ gì”

Zoya là người nói câu đó, nhưng tôi nhận ra nỗi mệt mỏi và thất vọng nơi những người khác. Tolya sẽ đi tiếp đến khi gục ngã. Nhưng tôi không chắc Harshaw và Zoya có thể gắng sức nữa không.

“Nơi đây ướt quá không cắm trại được đâu,” tôi nói. Tôi chỉ về phía cánh rừng đằng sau bình nguyên nơi cây cối mọc bình thường, lá cây lấp lánh hai màu đỏ vàng. “Cứ đi về phía đó đến khi tìm ra chỗ nào khô ráo. Đốt lửa lên. Chúng ta sẽ nghĩ cách sau khi ăn tối. Có lẽ đến lúc chia nhóm rồi.”

“Cô không thể tiến sâu vào lãnh địa Shu Han mà không có bảo vệ được,” Tolya phản đối.

Harshaw không nói gì, chỉ dụi dụi Oncat và không nhìn vào mắt tôi.

“Chúng ta không cần quyết định ngay bây giờ. Cứ dựng trại đã.”

Một cách cẩn thận, tôi đến chỗ rìa đá để đứng cạnh Mal. Dốc đứng làm tôi chóng mặt, nên tôi nhìn ra phía xa. Nếu nheo mắt lại, tôi nghĩ mình có thể trông thấy cánh đồng cháy rụi mà mình đã đuổi cổ bọn cướp, nhưng đấy có thể là tưởng tượng.

“Mình xin lỗi,” cuối cùng cậu ấy nói.

“Đừng xin lỗi. Biết đâu chẳng có Hỏa Điểu nào thì sao.”

“Bồ không nghĩ thế.”

“Ừ, nhưng có lẽ chúng ta không thể tìm được nó.”

“Bồ cũng không nghĩ thế.” Cậu ấy thở dài. “Chiến binh thực thụ gì chứ.”

Tôi nhăn mặt. “Đáng ra mình không nên nói thế.”

“Bồ từng bỏ phân ngỗng vào giày của mình, Alina. Vài câu giận dỗi có là gì.” Cậu ấy liếc sang tôi và nói, “Chúng mình đều biết những gánh nặng bồ đang mang. Bồ không phải chịu đựng một mình đâu.”

Tôi lắc đầu. “Bồ không hiểu. Bồ không thể hiểu.”

“Có lẽ không. Nhưng mình từng chứng kiến nó xảy ra với những đồng đội trong đơn vị. Bồ cứ cất giữ tất cả thịnh nộ lẫn đau thương ấy. Dần dà chúng sẽ đẩy tràn. Hoặc bồ sẽ chết chìm trong đấy.”

Cậu ấy đã nói điều tương tự với tôi khi cả bọn vừa đến khu mỏ, khi cậu ấy bảo những người còn lại cần tiếc thương cùng tôi. Tôi cũng cần nó, dù tôi không muốn thừa nhận. Tôi cần ở cùng ai đó. Và cậu ấy đúng. Tôi thật sự đã cảm thấy mình đang chết chìm, nỗi sợ vây chặt lấy tôi như đại dương băng giá.

“Chuyện không dễ dàng đến vậy,” tôi nói. “Mình không giống họ. Mình không giống ai cả.” Tôi ngần ngại rồi thêm vào, “Trừ anh ta.”

“Bồ không giống Hắc Y chút nào.”

“Có chứ, kể cả khi bồ không muốn nhìn nhận chuyện đó.”

Mal nhướng mày. “Vì anh ta quyền năng và nguy hiểm và bất tử?” Cậu ấy cất tiếng cười buồn. “Nói mình nghe đi. Hắc Y sẽ tha thứ cho Genya chứ? Hay Tolya và Tamar? Hoặc Zoya? Hoặc mình?”

“Chúng ta thì khác,” tôi đáp. “Tin tưởng ai đó khó hơn nhiều.”

“Mình có tin này cho bồ đây, Alina. Với ai cũng khó như nhau.”

“Bồ không…”

“Mình biết, mình biết. Mình không hiểu. Mình chỉ biết bồ không thể nào tránh nỗi đau khi sống - bất chấp cuộc đời dài ngắn thế nào. Người khác làm bồ thất vọng. Bồ tổn thương và tổn thương lại họ. Nhưng những gì Hắc Y đã làm với Genya? Với Baghra? Những gì anh ta cố làm với bồ bằng chiếc vòng cổ ấy? Đấy là sự nhu nhược. Là một gã đàn ông run sợ.” Cậu ấy nhìn về phía thung lũng. “Mình có thể sẽ không bao giờ hiểu được cảm giác sống chung với sức mạnh của bồ, nhưng mình biết bồ mạnh mẽ hơn thế. Và mọi người cũng biết rõ điều đó,” cậu ấy nói và gật đầu về hướng những người còn lại đã đến dựng trại. “Đấy là lý do chúng mình ở đây, kề vai chiến đấu cùng bồ. Đấy là lý do Zoya và Harshaw sẽ than vãn cả đêm, nhưng ngày mai họ sẽ ở lại.”

“Bồ nghĩ vậy ư?”

Cậu ấy gật đầu. “Chúng mình sẽ ăn tối, đi ngủ, và rồi xem xem chuyện gì xảy ra tiếp theo.”

Tôi thở dài. “Cứ đi tiếp thôi.”

Cậu ấy đặt một tay lên vai tôi. “Bồ tiến về phía trước, và khi vấp ngã, bồ đứng dậy. Và khi bồ không thể, bồ để chúng mình đỡ bồ đi tiếp. Bồ để mình đỡ bồ đi tiếp.” Cậu ấy bỏ tay xuống. “Đừng ở ngoài đây lâu quá,” cậu nói, rồi quay lưng sải bước về phía bình nguyên.

Mình sẽ không làm bồ thất vọng nữa đâu.

Đêm trước khi Mal và tôi tiến vào Vực Tối lần đầu tiên, cậu ấy đã hứa rằng chúng tôi sẽ sống sót. Chúng ta sẽ không sao hết, cậu ấy bảo tôi. Lúc nào cũng vậy mà. Những năm sau đó, chúng tôi đã bị tra tấn và hành hạ, vỡ nát và hồi phục. Có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ thấy ổn nữa, nhưng khi ấy tôi cần được nghe lời nói dối đó, và giờ tôi vẫn cần. Nó giúp chúng tôi đứng vững, giúp chúng tôi đấu tranh sống qua ngày khác. Đấy là điều chúng tôi đã làm suốt cuộc đời.

Mặt trời bắt đầu lặn. Tôi đứng ở rìa thác, lắng nghe tiếng nước chảy. Trong lúc vầng thái dương hạ dần, thác nước dần bén lửa, và tôi dõi theo những hồ nước trong thung lũng chuyển sang màu hoàng kim. Tôi rướn người qua dốc đá, nhìn thấy đống xương bên dưới. Con vật mà Mal đang săn đuổi, nó thật sự rất lớn. Tôi ngó qua làn hơi nước bốc lên từ những tảng đá ngay dưới chân thác. Cách nó dâng trào và uốn lượn, như thể nó là một sinh vật sống, như thể nó…

Thứ gì đó ập đến chỗ tôi. Tôi lảo đảo giật lùi và ngã xuống, xương cụt đập mạnh lên mặt đất. Có tiếng kêu xé toạc không gian.

Tôi đảo mắt nhìn lên trời. Một đôi cánh khổng lồ đang chao lượn ngay trên đầu tôi thành hình vòng cung rộng lớn.

“Mal!” tôi hét to. Hành lý của tôi ở ngoài bờ đất, bên cạnh súng trường và cung tên. Tôi lao tới chỗ chúng, và Hỏa Điểu xông thẳng vào tôi.

Nó to lớn và trắng toát như con hươu đực cùng Hải Long, đôi cánh miên man nhuộm lửa vàng. Chúng đập vào không trung, tạo gió đẩy tôi lùi về sau. Tiếng nó âm vang khắp thung lũng khi nó hé mở cái mỏ khổng lồ. Đủ lớn để ngoạm đứt tay tôi sau một cú táp mỏ, có thể cả đầu tôi. Móng vuốt của nó lóe sáng, dài và nhọn.

Tôi giơ tay định dùng Vết Cắt, nhưng tôi không thể giữ thăng bằng. Tôi trượt chân và thấy mình loạng choạng ngã về phía mép vực - hông, rồi đến đầu, đập vào tảng đá ẩm ướt. Đống xương ấy, tôi nghĩ. Ôi, lạy thánh, đống xương dưới chân thác. Hóa ra người ta chết vì thế.

Tôi bấu vào mảng đá trơn tuột, cố tìm chỗ bám - rồi tôi rơi xuống.

Tiếng thét của tôi nghẹn lại trên môi khi cánh tay gần như bị trật khớp. Mal chộp lấy bên dưới khuỷu tay. Cậu ấy đang nằm sấp, người nhô khỏi rìa đá, Hỏa Điểu lượn vòng ngay phía trên trong luồng sáng nhạt nhòa.

“Mình giữ được bồ rồi!” cậu ấy hét, nhưng tay cậu ấy dần trượt khỏi làn da trơn ẩm của tôi.

Chân tôi đung đưa giữa trời, tim đập thình thịch trong lồng ngực. “Mal…” tôi tuyệt vọng nói.

Cậu ấy rướn ra xa hơn. Hai chúng tôi sắp rơi.

“Mình giữ được bồ rồi,” cậu ấy lặp lại, đôi mắt xanh ngời sáng. Đầu ngón tay của cậu quấn quanh cổ tay tôi.

Luồng điện chạy dọc người chúng tôi cùng lúc, cơn sốc rõ rệt chúng tôi đã cảm thấy vào cái đêm trong khu rừng gần banya. Cậu ấy rụt lại. Lần này chúng tôi không còn lựa chọn nào ngoài việc giữ tay thật chặt. Chúng tôi nhìn vào mắt nhau, và sức mạnh dâng trào giữa cả hai, rực rỡ và khó tránh. Tôi có cảm giác một cánh cửa đã bật mở, và tất cả những gì tôi muốn là bước qua đó - mùi vị phấn chấn hoàn hảo và lạc quan này không là gì so với thứ ở phía bên kia. Tôi quên mất mình ở đâu, quên tất cả ngoài khát khao được bước qua ngưỡng cửa, để chiếm hữu nguồn năng lượng ấy.

Và cùng với tham vọng là nhận thức kinh khủng cực kỳ. Không, tôi đau đớn cầu xin. Không phải thế này.

Nhưng đã quá trễ. Tôi biết.

Mal nghiến răng. Tôi thấy cậu siết chặt tay hơn. Xương của tôi cọ vào nhau. Nguồn năng lượng bùng cháy gần như khó chịu đựng, một tiếng than van âm ỉ lấp đầy tâm trí tôi. Tim tôi đập mạnh tưởng chừng không chịu nổi. Tôi cần vượt qua.

Rồi, một cách nhiệm màu, cậu ấy kéo tôi lên cao hơn, từng chút một. Tôi bám vào mảnh đá bằng bàn tay còn lại, quờ quạng tìm đỉnh thác, và cuối cùng cũng chạm vào nó. Mal giữ lấy hai cánh tay tôi, và tôi lảo đảo trèo lên bình nguyên an toàn.

Ngay khi Mal buông tay, luồng năng lượng rung động bỗng chốc dịu lại. Chúng tôi lê bước khỏi vách đá, từng thớ cơ run rẩy, thở dốc từng ngụm khí.

Tiếng kêu vang vọng ấy lại đến. Hỏa Điểu lao xuống chỗ chúng tôi. Cả hai chống gối nhỏm dậy. Mal không có thời gian giương cung. Cậu ấy chắn mình trước mặt tôi, hai tay dang rộng trong lúc Hỏa Điểu rít lên và nhào tới, móng vuốt chĩa thẳng về phía cậu.

Cú va chạm không bao giờ đến. Hỏa Điệu chợt khựng lại, móng vuốt cách ngực Mal một khoảng nhỏ. Nó đập cánh một, hai lần, đẩy chúng tôi ra xa. Thời gian như chậm lại. Tôi có thể thấy hình ảnh của cả hai phản chiếu trong đôi mắt lớn màu vàng của nó. Mỏ nó sắc như dao, và lông nó dường như tỏa rạng với nguồn sáng của riêng mình. Dù đang sợ hãi, tôi vẫn nhìn say đắm. Hỏa Điểu là Ravka. Chúng tôi quỳ trước nó là đúng.

Nó kêu thêm một tiếng chói tai nữa, rồi quay đi và vỗ cánh, bay vút về phía chạng vạng ngoài xa.

Một khoảng dài yên lặng trôi qua. Rồi Mal nói, “Chúng ta không săn tìm nó nữa.”

Cậu ấy biết. Cũng như tôi. Cậu ấy biết.

“Chúng ta phải rời khỏi đây,” cậu nói. “Nó vẫn có thể quay lại.”

Tôi lờ mờ nhận ra những người khác đang chạy về phía mình trên nền đá trơn trượt trong lúc hai đứa đứng thẳng dậy. Chắc họ đã nghe tiếng tôi hét.

“Nó kìa!” Zoya hét lên, chỉ về phía cái bóng mờ dần của Hỏa Điểu. Cô ấy giơ tay cố kéo nó lại bằng một luồng gió mạnh.

“Zoya, dừng lại,” Mal bảo. “Để nó đi đi.”

“Tại sao? Chuyện gì đã xảy ra? Sao anh không giết nó?”

“Nó không phải bộ khuếch đại.”

“Sao anh biết được?”

Không ai trong chúng tôi trả lời.

“Chuyện gì đang diễn ra vậy?” cô ấy la to.

“Là Mal,” cuối cùng tôi nói.

“Mal gì cơ?” Harshaw hỏi.

“Mal là bộ khuếch đại thứ ba.” Ngôn từ thoát khỏi miệng tôi khẽ khàng, nhưng chắc chắn, bình thản và mạnh mẽ nhiều hơn những gì tôi mong đợi.

“Cô đang nói gì thế?” nắm đấm của Zoya siết lại, và má cô ấy đỏ ửng lên.

“Chúng ta nên tìm chỗ trốn,” Tolya đề nghị.

Chúng tôi khập khiễng băng qua bình nguyên và theo những người khác đi một quãng ngắn đến ngọn đổi kế tiếp, rồi dựng trại gần một cây bạch dương lớn.

Mal bỏ súng xuống và tháo cung tên. “Mình sẽ đi săn bữa tối,” cậu ấy nói, và tan biến vào rừng cây trước khi tôi kịp nghĩ ra lời phản đối.

Tôi ngồi sụp xuống đất. Harshaw đã nhóm lửa, và tôi ngồi trước nó, nhìn chằm chằm vào ngọn lửa, hầu như không cảm nhận được chút hơi ấm. Tolya đưa tôi một chiếc bi đông, rồi cúi xuống, và sau khi chờ cái gật đầu từ tôi, liền bẻ khớp tay tôi về đúng vị trí. Cơn đau không đủ để ngăn những hình ảnh đang tuôn tràn trong tâm trí, những kết nối mà tôi không thể ngưng nghĩ đến.

Một cô gái giữa cánh đồng, đứng trước em gái mình vừa giết, những làn khói đen của Vết Cắt bay ra khỏi người, người cha quỳ xuống bên cạnh.

Ông là một Thiện Tâm Y giỏi. Baghra lầm rồi. Cần nhiều hơn thuật Điều Nhiên để cứu cô con gái còn lại của Morozova. Ông cần đến merzost, thuật hồi sinh. Tôi cũng đã lầm. Em của Baghra không phải Grisha. Rốt cuộc bà ấy vẫn là otkazat’sya - người thường.

“Chắc cô biết lâu rồi,” Zoya nói, ngồi phía bên kia đống lửa. Ánh mắt cô ta đầy kết tội.

Thật ư? Cú sốc hôm ấy cạnh banya, tôi đã tưởng đấy là cảm xúc trong tôi.

Khi nghĩ lại, mọi chuyện quá rõ ràng.

Lần đầu tiên tôi sử dụng năng lượng là khi Mal nằm hấp hối trong tay. Chúng tôi đã tìm con hươu đực hàng tuần liền, nhưng chúng tôi chỉ tìm ra nó sau nụ hôn đầu tiên. Rồi khi Hải Long xuất đầu lộ diện, tôi đang đứng trong vòng tay của cậu ấy, gần gũi cậu ấy lần đầu tiên sau bao ngày xa cách trên con tàu của Hắc Y. Những bộ khuếch đại muốn được ở cạnh nhau.

Và không phải cuộc đời của chúng tôi đã ràng buộc với nhau ngay từ phút đầu tiên sao? Bởi chiến trận. Bởi bị bỏ rơi. Có thể là điều gì khác hơn thế. Đâu thể nào trùng hợp đến mức chúng tôi được sinh ra trong hai ngôi làng kế cận, chúng tôi cùng sống sót qua cuộc chiến đã khiến hai đứa mất cả gia đình, và chúng tôi đều được đưa đến Keramzin.

Đấy là sự thật về tài năng dò đường của Mal sao, rằng bằng cách nào đó, cậu ấy gắn kết với tất cả, với quá trình sáng tác ở trung tâm thế giới? Không phải Grisha, không phải một bộ khuếch đại tầm thường, mà là thứ gì đó hoàn toàn khác?

Ta sẽ thành lưỡi gươm. Một thứ vũ khí được người khác sử dụng. Cậu ấy nói đúng làm sao.

Tôi đưa hai tay che mặt. Tôi muốn chôn vùi nhận biết này, đục khoét nó khỏi hộp sọ. Vì tôi thèm muốn sức mạnh nằm phía bên kia cánh cửa vàng ấy, khao khát nó với đam mê thuần khiết và nhức nhối khiến tôi muốn cào rách da thịt. Cái giá phải trả cho sức mạnh chính là mạng sống của Mal.

Baghra đã nói gì nhỉ? Cô có thể không vượt qua được sự hy sinh mà merzost yêu cầu.

Giây lát sau Mal quay lại. Cậu ấy đem về hai con thỏ béo ụ. Tôi nghe tiếng cậu và Tolya làm việc trong lúc họ cạo lông và xiên que lũ thú, chẳng mấy chốc tôi đã ngửi thấy mùi thịt nướng. Tôi không muốn ăn.

Chúng tôi ngồi đó, nghe tiếng củi lách tách trong sức nóng của lửa, đến khi Harshaw cất tiếng. “Nếu không ai định nói gì, tôi sẽ đốt trụi cả khu rừng đấy.”

Nên tôi nhấp một ngụm nước từ bi đông của Zoya, và tôi lên tiếng. Lời nói đến với tôi dễ dàng hơn tưởng tượng. Tôi kể cho họ câu chuyện của Baghra, câu chuyện khủng khiếp về người đàn ông bị ám ảnh, về cô con gái ông ta bỏ quên, về cô con gái còn lại đã suýt chết vì điều đó.

“Mà không phải,” tôi chỉnh lại. “Bà ấy đã chết ngay hôm ấy. Baghra đã giết bà. Và Morozova đã hồi sinh bà ta trở lại.”

“Không ai có thể…”

“Ông ấy thì có. Đấy không phải chữa thương. Đấy là thuật hồi sinh, ông đã dùng phương cách tương tự để tạo ra những bộ khuếch đại khác. Tất cả đều có trong ghi chép của ông.” Cách giữ oxy trong máu, cách chống thối rữa. Năng lực của một Thiện Tâm Y và Sáng Chế Gia đạt đến cực hạn và vượt xa hơn thế, đến một mức độ mà chúng không được phép chạm ngõ.

“Merzost? Tolya thì thầm. “Sức mạnh trước sự sống và cái chết.”

Tôi gật đầu. Phép màu. Ma thuật. Sức mạnh của tạo hóa. Đấy là lý do những ghi chép còn dang dở. Cuối cùng, không còn lý do nào để Morozova săn tìm một sinh vật khác để tạo ra bộ khuếch đại thứ ba nữa. Chu trình đã hoàn thành. Ông ta đã truyền lại cho con gái của mình sức mạnh vốn dành cho Hỏa Điểu. Chu trình đã khép lại.

Morozova đã hoàn thành phát minh vĩ đại của mình, nhưng không phải cách ông tưởng tượng. Đùa giỡn với merzost, chà, kết quả chưa bao giờ như những gì chúng ta mong đợi. Khi Hắc Y làm xáo trộn quá trình sáng tác ở trung tâm thế giới, hình phạt cho sự ngạo mạn của anh ta là Vực Tối, một nơi mà sức mạnh của anh ta trở nên vô dụng. Morozova đã tạo ra ba bộ khuếch đại sẽ không bao giờ kết hợp với nhau trừ khi con gái ông phải bỏ mạng, trừ khi hậu duệ của ông phải trả giá, bằng xương máu.

“Nhưng con hươu đực và Hải Long… chúng rất cổ xưa,” Zoya nói.

“Morozova cố tình chọn chúng. Chúng là những sinh vật linh thiêng - hiếm có, hung tợn. Con gái ông chỉ là một cô bé otkazat’sya bình thường.” Đấy có phải lý do Hắc Y và Baghra sẵn sàng từ bỏ bà? Họ nghĩ rằng hôm ấy bà đã chết, nhưng thuật hồi sinh hẳn đã khiến bà mạnh hơn - cuộc đời mong manh, giới hạn của bà, một cuộc đời gắn liền với quy luật của thế giới nay đã bị thay thế bởi một thứ khác. Nhưng vào khoảnh khắc Morozova trao tặng con gái mình một cuộc đời thứ hai, một cuộc đời không thật sự thuộc về bà, liệu ông có quan tâm đến vật thể kinh tởm đã tạo ra nó không?

“Bà ấy đã thoát chết sau khi bị ném xuống sông,” Tôi nói. “Và Morozova đưa bà đến khu dân cư ở phía Nam.” Để sống và chết dưới bóng tối của vòng cung mà ngày sau sẽ hình thành cái tên Dva Stolba.

Tôi nhìn vào Mal. “Bà ấy hẳn đã truyền lại sức mạnh của mình cho con cháu, thấm nhuần vào máu thịt của họ.” Tiếng cười cay đắng thoát khỏi miệng tôi. “Mình cứ nghĩ đấy là mình,” tôi nói. “Mình đã muốn tin rằng tất cả những chuyện này đều có một mục đích vĩ đại nào đó, rằng mình không chỉ cứ… xuất hiện trên đời như vậy. Mình nghĩ mình là nhánh còn lại của dòng dõi Morozova. Nhưng đấy là bồ, Mal. Luôn luôn là bồ.”

Mal nhìn tôi qua đống lửa. Cậu ấy không nói lời nào suốt buổi trò chuyện, suốt bữa tối chỉ có Tolya và Oncat ăn được một chút.

Giờ cậu ấy vẫn im lặng. Thay vào đó cậu đứng lên và đi về phía tôi. Cậu giơ tay ra. Tôi ngần ngại trong thoáng chốc, gần như sợ phải chạm vào cậu, rồi đặt tay mình lên tay cậu và để cậu kéo tôi đứng dậy. Một cách lặng lẽ, cậu dẫn tôi đến một trong những chiếc lều.

Ở phía sau, tôi nghe Zoya càu nhàu, “Quỷ thần ạ, giờ tôi phải nghe Tolya ngáy cả đêm sao?”

“Cô cũng ngáy mà,” Harshaw nói. “Và chẳng ra dáng quý cô tí nào.”

“Tôi không có…”

Giọng của họ nhỏ dần trong lúc chúng tôi cúi người bước vào không gian mờ nhạt ở trong lều. Ánh lửa bập bùng phía ngoài lớp vải khiến bóng đêm xiêu vẹo. Không nói tiếng nào, chúng tôi nằm xuống thảm lông thú. Mal cuộn người ôm lấy tôi, ngực cậu ấy áp vào lưng tôi, vòng tay cậu ấy siết chặt, hơi thở cậu khẽ khàng trên hõm vai tôi. Đấy là cách chúng tôi say ngủ khi côn trùng kêu rinh rích xung quanh bên bờ hồ Trivka, trong lòng tàu hướng đến Novyi Zem, trên chiếc giường chật hẹp nơi phòng trọ tồi tàn ở Cofton.

Tay cậu lướt dọc cánh tay tôi. Rất đỗi dịu dàng, cậu siết chặt vùng da trần trên cổ tay tôi, từng đầu ngón tay khẽ chạm, thăm dò. Khi ấy, luồng điện lại xuyên qua người hai chúng tôi, kể cả mùi vị thoáng qua của sức mạnh cũng gần bị nó lấn áp.

Cổ họng tôi nghẹn lại - với đau khổ, với bối rối, và với khao khát hổ thẹn khó cưỡng. Thèm muốn điều này nơi cậu quá tham lam, quá ác độc. Thật bất công. Những từ ngu ngốc, trẻ con. Vô nghĩa.

“Chúng mình sẽ tìm ra cách khác,” tôi thì thầm.

Đầu ngón tay Mal tách ra, nhưng cậu ấy vẫn giữ hờ tay tôi trong lúc kéo tôi lại gần hơn. Cảm giác tôi luôn có mỗi khi nằm trong vòng tay cậu ấy trỗi dậy - toàn vẹn, như thể đang ở nhà. Nhưng giờ tôi phải thắc mắc cả điều đó. Đấy là cảm giác của chính tôi hay là hệ quả của số phận mà Morozova đã sắp đặt hàng trăm năm trước?

Mal vén tóc khỏi cổ tôi. Cậu ấy khẽ hôn lên phần da phía trên chiếc vòng cổ.

“Không, Alina,” cậu ấy dịu dàng nói. “Chúng ta không thể.”

Hành trình trở lại Dva Stolba dường như ngắn hơn. Chúng tôi bám sát vùng đất ở trên cao, những đường mòn nhỏ hẹp của đồi núi, trong lúc quãng đường và tháng ngày dần trôi dưới bước chân. Chúng tôi di chuyển nhanh hơn vì địa hình đã quen thuộc và Mal không còn tìm kiếm dấu hiệu của Hỏa Điểu nữa, nhưng tôi vẫn có cảm giác thời gian đang rút ngắn. Tôi chán ghét thực tại đang chờ chúng tôi ở thung lũng, quyết định chúng tôi phải đưa ra, những điều tôi phải giải thích.

Chúng tôi đi trong im lặng, Harshaw thi thoảng ngân nga hoặc lẩm bẩm với Oncat, những người còn lại bị kẹt trong luồng suy nghĩ của chính mình. Sau đêm đầu tiên đó, Mal giữ khoảng cách. Tôi không đến gần cậu. Tôi thậm chí còn không chắc mình muốn nói điều gì. Tâm trạng của cậu đã thay đổi - sự bình thản ấy vẫn tồn tại, nhưng giờ tôi hốt hoảng nhận ra cậu dường như đang tận hưởng thế giới, ghi nhớ nó. Cậu sẽ ngẩng mặt lên nhìn trời và khép mắt lại, hoặc ngắt một cụm hoa cúc dại và áp chúng lên mũi. Cậu ấy săn thú mỗi đêm chúng tôi tìm được chỗ trốn để dựng trại. Cậu ấy chỉ ra ổ chim chiền chiện và những cây phong lữ, và bắt chuột đồng cho Oncat, ả mèo được nuông chiều đến mức không phải tự mình săn mồi.

“Với một kẻ bị nguyền rủa mà nói,” Zoya cất tiếng, “anh cũng khá hoạt bát đấy.”

“Cậu ấy không bị nguyền rủa,” tôi nổi quạu.

Mal ướm tên, giương cung, rồi thả tay. Nó bắn về phía bầu trời trống trải không mây, nhưng vài giây sau, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu từ xa và một con quạ rơi bịch xuống đất cách cả bọn gần một dặm. Cậu ấy đeo cung lên vai. “Chúng ta đều phải chết,” cậu ấy nói trong khi bước đến bắt lấy con mồi. “Không phải ai cũng có lý do để chết.”

“Cậu đang thuyết giảng đấy à?” Harshaw hỏi. “Hay đấy là lời bài hát?”

Trong lúc Harshaw khởi sự ngân nga, tôi chạy để đuổi kịp Mal.

“Đừng nói thế,” tôi nói khi đi cạnh cậu. “Đừng nói cái kiểu đó.”

“Được rồi.”

“Và cũng đừng nghĩ về nó nữa.”

Cậu ấy mỉm cười thật tươi.

“Mal, làm ơn đấy,” tôi cất giọng van nài, thậm chí còn không biết mình đang yêu cầu điều gì. Cậu ấy quay sang tôi, và tôi không dừng lại suy nghĩ. Tôi nhón chân và hôn cậu ấy. Chỉ mất một tích tắc để cậu phản ứng, rồi cậu bỏ cung tên xuống và hôn đáp lại, tay ôm chặt lấy tôi, thân thể rắn chắc của cậu áp sát vào tôi.

“Alina…” cậu bắt đầu.

Tôi siết lấy ve áo khoác của cậu, nước mắt lưng tròng. “Đừng bảo mình tất cả đều xảy ra vì một lý do nào đó,” tôi cương quyết bảo. “Hoặc mọi chuyện rồi sẽ ổn. Đừng nói với mình rằng bồ đã sẵn sàng hy sinh.”

Chúng tôi đứng giữa đồng cỏ, gió khẽ hát qua những nhánh sậy. Cậu ấy nhìn vào mắt tôi, đồng tử xanh ngời trầm ổn. “Mọi chuyện rồi sẽ không ổn.” Cậu vén tóc khỏi má tôi và ôm lấy mặt tôi bằng đôi tay thô ráp. “Tất cả xảy ra mà không có lý do.” Cậu ấy hôn phớt lên môi tôi. “Và cầu Chúa cứu mình, Alina, mình muốn sống mãi.”

Cậu ấy lại hôn tôi, và lần này, cậu không dừng lại - cho đến khi má tôi đỏ ửng và tim tôi đập thật mạnh cho đến khi tôi chẳng thể nào nhớ nổi tên mình chứ đừng nói là tên ai khác, cho đến khi chúng tôi nghe Harshaw hát, Tolya càu nhàu, và Zoya vui vẻ hứa rằng sẽ giết hết cả đám.

Đêm ấy, tôi ngủ trong vòng tay của Mal, được bao phủ bởi lớp lông thú bên dưới những chòm sao. Chúng tôi thì thầm trong bóng đêm, hôn trộm nhau, vẫn nhớ rằng những người khác đang nằm cách đó chỉ vài bước. Phần nào đó trong tôi mong rằng một bọn cướp người Shu sẽ đến và bắn một viên đạn xuyên qua tim cả hai đứa, để chúng tôi ở đây vĩnh viễn, hai thân xác sẽ trở về cát bụi và chóng bị lãng quên. Tôi nghĩ về chuyện chạy trốn, bỏ rơi những người khác, bỏ rơi Ravka như cả hai từng dự định, xuyên qua những dãy núi và tìm đường đến bờ biển.

Tôi nghĩ đến tất cả điều ấy. Nhưng buổi sáng hôm sau tôi vẫn tỉnh dậy, và buổi sáng hôm sau nữa. Tôi ăn bánh quy khô, uống trà đắng. Quá mau chóng, những dãy núi mờ đi, và chúng tôi bắt đầu lộ trình cuối cùng vào Dva Stolba. Chúng tôi trở về sớm hơn mình tưởng, vừa kịp để lên tàu Con Vạc mà vẫn có thể gặp mặt bất kì đội quân nào lão Tư Tế gửi đến Caryeva. Khi tôi nhìn thấy hai cối xay gió nơi tàn tích, tôi đã muốn san bằng nó, để Vết Cắt làm điều mà thời gian lẫn thời tiết đã thất bại, và biến chúng thành đống đổ nát.

Mất một lúc mới tìm ra căn nhà trọ mà Tamar và những người khác nghỉ lại. Nó cao hai tầng và được sơn màu xanh sáng sủa, cổng vòm có treo chuông cầu nguyện, chóp nhọn của nó chi chít những chữ khắc tiếng Shu lấp lánh mực vàng.

Chúng tôi thấy Tamar và Nadia ngồi ở một chiếc bàn thấp tại phòng sinh hoạt chung, Adrik bên cạnh họ, tay áo để trống của cậu nhóc được kẹp lại gọn gàng, trên đùi cậu đặt một cuốn sách, trông có vẻ bất tiện. Họ đứng phắt dậy ngay khi thấy chúng tôi.

Tolya ôm ghì em gái của mình trong vòng tay to bự, trong khi Zoya miễn cưỡng ôm chào Nadia và Adrik. Tamar ôm sát tôi còn Oncat nhảy khỏi vai Harshaw để lục lọi thức ăn còn thừa của mọi người.

“Chuyện gì đã xảy ra?” Cô ấy hỏi, quan sát biểu cảm muộn phiền của tôi.

“Để sau đi.”

Misha chạy hết tốc lực xuống cầu thang và lao thẳng vào Mal. “Anh về rồi!” nó hét to.

“Dĩ nhiên,” Mal trả lời, kéo nó lại ôm. “Em có làm tốt nhiệm vụ của mình không?”

Misha nghiêm túc gật đầu.

“Tốt. Anh chờ nghe báo cáo hoàn chỉnh đấy.”

“Thế nào,” Adrik hào hứng gặng hỏi. “Mọi người có tìm thấy nó không? David ở trên lầu với Genya. Em có nên đi gọi anh ấy không?”

“Adrik,” Nadia quở trách, “mọi người mệt rồi, hẳn họ đang đói lắm.”

“Có trà không?” Tolya hỏi.

Adrik gật đầu và đi gọi món.

“Chúng tôi có tin mới,” Tamar nói, “và nó không tốt chút nào.”

Tôi không nghĩ nó có thể xấu hơn tin của chúng tôi, nên tôi phẩy tay ra hiệu cho cô ấy. “Nói tôi nghe xem.”

“Hắc Y đã tấn công Tây Ravka.”

Tôi ngồi phịch xuống. “Khi nào?”

“Gần như sau khi cô rời đi.”

Tôi gật đầu. Có chút an ủi khi biết rằng chuyện diễn ra nằm ngoài tầm kiểm soát của tôi. “Mức độ thiệt hại đến đâu?”

“Anh ta dùng Vực Tối lấy đi một phần lớn phía Nam, nhưng từ những gì chúng tôi nghe được thì phần lớn dân chúng đã di tản rồi.”

“Có tin gì về quân đội của Nikolai không?”

“Có tin đồn về những nhóm nhỏ xuất hiện và chiến dẫu dưới ngọn cờ Lantsov, nhưng tôi không chắc họ sẽ cầm cự được bao lâu nếu không có Nikolai chỉ huy.”

“Được rồi.” Ít nhất giờ tôi đã biết chúng tôi đang đối đầu với cái gì.

“Còn nữa.”

Tôi liếc sang Tamar đầy thắc mắc, và vẻ mặt của cô ấy khiến cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi.

“Hắc Y đã hành quân đến Keramzin.”