← Quay lại trang sách

Chương 29

Tôi ngồi bên thành giường nghĩ lại những điều đã xảy ra, nhưng không có gì rõ ràng cả. Tôi không cảm thấy khỏe hẳn nhưng cũng không cảm thấy ốm yếu như lẽ ra phải vậy, chắc tôi sẽ cảm thấy ốm yếu lắm nếu như tôi vừa làm một vụ có thù lao. Đầu tôi nhức nhối, nặng trĩu và nóng hầm hập, lưỡi khô và nổi hạt, cổ họng cứng lại. Nhưng tôi đã có những buổi sáng còn tồi tệ hơn nhiều.

Trời xám xịt, mờ mờ sương, không hẳn là ấm áp. Tôi bật dậy khỏi giường và xoa xoa bụng, nơi vẫn ngâm ngẩm đau vì nôn mửa. Chân trái tôi cảm thấy khỏe và không bị cơn đau nhức nào hành hạ nữa. Tôi đá thử chân trái vào góc giường.

Tôi còn đang nguyền rủa thì nghe một tiếng gõ gay gắt ở cửa, cái thứ tiếng gõ làm cho người ta chỉ muốn mở cánh cửa hai inch thôi, nhún vai khó chịu rồi đóng sầm lại.

Tôi mở cửa rộng hơn hai inch một chút, Trung úy hình sự Randall đứng đó trong bộ đồ gabardine nâu, đội chiếc mũ tròn, trông rất sạch sẽ trang trọng nhưng cái nhìn có vẻ khó chịu.

Ông đẩy cửa nhẹ nhàng và tôi bước lùi lại. Ông vào phòng, đóng cửa và nhìn xung quanh.

- Tôi tìm anh đã hai hôm, - ông nói, không hề nhìn tôi. Đôi mắt ông đảo khắp phòng.

- Tôi bị ốm.

Ông bách bộ quanh phòng, những bước đi nhún nhảy, mái tóc màu xám chải mượt ánh lên, mũ kẹp dưới nách, hai tay đút túi. Với nghề cảnh sát, ông không phải là người to lớn. Ông rút một tay ra khỏi túi và đặt cẩn thận cái mũ trên mấy tờ tạp chí.

- Anh không có ở đây, - ông ta nói.

- Tôi ở trong một bệnh viện.

- Bệnh viện nào?

- Một bệnh viện thú y.

Ông giật mình như thể tôi tát vào mặt ông. Nước da ông sẫm lại.

- Mới sớm ngày ra anh đã có cái kiểu nói như thế hay sao?

Tôi lặng thinh, châm một điếu thuốc lá. Tôi vẩy vẩy điếu thuốc rồi ngồi lại xuống giường.

- Ở đó người ta có điều trị cho những chàng trai như anh không? Hay là người ta ném anh vào một cái xà lim.

- Tôi là một kẻ ốm đau, sáng nay chưa có một ly cà phê nào hết, ông đừng chờ tôi nói những lời dí dỏm.

- Tôi đã bảo anh đừng có nhúng vào vụ này.

- Ông không phải Thượng đế, cũng không phải Chúa. -Tôi rít một hơi thuốc lá. Trong người tôi như có một vết thương đau nhức, nhưng tôi cảm thấy tỉnh táo.

- Anh sẽ ngạc nhiên thấy tôi có thể gây rắc rối cho anh nhiều đến thế nào?

- Chắc chắn.

- Anh có biết tại sao tôi không đi sâu vào vụ này không?

- À!

- Tại sao? - Ông hơi nghiêng người, linh lợi như một con chó săn, với cái nhìn nặng nề.

- Ông không thể tìm thấy tôi.

Ông ngả người ra sau và đung đưa trên gót chân, gương mặt hơi sáng lên:

- Tôi tưởng anh sẽ nói cái gì khác, - ông ta nói. - Và nếu anh nói thế tôi sẽ nện vào ngực anh..

- Hai mươi triệu đôla không làm ông chùn tay. Ông có thể ra lệnh.

Ông thở nặng nề, miệng hé mở. Rất chậm rãi, ông lấy ra khỏi túi một bao thuốc lá và xé giấy bọc. Những ngón tay ông hơi run run. Ông đưa một điếu thuốc lá lên miệng, đi đến bên tôi lấy hộp diêm. Ông châm điếu thuốc lá cẩn thận, vứt que diêm vào cái gạt tàn và nuốt khói.

- Tôi đã khuyên bảo anh qua điện thoại vào một ngày trước đấy - ông nói - Thứ Năm.

- Thứ Sáu.

- Phải, Thứ Sáu. Nó không được chấp nhận. Tôi có thể hiểu tại sao. Nhưng tôi không biết lúc đó anh đang đưa ra những bằng chứng. Tôi chỉ khuyến cáo một đường lối hành động, xem như một ý kiến hay trong vụ này.

- Bằng chứng gì?

Ông đăm đăm nhìn tôi lặng lẽ.

- Ông dùng cà phê chứ? - Tôi hỏi - Nó có thể giúp ông nhân đạo hơn.

- Không.

- Tôi uống vậy - Tôi đứng lên và sửa soạn.

- Ngồi xuống! - Randall gắt - Tôi không rảnh.

Tôi vẫn đi vào bếp, đổ một ít nước vào ấm và đặt lên bếp. Tôi uống một ly nước lạnh lấy từ vòi nước rồi một ly nữa. Tôi trở lại với ly thứ ba trong tay, đứng ngay cửa và nhìn ông. Ông không nhúc nhích. Màn khói thuốc như ngưng đọng lại bên cạnh ông. Ông nhìn xuống sàn.

- Tôi tới bà Grayle khi bà ta muốn gặp thì có gì là sai? - Tôi hỏi.

- Tôi không nói chuyện đó.

- À, nhưng ông vừa nói đấy thôi.

- Bà ta không yêu cầu anh, - ông ngước mắt lên, cái nhìn nặng nề như đá, đôi gò má cao vẫn một ánh xạm. - Anh đã gây áp lực với bà ta, đã chuyện trò về vụ bê bối và thực sự đã tống tiền trong vụ này.

- Khôi hài. Như tôi nhớ, chúng tôi không hề nói chuyện đó. Tôi nghĩ không có điều gì trong câu chuyện của bà ta.

Tôi định nói tôi chả ăn gì trong chuyện ấy. Không một chỗ nào. Và dĩ nhiên tôi thiết tưởng bà ta đã nói chuyện đó với ông.

- Bà ta đã nói. Cái quán bia ở Santa Monica là một ổ phục kích. Nhưng cái đó không có ý nghĩa gì. Tôi không thể thấy cái gì ở đó. Khách sạn phía bên kia đường cũng có cái mùi như vậy. Không một ai trong chúng ta muốn đến chỗ đó. Chỉ bọn lưu manh mạt hạng.

- Bà ta bảo với ông là tôi gây áp lực với bà ta?

Ông sụp mắt xuống một chút:

- Không.

Tôi quay lại bếp, pha cà phê và chờ nó nhỏ giọt. Lần này Randall đi theo tôi và đứng ở khuôn cửa.

- Băng cướp nữ trang này đang làm ăn ở Hollywood và vùng lân cận, khoảng mười năm nay, như tôi được biết. Lần này chúng đi quá xa, đến mức giết người. Tôi cũng không biết tại sao.

- Phải, nếu đó là một vụ cướp và ông khám phá ra, đó sẽ là vụ giết người cướp của đầu tiên được giải quyết từ khi tôi sống ở thành phố này. Và tôi có thể kể tên và mô tả ít nhất cả tá.

- Anh nói điều đó có gì là hay cho anh?

- Nếu tôi sai, ông cứ sửa.

- Chuyện khốn kiếp, - ông cáu kỉnh. - Anh không sai đâu. Có một đôi vụ đã lập được hồ sơ, nhưng đó là những tội đại hình. Mấy thằng lưu manh còn có ô dù.

- À. Ông dùng cà phê chứ?

- Nếu tôi uống một chút, anh sẽ nói chuyện với tôi một cách nghiêm chỉnh, tôn trọng, không châm chọc chứ?

- Tôi sẽ cố. Tôi không hứa sẽ nói tuột hết mọi ý định của tôi đâu đấy.

- Tôi có thể không cần chúng.

- Ông đang mặc bộ đồ khá đẹp đấy.

Mặt ông đỡ xạm hơn một chút.

- Bộ đồ này giá 27,5 đôla - ông cáu kỉnh nói.

- Ôi, lạy Chúa, một viên cảnh sát đa cảm, - tôi nói và quay lại bếp.

- Thơm quá. Anh pha thế nào?

Tôi rót ra.

- Phin kiểu Pháp. Cà phê xay thô. Không để giấy lọc - Tôi lấy đường trong hộp và bơ trong tủ lạnh. Chúng tôi ngồi xuống đối diện nhau ở hai góc bàn.

- Đó là chuyện đùa phải không, cái chuyện anh ốm nằm trong bệnh viện ấy?

- Không đùa đâu. Tôi bị rơi vào một vụ rắc rối nhỏ, ở Bay City. Người ta đẩy tôi vào. Không phải nhà đá, mà là một cuộc điều trị độc đáo bằng rượu mạnh và thuốc mê.

Đôi mắt ông nhìn xa xôi.

- Bay City? Anh thích đâm quàng vào bụi rậm hả, Marlowe?

- Tôi đâu thích đâm vào bụi rậm, mà việc nó xảy ra thế.

Trước nay không có gì giống như vậy. Tôi bị nện hai lần, lần thứ hai bởi một gã cảnh sát hay là một thằng cha giống như vậy. Tôi bị nện bằng chính khẩu súng của tôi và bị bóp cổ bởi một thằng da đỏ hung bạo. Tôi bị quăng vào cái bệnh viện thuốc mê khủng khiếp ấy, bị khóa cứng ở đó, và có lúc chắc đã bị trói chặt. Và tôi không thể chứng minh mọi chi tiết, ngoại trừ đến tận bây giờ tôi vẫn thâm tím mình mẩy và cánh tay trái tôi đầy vết kim đâm.

Ông nhìn trân trối một góc bàn.

- Ở Bay City, - ông nói chậm rãi.

- Cái tên nghe như một bài hát. Một bài hát trong một bồn tắm bẩn thỉu.

- Anh làm gì dưới đấy?

- Tôi không xuống đó. Những gã cảnh sát ấy đã đẩy tôi qua địa giới. Tôi đi gặp một người ở Stillwood Heights. Chỗ đó thuộc Los Angeles.

- Một người tên là Jules Amthor, - ông ta nói chậm rãi.

- Tại sao anh lấy những điếu thuốc lá ấy?

Tôi nhìn vào tách cà phê của mình. Một chút điên rồ đáng nguyền rủa.

- Nó có vẻ khôi hài, ông ta, Mariott có cái hộp thuốc lá ngoại hạng đó, với những điếu cần sa. Hình như họ đã làm chúng ở Bay City giống những điếu thuốc lá Nga với những đầu ngậm rỗng hiệu Romanoff.

Randall đẩy cái tách rỗng của ông về phía tôi và tôi lại rót đầy tách. Đôi mắt ông nhìn tôi xoi mói giống như Sherlock Holmes với tấm gương ma thuật hay Thorndyke với những kính lúp bỏ túi.

- Anh phải nói với tôi, - ông nhăn nhó, nhấp môi và chùi miệng bằng một cái gì có tua mà người ta vẫn dùng làm khăn ăn trong những khu nhà tập thể. - Nhưng anh đâu có lấy chúng? Cô gái bảo tôi vậy.

- À ra thế, mẹ kiếp, - tôi nói. - Những thằng đàn ông chả làm được trò trống gì ở cái xứ sở này. Lúc nào cũng là đàn bà!

- Cô ta thích anh, - Randall nói, như một nhân viên F.B.I. hào hoa trong một bộ phim, hơi buồn buồn nhưng cực kỳ hùng dũng - Ông già ấy đúng là một nhân viên cảnh sát chân chính. Cô ta chẳng có phận sự gì ở những chuyện này nhưng cô ta thích anh.

- Một cô gái đẹp. Không phải loại của tôi.

- Anh không thích những người đàn bà đẹp à? - Ông lấy một điếu thuốc lá nữa. Khói thuốc tỏa ra trên gương mặt ông.

- Tôi ưa những cô gái dịu dàng trong sáng, nhưng sắt đá và vững vàng trước tội ác.

- Họ sẽ làm anh cháy túi, - Randall nói đều đều.

- Nhất định rồi. Tôi còn sống ở đâu được nữa? Ông gọi phiên tòa này là gì vậy?

Ông ta mỉm cười, nụ cười đầu tiên trong ngày. Chắc là ông ta chỉ cho phép mình cười một ngày bốn lần.

- Tôi không muốn làm phiền anh nhiều.

- Tôi sẽ đưa ra cho ông một giả thuyết, nhưng chắc chắn ông sẽ đưa nó lên hàng đầu. Tay Mariott này là một kẻ tống tiền đàn bà, bởi vì bà Grayle bảo với tôi như vậy. Nhưng ông ta còn là một thứ khác. Ông ta là tay sai cho băng cướp nữ trang, dàn mặt ra xã hội, kẻ sẽ gieo trồng tội ác và trình diễn trên sân khấu. Ông ta khai thác những người đàn bà mà ông ta có thể với được, để biết họ tường tận. Vụ trấn lột được dàn dựng trước ngày Thứ Năm một tuần. Nó có dấu hiệu như thế. Nếu Mariott không lái xe, hoặc không đưa bà Grayle đến Trocadero hoặc không về nhà bằng con đường ông ta đã đi, qua quán bia, vụ trấn lột không thể xảy ra.

- Gã lái xe có thể lái, - Randall lý sự. - Nhưng cái đó không thay đổi gì nhiều. Những gã lái xe không chường mặt ra để làm tay trong cho bọn kẻ cướp lấy 90 đôla một tháng. Nhưng không thể có nhiều vụ cướp do một mình Mariott với những người đàn bà hoặc những gì có thể đem ra kể.

- Điểm mấu chốt của những mưu mô loại này là những gì không được đem ra kể, - tôi nói. - Mánh lới được cân nhắc là món tiền chuộc rẻ mạt.

Randall nhìn tôi sững sờ. Chiếc thìa của ông khoắng không khí trong một cái tách rỗng. Tôi đưa tay ra và ông xua tay.

- Tiếp tục chuyện đó đi, - ông nói.

- Chúng sử dụng ông ta, nhưng ông ta đã đến lúc hết tác dụng. Có thể là ông ta cũng nghĩ đến điều đó, như ông bảo. Nhưng ông ta không thoát khỏi cái mưu mô ấy và ông ta đã không chịu dành thời gian xem xét. Vụ trấn lột này đúng là vụ cuối cùng của Mariott. Ông hãy xem, chúng thực sự hỏi rất ít để cân nhắc giá trị của ngọc bích. Và Mariott chịu trách nhiệm giao dịch. Nhưng tất cả cũng làm Mariott sợ hãi. Cuối cùng, ông ta nghĩ tốt hơn không nên đi một mình và ông ta nghĩ ra một mẹo nhỏ là nếu có gì xảy ra với ông ta, sẽ có cái gì trong người ông ta chỉ ra một kẻ khác tàn nhẫn và thông minh đủ để là đầu não điều hành bọn cướp theo kiểu đó, và kẻ ấy ở một vị trí không quen thuộc để đưa thông tin về những người đàn bà giàu có. Đó là một mẹo trẻ con nhưng thực tế nó đã xảy ra.

Randall lắc đầu:

- Nếu bọn cướp đã vắt kiệt ông ta, có lẽ chúng sẽ mang xác ông ta ra biển mà vứt xuống.

- Không, chúng muốn vụ việc có cái vẻ tài tử, không chuyên. Chúng muốn ở lại làm ăn. Chắc chắn chúng có ô dù nào đó che chở.

Randall vẫn lắc đầu:

- Cái kẻ mà những điếu thuốc chỉ ra, không phải loại ấy. Hắn có một thủ đoạn hữu hiệu của chính hắn. Tôi đã thẩm tra, anh nghĩ gì về hắn?

Đôi mắt ông trống rỗng, quá đỗi trống rỗng.

Tôi nói:

- Đối với tôi, hắn là một kẻ hoàn toàn khốn nạn. Hắn không đến nỗi cực kỳ giàu có, phải không? Và sau hết, cái thủ đoạn tâm lý của hắn là một thủ đoạn nhất thời ở một nơi nào đó. Hắn tạo ra một mốt thịnh hành và lôi kéo người ta theo hắn, chỉ một ít lâu, mốt bị loại bỏ. Cứ thế công việc của hắn tiến triển ngon lành. Đó là nếu như hắn là một phù thủy tâm lý và không là gì khác. Giống hệt những ngôi sao màn bạc. Cho hắn năm năm, hắn có thể tiến hành công việc đó dài như thế. Nhưng nếu cho hắn hai cách để sử dụng thông tin, hắn phải thoát khỏi những người đàn bà đó và hắn sẽ đi đến chỗ giết người.

- Tôi sẽ đánh giá hắn đầy đủ hơn, - Randall nói với cái nhìn trống rỗng. - Nhưng đúng là giờ đây tôi quan tâm tới Mariott. Chúng ta sẽ quay lại xa hơn, xa hơn rất nhiều. Để biết tại sao anh lại biết ông ta.

- Chính ông ta gọi điện thoại cho tôi. Ông ta nhặt tên tôi ra từ danh bạ điện thoại. Ông ta nói vậy.

- Ông ta có tấm thiếp của anh.

Tôi có vẻ ngạc nhiên.

- Đúng vậy. Tôi quên điều đó.

- Anh không tự hỏi rằng tại sao ông ta lại nhặt tên của anh. Anh lờ vấn đề ấy trong trí nhớ kém cỏi của anh à?

Tôi nhìn ông qua miệng tách cà phê của tôi. Tôi bắt đầu thấy ưa ông. Ông cũng có một số phận, cái số phận ấy đang đập mệt mỏi trong lần áo gabardine.

- Vậy là ông đến đây thực sự vì thế?

Ông gật đầu.

- Lúc nghỉ ngơi, anh cũng biết, chỉ để chuyện trò - Ông mỉm cười lịch sự và chờ đợi.

Tôi rót hai tách cà phê nữa.

Randall nghiêng người sang một bên và nhìn dọc theo mặt bàn màu đen.

- Hơi bụi, - ông nói bâng quơ, rồi thẳng người lên và nhìn vào mắt tôi. - Có lẽ tôi tiến hành vụ này một cách khác. Ví dụ như cái linh cảm của anh về Mariott, tôi nghĩ chắc là đúng. Có 23.000 đôla tiền mặt trong két sắt bí mật của ông ta, bọn tôi phải mất bao nhiêu thì giờ mới khui ra được, là một vấn đề. Cũng có một vài điều cần xem trong các chứng từ chuyển nhượng bất động sản ở khu Tây - 54.

- À, - tôi đáp mệt mỏi.

-Có khá nhiều nữ trang trong két của Mariott, loại thượng thặng. Nhưng tôi không nghĩ là ông ta ăn trộm những thứ đó. Tôi nghĩ những thứ đó rất thích hợp với sở thích riêng của ông ta. Ông ta sợ phải bán chúng đi, một kết toán nào đó vướng mắc trong tư tưởng của chính ông ta.

Tôi gật đầu.

- Ông ta cảm thấy như thể chúng là những đồ đánh cắp.

- Đúng, không phải ngay lúc đầu tôi đã quan tâm đến các chứng từ chuyển nhượng, nhưng tôi sẽ nói với anh tại sao tôi quan tâm đến chúng. Nó là những gì người ta lập ra cốt để che mắt cảnh sát. Chúng tôi thu thập tất cả những báo cáo về các vụ giết người và những cái chết mờ ám từ các quận huyện ngoại thành, chúng tôi xếp lại để rồi sẽ đọc vào một ngày nào đó. Đó là quy luật, cũng giống như người ta sẽ khám xét mà không có lệnh khám xét hay bắt giữ một gã nào đó để tìm vũ khí mà không có lý do chính đáng. Nhưng chúng tôi phá vỡ quy luật và chúng tôi đã làm như vậy. Tôi không ngó tới các báo cáo mãi cho tới sáng hôm nay, tôi đọc một bản báo cáo về vụ giết một người da đen ở khu Trung tâm hôm thứ năm vừa rồi, do một gã hộ pháp hung bạo tên là Moose Malloy. Có một bằng chứng đồng quy. Và cứ dìm chết tôi đi, nếu như không có một bằng chứng.

Ông mỉm cười dịu dàng, nụ cười thứ ba trong ngày.

- Anh có nghe đấy không?

- Tôi đang lắng nghe ông.

- Chỉ mới sáng nay thôi, anh hiểu không? Tôi nhìn tên người làm báo cáo và tôi biết anh ta, đó là Nulty. Và tôi biết vụ này bị thất bại. Nulty là loại người... À này, anh có khi nào tới Crestline chưa?

- Có.

- Ừ, ở gần Crestline có một chỗ để hàng đống những chiếc xe hòm cũ đã biến thành phòng ở. Tôi cũng có một phòng ở trên ấy, nhưng không phải là xe hòm. Một số xe hòm, tin tôi hay không thì tùy, chúng không còn lấy một chiếc bánh xe. Bây giờ Nulty ở đó, thành một gã bẻ ghi hảo hạng trong một chiếc xe hòm.

- Cái đó thật không hay, - tôi nói. - Đấy là một sĩ quan đồng sự của ông?

- Vậy là tôi kêu Nulty lên. Anh ta hết ho lại hắng và xin gia hạn, rồi anh ta nói chính anh có một ý kiến về một cô gái tên là Velma gì đó mà Malloy đã du dương một thời gian dài trước khi vào khám, rồi anh đi tìm mụ vợ góa của thằng cha chủ cái quán đã xảy ra vụ giết người, từ khi nó còn là một hang ổ của dân da trắng, lúc đó cả Malloy và cô gái cùng làm việc ở đấy. Địa chỉ của mụ góa ấy chính là khu 1644 - Tây - 54, nơi Mariott có chứng từ chuyển nhượng.

- Sao nữa?

- Vậy là tôi chỉ nghĩ tới những sự trùng hợp trong một buổi sáng - Randall nói - và tôi tới đây. Chỉ vậy thôi tôi cũng thấy chuyện thật là hay.

- Điều rắc rối là - tôi nói - câu chuyện có vẻ còn đi xa hơn. Cái cô Velma này đã chết, theo lời bà Florian. Tôi có ảnh cô ta.

Tôi đi vào phòng khách và thọc tay vào chiếc áo khoác. Tay tôi ngần ngừ khi tôi chợt cảm thấy câu chuyện thật là ngớ ngẩn và trống rỗng. Chúng không lấy những bức ảnh. Tôi lôi ra, mang vào bếp và rút bức ảnh cô gái Pierrot đặt trước mặt Randall. Ông nghiên cứu cẩn thận.

- Tôi không nhận ra ai, - ông nói - còn bức kia nữa?

- Không, đây là tấm hình cắt trong báo của bà Grayle. Anne Riordan đưa nó cho tôi.

Ông nhìn tấm hình và gật đầu.

- Cho hai triệu đôla, tôi mới đi cưới cô ta.

- Có vài điều tôi phải nói với ông. Đêm vừa rồi thật rồ dại khốn kiếp, tôi nảy ra một ý tưởng ngông cuồng là đi xuống đó, cố gắng khám phá cái ổ quỷ ấy một mình. Bệnh viện tôi nói ở ngã tư phố Descanso và phố 23 ở Bay City do một gã tên là Sonderborg điều hành, gã bảo gã là bác sĩ. Gã chứa chấp một kẻ lẩn trốn trong đó. Tôi thấy chính Moose Malloy trong một gian phòng.

Randall sững sờ nhìn tôi.

- Chắc không?

- Người ta không thể nhầm gã được. Gã là một người khổng lồ. Gã không giống bất kỳ ai.

Ông nhìn tôi, không nhúc nhích. Rồi rất chậm chạp, ông đứng dậy.

- Chúng ta đến gặp cái bà Florian này.

- Về Malloy thì thế nào?

Ông ta lại ngồi xuống.

- Kể cho tôi nghe toàn bộ chuyện này thật chi tiết.

Tôi kể cho ông. Ông lắng nghe, không rời mắt khỏi tôi. Tôi nghĩ là ông cũng không chớp mắt nữa. Ông thở nhanh, miệng hé mở. Ông ngồi bất động, những ngón tay đặt trên mép bàn. Khi tôi kể xong, ông nói:

- Gã bác sĩ Sonderborg này, anh thấy giống cái gì?

- Giống một kẻ nghiện ma túy và chắc chắn là một kẻ buôn bán ma túy, - tôi mô tả hắn cho Randall nghe thật chính xác.

Ông lặng lẽ vào một căn phòng khác và nhấc máy điện thoại. Ông quay số của mình và nói khẽ một lúc lâu. Rồi ông trở lại. Tôi vừa cạn tách cà phê nữa, đang luộc hai quả trứng, cắt hai lát bánh mì nướng và phết bơ. Tôi ngồi xuống ăn.

Randall ngồi trước mặt tôi, chống cằm lên bàn tay.

- Tôi đang có một nhân viên chống ma túy nhà nước ở đó với một lời than phiền giả vờ là muốn tìm ai đó. Anh ta có thể đưa vài ý kiến. Anh ta không tìm Malloy. Malloy đã rời khởi chỗ đó mười phút sau khi anh rời khỏi đó quá. Đó là một điều anh có thể đánh cá.

- Tại sao không là cảnh sát Bay City? - Tôi vừa nói vừa rắc muối lên trứng.

Randall không nói gì. Khi tôi nhìn lên, thấy mặt ông đỏ và không thoải mái. Tôi nói:

- Ông là một cảnh sát đa cảm nhất mà tôi gặp.

- Ăn gấp lên. Chúng ta phải đi.

- Ăn xong tôi phải đi tắm rồi cạo râu và thay quần áo.

- Anh không thể đi bộ với pyjama được à? - ông hỏi, nhăn nhó.

- Vậy là thành phố này cũng quanh co như tất cả các nơi khác? - Tôi nói.

- Đây là thành phố của Laird Brunette.

Người ta nói là ông ta đã bỏ ra ba vạn đôla để được bầu làm thị trưởng.

- Ông bạn này sở hữu cả Câu lạc bộ Belvedere?

- Và hai sòng bạc nữa.

- Nhưng đây là xứ sở của chúng tôi, - tôi nói.

Ông nhìn những móng tay sạch sẽ sáng bóng của mình.

- Chúng ta sẽ ghé văn phòng của anh và lấy hai điếu cần sa khác - ông nói - nếu chúng vẫn còn ở đó, - ông bật ngón tay. - Nếu anh đưa tôi chìa khóa của anh, tôi sẽ tới đó trong khi anh cạo râu và mặc quần áo.

- Chúng ta sẽ cùng đi, - tôi nói. - Tôi phải nhận mấy lá thư.

Ông gật đầu, một lát sau, ông lại ngồi xuống và rút điếu thuốc lá nữa. Tôi cạo râu, mặc quần áo và chúng tôi đi bằng xe của Randall.

Tôi có mấy lá thư nhưng không kịp đọc. Hai điếu thuốc bị cắt trong ngăn kéo bàn vẫn còn đó. Văn phòng của tôi không thấy có vẻ bị lục soát.

Randall lấy hai điếu thuốc, ngửi hít chỗ thuốc lá và nhét vào túi.

- Ông ta có một tấm thiếp của anh, - ông trầm ngâm. -Cái đó không thể không có một điều gì đó đằng sau, vậy là ông ta không băn khoăn về những cái khác. Tôi thiết tưởng Amthor không có gì phải sợ hãi nhiều, chỉ nghĩ là anh đang cố gắng lôi kéo một cái gì. Thôi chúng ta đi.