← Quay lại trang sách

HỒI SINH 1-Barcelona, 1940

Biến cố tại nhà máy Vilardell cũ không bao giờ xuất hiện trên mặt báo. Tiết lộ chuyện này chẳng có lợi cho ai. Chuyện xảy ra ở đó chỉ được những người có mặt nhớ đến. Ngay đêm đó, khi Mauricio Valls quay về lâu đài và phát hiện tù nhân số Mười Ba đã trốn thoát, hắn thông báo cho thanh tra Fumero ở đội cảnh sát phụ trách tội phạm chính trị về những gì mà một tù nhân đã tố giác với hắn. Trước lúc bình minh, Fumero và quân của hắn đã sẵn sàng vào vị trí.

Viên thanh tra cho hai lính của hắn gác ở ngoài và tập trung những người còn lại ở lối chính, từ đó, như Valls đã giải thích, người ta có thể thấy căn nhà gỗ của bảo vệ. Cái xác của Jaime Montya, người tài xế anh hùng của viên giám thị, người đã tình nguyện một mình đi vào khu nhà xưởng để điều tra lời khai của một tù nhân về sự tồn tại của những nhân tố phản loạn, đang nằm đó giữa đống phế liệu. Ngay trước lúc tảng sáng, Fumero đã lệnh cho quân của hắn tiến vào nhà máy cũ kia. Chúng bao vây căn nhà gỗ và khi những người ở trong nhà, hai người đàn ông và một phụ nữ trẻ, nhận ra sự hiện diện của chúng, chỉ có một biến cố nhỏ xảy ra: người phụ nữ, mang theo khẩu súng, đã bắn trúng tay một trong những viên cảnh sát. Nhưng đó chỉ là một vết xước nhỏ. Ngoài sự cố đó ra, Fumero và quân của hắn đã khống chế quân phản loạn chỉ trong ba mươi giây.

Viên thanh tra lệnh cho quân của hắn giữ ba người họ trong ngôi nhà rồi lôi luôn xác của người tài xế vào. Fumero không hỏi tên hay giấy tờ tùy thân của họ. Hắn cho cởi quần áo của ba kẻ phản loạn và trói tay chân họ lại trên những chiếc ghế gỉ sét nằm trong góc nhà. Khi quân phiến loạn đã bị trói chặt, Fumero lệnh cho đám tay chân để lại hắn một mình và ra gác ngoài cửa và ngoài cổng nhà máy để chờ chỉ thị của hắn. Còn lại một mình với những tù binh, hắn đóng cửa và ngồi xuống đối diện với họ.

“Suốt đêm tao không ngủ và tao mệt. Tao muốn về nhà. Chúng mày cho tao biết tiền và châu báu chúng mày giấu cho Salgado ở đâu thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra hết, nghe chưa?”

Những tù binh nhìn chằm hắn đầy hoang mang và sợ hãi.

“Chúng tôi không biết gì về châu báu hay người nào tên Salgado cả,” người lớn tuổi hơn nói.

Fumero gật đầu vẻ hơi mệt mỏi. Mắt hắn thong thả nhìn ba tù binh, như thể hắn có thể đọc được ý nghĩ và phát chán vì họ. Sau một vài giây không chắc chắn, hắn chọn người phụ nữ và kéo ghế lại gần hơn cho tới khi chỉ cách cô ta chừng nửa mét. Người phụ nữ run rẩy.

“Để cô ấy yên, đồ chó má,” người đàn ông trẻ hơn quát. “Nếu mày chạm vào cô ấy, tao thề tao sẽ giết mày.”

Fumero cười buồn.

“Bạn gái mày rất đẹp đấy.”

Navas, gã cảnh sát đứng ngoài căn nhà gỗ, có thể cảm thấy mồ hôi lạnh thấm vào áo. Gã lờ đi tiếng kêu thét từ trong nhà vọng ra. Khi đồng nghiệp của gã ném cho gã cái nhìn lén lút từ phía cổng nhà máy, gã lắc đầu.

Không ai nói với nhau một lời. Fumero đã ở trong căn nhà được nửa tiếng, rồi cuối cùng cánh cửa cũng mở ra sau lưng Navas. Gã bước sang một bên và tránh nhìn trực tiếp vào những vết ướt trên chiếc áo đen của viên thanh tra. Fumero bước chậm đến cửa trong khi Navas, sau một cái liếc mắt nhanh vào căn nhà, đóng cửa lại, cố không nôn mửa. Theo hiệu lệnh của Fumero, hai tên lính của hắn mang can xăng đến đổ lên tường căn nhà gỗ và khu vực xung quanh. Chúng không đứng lại nhìn nó chìm trong biển lửa.

Fumero ngồi bên ghế phụ, đợi chúng quay lại xe. Chúng lái xe đi trong yên lặng khi một cột khói và lửa bốc lên từ đống đổ nát của cái nhà máy cũ, để lại một vệt tro bụi tỏa đi theo gió. Fumero hạ thấp cửa kính xe và với tay ra ngoài trời lạnh và ẩm ướt. Ngón tay hắn có máu. Navas lái xe với đôi mắt nhìn chằm về phía trước, nhưng gã chỉ có thể nhìn thấy ánh mắt van xin của người phụ nữ đó, vẫn còn sống, trước khi gã đóng cửa lại. Biết rằng Fumero đang nhìn mình, gã siết chặt tay lái để giấu đi việc mình đang run.

Từ lề đường, một nhóm trẻ con rách rưới đang nhìn chiếc xe chạy qua. Một đứa, lấy tay giả làm khẩu súng, vờ như đang nhằm vào bọn chúng. Fumero mỉm cười và đáp lại cùng cử chỉ tương tự. Vài giây sau, chiếc xe biến mất vào những con phố hẹp bao quanh một rừng những cột ống khói và nhà kho, như thể nó chưa bao giờ ở đó.

2

Fermín nằm bảy ngày trong lều, trong hôn mê. Không thứ khăn ướt nào giúp anh nguôi cơn sốt; không thuốc mỡ nào có thể làm dịu con đau, mà như người ta nói, đang thiêu đốt anh. Những bà cụ ở đó, họ thay phiên nhau chăm sóc anh và cho anh uống tonic với hy vọng giúp anh sống, họ bảo rằng kẻ lạ này có con quỷ trong người, con quỷ ăn năn, rằng linh hồn anh muốn chạy trốn đến cuối đường hầm và trú ngụ ở trong khoảng trống tối tăm.

Đến ngày thứ bảy, người mà ai cũng gọi là Armando và uy quyền của ông trong cái thị trấn tồi tàn này chỉ đứng sau Chúa, đã đến túp lều và ngồi cạnh người đang ốm. Ông kiểm tra vết thương, dùng tay banh mí mắt anh rồi đọc những bí mật được viết trong đồng tử dãn nở của anh. Những bà cụ đã chăm sóc anh tụ lại thành một nhóm đứng sau lưng Armando, chờ đợi trong sự yên lặng kính cẩn. Sau một lát Armando gật đầu và rời túp lều. Hai thanh niên đang đợi ở cửa đi theo ông đến mép nước nơi có những con sóng vỗ vào bờ, và họ cẩn thận lắng nghe những chỉ dẫn của ông. Armando nhìn họ rời đi và ông ở lại, ngồi trên con thuyền cá hỏng bị cơn bão đánh giạt vào bờ và nằm đó, giữa bờ biển và nhà tù.

Ông châm một điếu thuốc nhỏ, và tận hưởng trong cơn gió sớm mai. Trong khi hút và suy tính xem nên làm gì, Armando lôi ra trang báo La Vanguardia mà ông đã giữ trong túi nhiều ngày nay. Ở đó, vùi trong những đống quảng cáo về đai nịt bụng cùng các tin bài về những buổi diễn gần đây nhất ở quận Paralelo, là một mẩu tin ngắn về vụ một tù nhân đào thoát khỏi lâu đài Montjuic. Mẩu tin có mùi hôi hám của một thông cáo chính thức. Sự tự do duy nhất mà nhà báo tự cho phép mình là một nhận xét ở cuối bài, tuyên bố rằng trước đến nay chưa từng có ai thoát được khỏi pháo đài bất khả xâm phạm ấy.

Armando ngước lên và nhìn về núi Montjuic, mọc lên ở phía nam. Tòa lâu đài, với những ngọn tháp cùng lỗ châu mai hiện lên giữa đám sương, tọa lên Barcelona. Armando mỉm cười cay đắng. Ông dùng mẩu thuốc châm lửa đốt tờ báo và nhìn nó biến thành tro trong cơn gió. Như mọi khi, báo chí tránh nói đến sự thật như thể tính mạng của nó phụ thuộc vào đó, và có lẽ với thiện ý. Mọi thứ liên quan đến câu chuyện này có mùi nửa sự thật và những chi tiết không được nói ra. Trong số những chi tiết ấy là nhận định rằng không ai có thể thoát được nhà tù Montjuic. Dù trong vụ này, ông nghĩ, mẩu tin có thể đã đúng, bởi ông, người mà ai cũng gọi là Armando, chỉ tồn tại trong thế giới vô hình của người nghèo và đám tiện dân. Có những nơi và những thời đại mà không là ai cả còn vinh dự hơn được làm ai đó.

3

Ngày tháng lê lết trôi đi. Mỗi ngày một lần, Armando ghé túp lều thăm hỏi người đang chết. Cơn sốt có dấu hiệu lùi dần, những dấu hiệu dè dặt và cái mớ chằng chịt những vết thâm, vết cắt và vết thương khắp cơ thể anh dường như đang dần dần lành lại dưới những lớp thuốc mỡ. Gần như suốt ngày anh chỉ ngủ hoặc ú ớ những lời khó hiểu giữa những đợt mê man và cơn trằn trọc.

“Anh ta sẽ sống chứ?” Armando đôi khi lại hỏi.

“Anh ta cũng chưa quyết hẳn,” là câu trả lời của người phụ nữ mà anh tưởng nhầm là mẹ mình.

Ngày kết tinh lại thành tuần và sự thể sớm trở nên rõ ràng là không ai đến hỏi thăm về người lạ: không ai muốn dây phải một chuyện mà họ thà lờ đi không biết còn hơn. Thông thường cảnh sát và hiến binh không vào vùng Somorrostro. Có một luật bất thành văn là thành phố và thế giới kết thúc ở cổng thị trấn nghèo nàn này, và cả hai phía đều cố mà duy trì cái biên giới vô hình đó. Armando biết nhiều người phía bên kia, bí mật hoặc công khai, đang cầu cho một cơn bão sẽ xóa sổ cái thị trấn của người nghèo này đi, nhưng cho đến khi ngày ấy tới, tất cả họ đều muốn nhìn đi nơi khác, lưng quay về phía biển và quay về phía những người đang sống tạm bợ giữa mép nước và cái rừng nhà máy của Pueblo Nuevo. Dù vậy, Armando cũng có những nghi ngờ. Câu chuyện ông đã lờ mờ đoán ra về người mà họ đã đem vào chăm sóc có thể sẽ dẫn đến việc cái luật kia bị phá bỏ.

*

Vài tuần sau, mấy cảnh sát xuất hiện hỏi liệu có ai thấy một người đàn ông lạ mặt hay không. Nhiều ngày liền Armando thận trọng để mắt đến xung quanh, nhưng khi không còn ai khác đến hỏi về người đàn ông này, ông kết luận rằng không có ai muốn tìm ra anh. Có lẽ anh đã chết và thậm chí còn không biết điều đó.

Một tháng rưỡi sau khi anh đến, những vết thương trên cơ thể bắt đầu lành. Khi người đàn ông mở mắt và hỏi mình đang ở đâu, họ giúp anh ngồi dậy để húp bát nước thịt, nhưng họ không nói gì với anh cả.

“Anh phải nghỉ ngơi.”

“Tôi còn sống không?” anh hỏi.

Không ai xác nhận anh còn sống hay đã chết. Phần lớn thời gian trong ngày anh chỉ ngủ, hoặc bị nhấn chìm trong cơn mệt mỏi không bao giờ rời bỏ. Mỗi lần nhắm mắt và phó mặc cho sự kiệt sức, anh đều chu du đến cùng một nơi. Trong giấc mơ, xuất hiện từ đêm này qua đêm khác, anh trèo lên những bức tường của một hầm mộ rộng lớn không đáy rải đầy xác người. Khi lên đến miệng hầm và quay nhìn ra đằng sau mình, anh thấy những xác chết ma quái kia vùng vẫy như những con lươn. Những xác chết mở mắt và leo lên hố, đuổi theo anh. Họ theo anh băng qua núi rồi quay lại những con phố Barcelona, tìm kiếm nơi trú ngụ của họ ngày xưa, gõ cửa nhà những người họ từng yêu. Một số lại đi tìm những kẻ đã giết mình và lùng sục khắp thành phố, khát khao trả thù, nhưng hầu hết họ chỉ muốn quay về tổ ấm của họ, về giường của họ, và ôm ấp vợ con hay những người tình mà họ đã bỏ lại. Nhưng không ai mở cửa cho họ. Không ai nắm tay họ hay muốn hôn lên môi họ. Người đàn ông sắp chết, người đẫm mồ hôi, đêm nào cũng tỉnh dậy trong bóng đêm với tiếng hét chói tai của cái chết trong tâm hồn anh.

*

Một người lạ thường ghé thăm anh. Người này toát lên mùi thuốc lá và nước thơm, hai thứ khó mà kiếm được vào thời buổi ấy. Ông ta ngồi trên ghế cạnh anh, nhìn anh với ánh mắt không tài nào thấu hiểu. Tóc ông ta màu đen như nhựa đường, và nét mặt đầy sắc cạnh. Khi nhận ra bệnh nhân của mình đã tỉnh, ông ta mỉm cười với anh.

“Người là Chúa trời hay quỷ dữ?” người sắp chết có lần hỏi.

Người lạ nhún vai và ngẫm nghĩ.

“Chút này chút kia,” cuối cùng ông ta trả lời.

“Về nguyên tắc, tôi là người vô thần,” bệnh nhân cho ông ta biết. “Dù kỳ thực tôi tin vào nhiều thứ.”

“Cũng giống như nhiều người khác. Giờ hãy nghỉ ngơi đi, bạn của tôi. Thiên đường có thể đợi. Còn địa ngục thì quá nhỏ bé với anh.”

4

Giữa những cuộc ghé thăm của quý ông xa lạ có mái tóc đen nhánh, người bệnh yên lặng để cho người khác đút ăn, lau người và cho anh mặc những bộ quần áo sạch sẽ vốn hơi quá to với anh. Khi cuối cùng anh đã có thể đứng lên và tự bước được vài bước, họ dẫn anh xuống mép bờ biển để anh nhúng bàn chân xuống và cảm nhận biển Địa Trung Hải ve vuốt nhè nhẹ lên da thịt mình. Một hôm anh ngồi cả buổi sáng nhìn một nhóm những đứa trẻ rách rưới với khuôn mặt bẩn thỉu đang chơi trên cát, và anh nghĩ có lẽ anh muốn sống, ít nhất thêm một lúc nữa. Thời gian dần trôi, những ký ức và cơn giận bắt đầu ngoi lên, và kèm theo chúng là mong ước được quay lại thành phố và nỗi sợ phải quay lại.

Chân, cánh tay, và những bộ phận khác bắt đầu hoạt động ít nhiều như những gì anh nhớ được. Anh đã lấy lại niềm vui hiếm hoi là tè về hướng gió mà không bị nhói buốt hay gặp một biến cố đáng xấu hổ nào và tự nhủ rằng một người đàn ông có thể đứng đái mà không cần ai giúp đỡ là một người đàn ông đủ điều kiện đối mặt với trách nhiệm của mình. Ngay đêm hôm ấy, lúc trời còn chưa sáng, anh lặng lẽ thức dậy và bước qua những con ngõ hẹp mình trú ẩn đến tận đường tàu thứ chia cắt thị trấn và đường phố. Phía bên kia là rừng ống khói cùng các thiên thần và lăng tẩm của nghĩa trang in bóng lên nền trời. Xa hơn nữa, trong cái hoạt cảnh của ánh sáng trải dài khắp các sườn đồi, là Barcelona. Anh nghe thấy tiếng bước chân phía sau và khi quay lại anh bắt gặp cái nhìn bình thản của người có mái tóc đen.

“Anh đã tái sinh,” người kia nói.

“Vâng, hy vọng rằng lần này mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn. Cho đến giờ tôi đã trải qua một thời gian tồi tệ...”

Người tóc đen mỉm cười.

“Cho phép tôi tự giới thiệu. Tôi là Armando, người Gypsy.”

Fermín bắt tay ông.

“Fermín Romero de Torres, không phải người Gypsy.”

“Fermín, anh bạn tôi: tôi có ấn tượng rằng anh đang tính chuyện quay lại với những người kia.”

“Ông không thể làm con báo rũ bỏ vết đốm được,” Fermín quả quyết. “Tôi còn mấy chuyện chưa làm xong.”

Armando gật đầu.

“Tôi hiểu. Nhưng chưa được, bạn thân mến,” ông ta nói.

“Hãy kiên nhẫn. Cứ ở với chúng tôi một thời gian đã.”

Nỗi sợ về điều chờ đợi mình phía trước và sự rộng lượng của những người lạ mặt này đã giữ anh ở đó cho đến một sáng Chủ nhật, khi anh mượn được một tờ báo mà mấy đứa trẻ tìm thấy trong thùng rác của một quầy giải khát trên bãi biển La Barceloneta. Thật khó mà biết tờ báo đã nằm trong đống rác bao lâu, nhưng ngày ra báo là ba tháng sau cái đêm anh đào thoát. Anh lục lọi từng trang để tìm một dấu hiệu hay xem có chỗ nào nhắc đến mình không, nhưng chẳng có gì cả. Chiều hôm đó, khi anh đã quyết định quay lại Barcelona lúc đêm buông, Armando lại chỗ Fermín và bảo anh rằng người của ông đã đến nhà trọ anh ở trước đây.

“Fermín, tốt hơn hết anh không nên lai vãng đến đó để lấy đồ đạc.”

“Sao ông biết địa chỉ của tôi?”

Armando mỉm cười, tránh câu hỏi.

“Cảnh sát bảo họ rằng anh đã chết. Tin báo tử của anh xuất hiện trên báo cách đây vài tuần. Tôi không nói gì bởi lẽ tôi nhận ra đọc tin mình đã qua đời khi mà mình đang dưỡng bệnh thì chả nghĩa lý gì cả.”

“Tôi chết vì nguyên nhân gì?”

“Tự nhiên. Anh rơi xuống một khe núi khi cố chạy trốn khỏi pháp luật.”

“Vậy là tôi đã chết?”

“Chết như điệu nhảy polka.”

Fermín cân nhắc những hệ lụy phát sinh từ tình trạng mới của mình.

“Thế tôi làm gì bây giờ? Tôi về đâu đây? Tôi không thể ở mãi đây, lợi dụng lòng tốt của ông và đẩy mọi người vào chỗ nguy hiểm.”

Armando ngồi xuống cạnh anh và châm một điếu thuốc mà ông tự cuốn lấy. Nó có mùi khuynh diệp.

“Fermín, anh có thể làm điều anh muốn, bởi anh không tồn tại. Tôi xém nữa đã gợi ý anh ở lại đây, bởi giờ anh cũng là người như chúng tôi, những người không có tên và không được ghi nhận ở bất kỳ đâu. Chúng ta là những bóng ma. Vô hình. Nhưng tôi biết anh phải quay lại và giải quyết những việc anh bỏ dở ngoài kia. Thật không may, một khi anh rời khỏi đây, tôi không thể bảo vệ anh được nữa.”

“Ông đã làm quá đủ cho tôi rồi.”

Armando vỗ vai Fermín rồi đưa cho anh tờ giấy gấp nhỏ ông mang theo trong túi.

“Hãy rời thành phố một thời gian. Chờ một năm rồi hãy quay lại và, anh quay lại, hãy bắt đầu từ đây,” ông nói, rồi quay đi.

Fermín giở tờ giấy ra và đọc:

FERNANDO BRIANS

LUẬT SƯ

Phố Caspe, 12

Tầng gác mái, phòng 1

Barcelona. Điện thoại 564375

“Làm sao tôi có thể đền đáp những gì ông đã làm cho tôi đây?”

“Một ngày nào đó, khi đã giải quyết xong chuyện của anh, hãy về đây và tìm tôi. Chúng ta sẽ đi xem Carmen Amaya nhảy và anh có thể cho tôi biết làm thế nào anh thoát ra khỏi đó. Tôi tò mò đấy,” Armando nói.

Fermín nhìn vào đôi mắt đen và từ từ gật đầu.

“Ông đã ở trong phòng giam nào, Armando?”

“Phòng mười ba.”

“Những dấu thập ở trên tường có phải của ông không?”

“Không như anh, Fermín ạ, tôi tin vào Chúa, nhưng tôi đã mất niềm tin của mình.”

Chiều hôm đó không ai nói lời từ biệt với Fermín hay cố ngăn anh lại. Anh ra đi, lại thêm một người vô hình nữa, về phía những con đường của một Barcenola đầy điện đóm. Xa xa đằng kia những ngọn tháp của nhà thờ Sagrada Familia dường như kẹt vào một tấm chăn những đám mây đỏ báo hiệu một cơn bão có tầm vóc cỡ trong Kinh Thánh, và anh vẫn bước đi tiếp. Bước chân đưa anh đến trạm xe buýt ở phố Trafalgar. Có chút tiền trong túi chiếc áo khoác Armando đã cho anh, anh mua vé chuyến đi dài nhất mà xe chạy. Anh qua đêm trên chiếc xe buýt, băng qua những con đường hoang vắng dưới mưa. Ngày kế tiếp anh cũng làm y vậy, sau ba ngày ngồi tàu, đi bộ và qua đêm trên những chuyến xe buýt, anh đến một nơi mà những con phố không có tên và những ngôi nhà không có số, nơi không có gì và không ai có thể nhớ anh.

Anh có cả trăm công việc và không có bạn. Anh kiếm ra tiền, anh tiêu tiền. Anh đọc những cuốn sách kể về một thế giới mà anh không còn tin. Anh bắt đầu viết một bức thư mà anh không bao giờ biết phải kết thúc thế nào, anh vật lộn với những hồi tưởng và xót thương. Nhiều hơn một lần anh bước lên chiếc cầu hay một vách đá và điềm tĩnh nhìn xuống vực thẳm bên dưới. Vào phút cuối ký ức về lời hứa luôn quay trở lại, và cả ánh nhìn trong mắt Tù Nhân Của Thiên Đường. Sau một năm, Fermín rời căn phòng mà anh đã trọ trên quán cà phê, hành lý không có gì ngoài cuốn Thành phố bị nguyền rủa mà anh tìm được ở chợ đồ cũ - có lẽ là cuốn sách duy nhất của Martín không bị đốt và Fermín đã đọc nó cả chục lần - anh đi bộ hai cây số đến ga tàu và mua tấm vé đã chờ đợi anh suốt những tháng ấy.

“Làm ơn bán cho tôi vé một chiều đi Barcelona.”

Nhân viên bán vé xuất vé ra và đưa cho anh với ánh mắt khinh thị.

“Có các vàng tôi cũng không làm một việc như vậy,” anh ta nói. “Cái chốn rặt một lũ chó Catalan khốn kiếp ấy.”

5 Barcelona, 1941

Trời bắt đầu nhá nhem khi Fermín bước xuống tàu tại nhà ga Francia. Một đám khói và muội đen từ động cơ phun ra bay dọc sân ga, cuốn lấy chân hành khách khi họ bước xuống sau một hành trình dài. Fermín hòa vào dòng người lặng lẽ tiến đến lối ra, giữa những người mặc quần áo cũ mòn, kéo theo những chiếc va li có dây buộc, những người già trước tuổi mang theo mọi đồ đạc trong một cái bọc, trẻ em với những ánh mắt đờ đẫn và túi áo trống rỗng.

Hai tay hiến binh gác lối vào. Fermín trông thấy ánh mắt họ theo dõi hành khách và cách họ chặn ngẫu nhiên một người để hỏi giấy tờ. Anh bước thẳng về phía họ. Khi chỉ cách họ chừng chục mét, anh nhận ra tay hiến binh đang nhìn mình. Trong tiểu thuyết của Martín, cuốn sách mà Fermín mang theo suốt mấy tháng nay, một nhân vật đã thề rằng cách tốt nhất để vô hiệu hóa cơ quan thẩm quyền là lên tiếng với họ trước khi họ lên tiếng với mình. Nên trước khi tay hiến binh có thể gọi anh đứng lại, Fermín bước thẳng đến gã đó và nói với giọng bình tĩnh:

“Xin chào, sếp. Anh làm ơn chỉ cho tôi đường đến khách sạn Porvenir được không? Tôi tin rằng nó ở Plaza Palacio, nhưng tôi không thông thạo thành phố này lắm.”

Tên hiến binh yên lặng dò xét anh, hơi khó chịu. Đồng nghiệp của hắn tiến lại gần, đứng chắn ở bên phải.

“Anh sẽ phải hỏi ai đó khi đi ra khỏi đây,” hắn nói, giọng không mấy thân thiện.

Fermín gật đầu lịch sự.

“Tôi sẽ làm thế. Xin lỗi vì đã làm phiền các anh.”

Anh toan đi tiếp về phía sảnh, thì gã hiến binh kia níu tay anh lại.

“Plaza Palacio ở phía bên trái khi anh đi ra. Hướng ngược lại là doanh trại quân sự.”

“Hết sức cảm ơn các anh. Chúc buổi tối tốt lành.”

Hai tay hiến binh để cho anh đi và Fermín bước từ tốn, chậm rãi, cho tới khi đến sảnh rồi ra đường.

Ráng chiều đỏ ối phủ khắp Barcelona. Thành phố trông tối tăm với những bóng đen đầy góc cạnh bện xoắn lấy nó. Chiếc xe điện trống một nửa rì rì chạy, phát ra thứ ánh sáng lập lòe lên đường rải sỏi. Fermín đợi cho xe chạy qua rồi mới đi sang bên kia đường. Khi bước qua đường ray sáng bóng anh nhìn về phía xa xa, nơi hai phía của đại lộ Paseo Colon dường như đang hội tụ và ngọn đồi cùng lâu đài Montjuic hiện ra lờ mờ phía trên thành phố. Anh lại nhìn xuống và bước theo đường Comercio tiến về chợ Borne. Những con phố vắng bóng người và một cơn gió lạnh thổi qua những ngõ nhỏ. Anh không còn nơi nào mà đi.

Anh nhớ Martín có kể nhiều năm trước ông sống trong khu vực đó, một căn nhà lớn đã cũ, bị chôn vùi trong con hẻm tối trên phố Flasaders, cạnh nhà máy sô cô la cũ Maurti. Fermín tiến về hướng đó nhưng khi đến nơi anh nhận ra rằng tòa nhà đã bị nã pháo trong chiến tranh. Chính quyền không thèm di dời đống phế liệu, nên cư dân ở đây đã chất chúng thành đống bên đường, hẳn là dành chỗ cho họ đi lại trên phố, và chỗ này còn hẹp hơn cả hành lang của những ngôi nhà trong những khu vực tươm tất hơn của thành phố.

Fermín nhìn xung quanh anh. Ánh sáng mờ đục của những bóng đèn và ngọn nến giạt xuống từ phía những ban công. Anh dấn sâu vào đống đổ nát, nhảy qua đống gạch, những miệng máng xối, và những xà rầm xoắn vào nhau thành những nút thắt tưởng như không có thực, để tìm một nơi giữa đống nhà đổ nát này. Cuối cùng anh nằm xuống dưới một vòm đá vẫn còn số 30 khắc bên trên, địa chỉ ngày xưa của David Martín. Che người bằng chiếc áo khoác và những tờ báo cũ lót bên trong, anh nằm cuộn tròn, nhắm mắt lại và cố chợp mắt.

Nửa giờ trôi qua và cái lạnh bắt đầu ngấm sâu vào xương tủy. Một cơn gió liếm vào đống tàn tích, tìm kiếm lỗ và khe hở. Fermín mở mắt và đứng dậy. Anh đang định tìm nơi được che chắn kỹ hơn, thì anh nhận ra trên phố có một bóng người đang nhìn mình. Fermín đông cứng người lại. Dáng người đó tiến thêm vài bước về phía anh.

“Ai đấy?” bóng người kia hỏi.

Người đó tiến gần hơn một chút và ánh sáng từ xa của ngọn đèn đường hé lộ khuôn mặt của một người cao ráo, rắn chắc, mặc đồ đen. Fermín để ý cổ áo: một cha xứ. Anh giơ cả hai tay lên làm cử chỉ dĩ hòa vi quý.

“Con đang chuẩn bị đi khỏi đây, thưa cha. Làm ơn, đừng gọi cảnh sát.”

Cha xứ nhìn anh từ đầu đến chân. Ánh mắt ông khắc khổ và ông có dáng vẻ của một người đã dành nửa cuộc đời để bốc vác ngoài cảng chứ không phải là cầm cốc lễ.

“Con có đói không?” ông hỏi.

Fermín hẳn sẽ ăn bất kỳ viên đá thô ráp nào tại đây nếu người ta rỏ vài giọt dầu ô liu lên đó, nhưng anh lắc đầu.

“Con vừa ăn tối ở Siete Puertas, con đã nhồi nhét no nê món tôm hùm rồi,” anh nói.

Vị cha xứ mỉm cười. Ông quay đi và bắt đầu bước.

“Đi nào,” ông ra lệnh.

6

Cha Valera sống ở tầng trên cùng của một tòa nhà cuối đường Borne, từ đây có thể nhìn ra những mái nhà của khu chợ. Fermín nhanh chóng vét sạch ba bát xúp loãng cùng vài mẩu bánh mì ôi, cùng với một ly rượu pha nước lã mà cha xứ đặt trước mặt anh, trong khi ông nhìn anh với vẻ tò mò.

“Cha không ăn tối ư, thưa cha?”

“Ta thường không ăn tối. Con cứ ăn đi. Ta thấy như con đói ăn từ mãi năm 1936 vậy.”

Trong khi xì xụp ăn xúp cùng bánh mì, anh nhìn một lượt khắp phòng ăn. Bên cạnh anh, một chiếc tủ kính bày một bộ sưu tập đĩa và ly, nhiều tượng thánh và trông như có một bộ dao dĩa bạc khiêm tốn.

“Ta cũng đọc Những người khốn khổ, nên đừng nghĩ đến chuyện đó,” cha xứ cảnh báo.

Fermín gật đầu, xấu hổ.

“Tên con là gì?”

“Fermín Romero de Torres, sẵn lòng phục vụ đức cha.”

“Họ có đang đuổi theo con không, Fermín?”

“Còn tùy xem cha nhìn nhận thế nào. Chuyện đó phức tạp lắm.”

“Nếu con không muốn kể thì ta cũng không quan tâm. Nhưng với quần áo như thế kia con không thể lai vãng ở nơi này được. Con sẽ bị bắt vào tù trước cả khi đến phố Layetana. Người ta đang chặn bắt rất nhiều người sống ẩn dật dạo gần đây. Con phải cẩn thận đấy.”

“Ngay khi lấy được số tiền con giấu trong một cái kho kín, con nghĩ mình sẽ ghé qua El Dique Flotante và bước ra với vẻ bảnh bao thường lệ.”

“Chắc rồi. Nhưng ngay lúc này, giúp ta một việc. Con đứng lên một lát, được không?”

Fermín buông thìa và đứng dậy. Cha xứ dò xét cẩn thận.

“Ramón to cao gấp đôi con, nhưng ta nghĩ mấy bộ quần áo của cậu ấy lúc còn trẻ chắc vừa với con.”

“Ramón ư?”

“Em trai của ta. Nó bị giết ở kia, trên đường, ngay cửa trước, vào tháng Năm năm 1938. Bọn chúng tìm ta, nhưng nó đã chặn chúng lại. Nó là một nhạc công giỏi. Nó chơi cho ban nhạc của thành phố. Tay kèn trumpet chính.”

“Con rất tiếc, thưa cha.”

Cha xứ nhún vai.

“Ít nhiều thì tất cả mọi người ai cũng gặp mất mát, bất kể họ có thuộc về phe nào.”

“Con không thuộc về phe nào cả,” Fermín đáp. “Hơn nữa, con nghĩ rằng cờ quạt chẳng gì khác một món giẻ rách được tô vẽ đại diện cho những thứ cảm xúc bốc mùi. Chỉ cần nhìn thấy ai đó quàng lên mình lá cờ, khạc nhổ đủ loại quốc ca, phù hiệu và rao giảng là con lại phải chạy đi tiêu. Con luôn nghĩ rằng hễ cứ kẻ nào thấy khẩn thiết phải tham gia bầy đàn thì kẻ đó phải có chút tính cừu trong người.”

“Con hẳn đã trải qua một thời gian khó khăn ở đất nước này.”

“Cha chẳng biết được đâu. Nhưng con luôn tự nhắc nhở rằng cứ được ăn bánh nhân thịt tiêu cay là hết thảy đều được bù đắp. Mà dù sao thì thế giới này ở đâu chả vậy.”

“Đúng vậy. Nói ta nghe, Fermín. Lần gần đây nhất con ăn bánh nhân thịt tiêu cay là khi nào?”

“Mồng sáu tháng Ba năm 1934. Los Caracoles, trên phố Escudellers. Một cuộc đời khác.”

Cha xứ mỉm cười.

“Đêm nay con có thể ở đây, Fermín, nhưng ngày mai con phải tìm chỗ khác. Người ta sẽ bàn tán. Ta có thể cho con ít tiền thuê chỗ nghỉ, nhưng đừng quên rằng người ta sẽ hỏi giấy tùy thân và ghi sổ cho cảnh sát tên khách trọ.”

“Cái đó thì khỏi phải nói rồi, thưa cha. Ngày mai, trước bình minh, con sẽ biến mất còn nhanh hơn cả lòng tốt. Và con không thể nhận một xu của cha. Con đã lợi dụng cha nhiều lắm rồi...”

Cha xứ đưa một tay lên và lắc đầu.

“Cứ thử xem mấy thứ của Ramón khoác lên người con trông sẽ thế nào,” ông nói, và đứng dậy.

Cha Valera khăng khăng tặng cho Fermín một đôi giày vẫn còn mơi mới, chiếc áo len khiêm nhường nhưng sạch sẽ, hai bộ đồ lót cùng ít đồ vệ sinh cá nhân mà ông bỏ hết vào một chiếc va li. Chiếc kèn trumpet sáng bóng bày trên kệ, cạnh mấy bức ảnh chụp hai thanh niên trẻ trung ưa nhìn đang mỉm cười, trông như được chụp tại lễ hội hằng năm của quận Gracia. Ta phải nhìn kỹ lắm mới nhận ra một người trong đó là cha Valera, giờ trông ông đã già thêm ba chục tuổi.

“Ta không có nước nóng. Sáng mai người ta mới đổ nước vào bể, nên hoặc là con đợi, hoặc là con dùng nước trong bình này.”

Trong khi Fermín tắm rửa sạch sẽ nhất có thể, cha Valera chuẩn bị một ấm cà phê cùng ít rau diếp xoăn pha với vài thứ khác trông rất khả nghi. Không có đường nhưng ly nước bân bẩn đó thật ấm áp và người bạn uống cùng anh thì dễ chịu.

“Người ta sẽ nghĩ chúng ta đang ở Colombia thưởng thức những hạt cà phê ngon nhất mất,” Fermín nói.

“Con quả là người kỳ dị, Fermín ạ. Ta có thể hỏi con một chuyện cá nhân được không?”

“Liệu cha sẽ giữ bí mật, như thể đây là một buổi xung tội chứ?”

“Cứ xem như là có.”

“Vậy tới luôn đi.”

“Con đã bao giờ giết người chưa? Ý ta là, trong chiến tranh.”

“Chưa,” Fermín đáp.

“Ta thì rồi.”

Fermín đơ người, ly cà phê đã cạn nửa. Cha xứ hạ mắt xuống.

“Ta chưa bao giờ kể cho ai.”

“Hãy xem như chúng ta vẫn đang trong buồng xưng tội,” Fermín trấn an ông.

Cha xứ dụi mắt và thở dài. Fermín tự hỏi đã bao nhiêu lâu con người này sống đơn độc ở đây, ấp ủ cái bí mật và ký ức về người em đã chết của mình.

“Cha hẳn phải có lý do, thưa cha.”

Cha xứ lắc đầu.

“Chúa đã bỏ mặc đất nước này,” ông nói.

“Vậy cha đừng lo. Ngay khi ngài nhìn thấy điều đang manh nha ở phía bắc Pyrenees, ngài sẽ thấy hổ thẹn mà cụp đuôi quay về.”

Cha xứ im lặng một lúc lâu. Họ uống hết chỗ cà phê thế phẩm và để giải khuây cho vị cha xứ, người dường như càng thêm u uất mỗi phút trôi đi, Fermín rót cho mình ly thứ hai.

“Con thực sự thích thứ cà phê này chứ?”

Fermín gật đầu.

“Con có muốn ta nghe lời xưng tội của con không?” cha xứ đột nhiên hỏi. “Ta lần này thì là xưng tội thật sự.”

“Mong cha đừng phật lòng, thưa cha, nhưng con không thực sự tin mấy thứ kiểu vậy...”

“Nhưng có lẽ Chúa tin ở con.”

“Con không chắc.”

“Con không cần phải tin vào Chúa mới xưng tội được. Đây là chuyện giữa con và lương tâm của con. Có gì để mất đâu?”

Trong suốt mấy giờ tiếp đó Fermín kể cho cha Valera mọi chuyện anh giữ trong lòng kể từ khi trốn khỏi lâu đài cách nay đã một năm. Vị cha xứ lắng nghe chăm chú, đôi khi lại gật đầu. Cuối cùng, khi Fermín cảm thấy anh đã nói hết thảy mọi chuyện và rằng phiến đá bóp nghẹt hơi thở mấy tháng qua mà mình nhận ra đã lặng lẽ biến mất, cha Valera lôi dưới bàn ra một chai rượu, và không hỏi anh, ông rót phần còn lại vào ly và đưa cho Fermín.

“Con đang hy vọng có một giải pháp, thưa cha, chứ không phải được thưởng một tợp cognac.”

“Cũng thế cả thôi. Ngoài ra, ta không còn ở vị thế để tha thứ hay phán xét ai nữa, Fermín ạ. Nhưng ta nghĩ con cần giải tỏa hết những điều trong lòng như thế. Con định làm gì bây giờ?”

Fermín nhún vai.

“Con quay lại, hay chính xác hơn là liều chết mà quay lại, là bởi lời hứa của con với Martín. Con phải tìm vị luật sư, tìm cô Isabella và cậu bé Daniel ấy, và bảo vệ họ.”

“Bằng cách nào?”

“Con không biết. Con đang nghĩ. Cha có gợi ý gì không?” “Nhưng con còn không biết họ kia mà. Họ chỉ là những người lạ mà người đàn ông con gặp trong tù kể con nghe...”

“Con biết. Khi cha nói kiểu ấy thì kế hoạch đó nghe cũng hơi điên nhỉ?”

Vị cha xứ nhìn anh như thể ông có thể thấu qua những lời lẽ của anh.

“Lẽ nào vì đã gặp quá nhiều khổ đau và quá nhiều điều xấu xa ở con người nên con muốn làm điều tốt, kể cả khi đó là một điều điên rồ?”

“Và tại sao lại không?”

Valera mỉm cười. Vị cha xứ cầm lấy ly rượu trong tay Fermín mà anh chưa kịp nếm rồi nốc cạn.

“Ta biết Chúa tin ở con.”

7

Ngày hôm sau, Fermín rón rén đi ra khỏi căn hộ để không làm phiền cha Valera, người đã chìm vào giấc ngủ trên ghế xô pha với một tập thơ của Machado trong tay và đang ngáy như một con bò chiến. Trước khi đi anh hôn lên trán ông và để lại bộ đồ bạc - mà cha đã gói trong khăn và tuồn vào va li - lên bàn phòng ăn. Rồi anh bước xuống bậc thang với bộ quần áo sạch sẽ và lương tâm trong sạch, quyết tâm phải sống sót, ít nhất trong vài ngày nữa.

Ngày hôm ấy trời nắng gắt và một cơn gió mát lùa qua thành phố. Nắng rực rỡ và gay gắt, đổ bóng dài xuống mặt đường. Fermín bỏ cả buổi sáng ra để tản bộ qua những con phố mà anh còn nhớ, dừng lại trước các cửa hiệu và ngồi trên ghế dài để ngắm những cô gái xinh đẹp - với anh tất cả họ đều xinh đẹp. Tầm trưa, anh đi bộ đến một quán cà phê ngay đầu phố Escudeller, gần nhà hàng Los Caracoles của những ký ức hạnh phúc. Quán cà phê ấy tự bản thân nó cũng là chỗ khét tiếng đối với những người có khẩu vị dễ dãi và bạo dạn, vì đây là nơi bán món bánh kẹp rẻ nhất trong thành phố. Mẹo ở đây, các chuyên gia bảo, là đừng hỏi công thức.

Diện bộ quần áo mới bảnh bao và trang bị cả những tờ báo lót dưới áo để trông bệ vệ hơn, làm giả cơ bắp giữ ấm một cách rẻ tiền, Fermín ngồi ở quầy bar, xem các món đặc sản phù hợp với những túi tiền khiêm nhường và bắt đầu thương lượng với người phục vụ.

“Tôi có một câu hỏi, anh bạn trẻ. Trong món đặc biệt hôm nay, bánh mì nông dân kẹp mortadella và thịt nguội Cornellá, thì bánh mì có kèm cà chua tươi không?”

“Cà chua mới ngắt ngoài khu vườn ở El Prat của chúng tôi, ngay phía sau những nhà máy axit sunphuric.”

“Thế thì hương vị hảo hạng rồi. Và anh nói xem, anh bạn tốt, quán ăn này có ghi nợ cho những cá nhân có lý do phù hợp không?”

Người phục vụ mất đi nét vui vẻ và rút lui về sau quầy bar, đeo khăn lên vai bằng một cử chỉ không mấy thân thiện.

“Không với cả Chúa quyền năng.”

“Tôi hiểu. Và anh có tính đặc cách cho một anh hùng chiến tranh được trao huy chương và mang thương tật đầy người không?”

“Biến đi không chúng tôi gọi cảnh sát bây giờ.”

Trước những chính sách ngặt nghèo đang được áp dụng, Fermín vội vàng lủi đi, tìm một góc vắng lặng để tính toán lại kế hoạch của mình. Anh vừa yên chỗ nơi bậc thềm của tòa nhà bên cạnh thì một thiếu nữ, chưa quá mười bảy tuổi dù chỉ một ngày nhưng đã sở hữu những đường cong của một đóa hồng đang hé nở, bước qua anh và ngã úp mặt xuống đất.

Fermín bật dậy để giúp cô gái và chỉ vừa mới cầm cánh tay cô thôi thì anh nghe thấy một giọng nói khiến cho lời lẽ của gã phục vụ khó ưa vừa đuổi anh đi khi nãy nghe như tiếng nhạc thiên đường.

“Này, con đĩ đốn mạt kia, đừng giở trò với tao không tao cứa mặt mày và tống mày ra đường, nơi vốn đã đầy rẫy những con điếm ngớ ngẩn vô công rồi nghề bây giờ.”

Tác giả của câu nói thanh lịch kia hóa ra là một gã ma cô có nước da mai mái với một con mắt đáng ngờ về thời trang. Dù sự thực là kẻ đó to lớn gấp đôi Fermín, và đang cầm một vật có vẻ sắc, hay ít nhất là có một đầu khá nhọn, thì Fermín, vốn đang bắt đầu chán đến tận răng những kẻ du côn, đã sấn tới chắn giữa cô gái và kẻ hành hung cô.

“Còn mày là thằng chó nào hả, đồ ăn hại kia? Biến đi trước khi tao rạch nát mặt mày.”

Fermín cảm thấy cô gái sợ hãi siết chặt cánh tay mình. Cô toát lên mùi quế ngọt lẫn với mùi mực ống chiên kỹ. Thoáng nhìn thôi Fermín cũng đã nhận ra tình huống này không thể giải quyết qua đường ngoại giao, anh quyết định hành động. Sau một đánh giá chớp nhoáng về đối thủ anh kết luận rằng tổng thể mà nói hắn chủ yếu là một khối thịt nhão nhoét, và khi phải dụng đến cơ bắp thực sự, hay chất xám, thì hắn không thể tung một cú đấm chết người được.

“Đừng nói cái giọng đó với tôi, và với quý cô đây thì lại càng không được.”

Tên ma cô kinh ngạc nhìn anh, như thể hắn không thấm được chữ nào. Một giây sau, hắn, vốn không hề nghĩ sẽ ẩu đả với con người yếu đuối này, đã gặp phải một ngạc nhiên lớn trong đời khi một chiếc va li đập vào phần mềm của hắn, khiến hắn ngã xuống đất tay ôm phần kín. Tiếp đó một đầu chiếc va li da được dùng để nã thêm bốn năm cú đánh vào những chỗ chiến lược khiến cho hắn, ít nhất là trong chốc lát, không còn tâm trạng mà đánh lại.

Một nhóm người đi ngang qua chứng kiến cảnh tượng này bắt đầu vỗ tay và, khi Fermín quay lại xem cô gái có sao không, thì anh được chào đón bằng ánh mắt thiết tha, xen lẫn sự ân cần và lòng biết ơn vô hạn.

“Fermín Romero de Torres, hân hạnh được giúp đỡ quý cô.”

Cô gái nhón chân và hôn vào má anh.

“Em là Rociíto.”

Cái gã nằm dưới chân anh đang thở dốc và cố đứng dậy. Trước khi may mắn ngừng mỉm cười với mình, Fermín quyết định chạy xa khỏi đây.

“Tốt hơn hết chúng ta nên nhanh chân mà biến khỏi đây,” anh tuyên bố. “Giờ chúng ta đã mất đi thế chủ động, cuộc chiến sẽ không có lợi cho chúng ta...”

Rociíto nắm tay anh và dẫn anh qua cái mạng lưới chằng chịt những con phố hẹp dẫn đến Plaza Real. Khi đã ra giữa chỗ trời quang đầy nắng, Fermín mới dừng lại một lát để lấy hơi. Rociíto nhận ra rằng Fermín cứ tái dần đi. Trông anh không khỏe. Cô đoán rằng tình trạng ấy là do cuộc chạm trán kia gây ra, hoặc có lẽ cơn đói đã khiến nhà vô địch dũng cảm của cô hạ huyết áp. Cô dẫn anh đến hiên Hostal Dos Mundos, nơi Fermín ngã vật xuống ghế.

Rociíto mới mười bảy tuổi nhưng đã có cái khả năng đoán bệnh mà nhiều bác sĩ kinh nghiệm cũng phải thèm thuồng, cô bèn gọi một loạt bánh tapa để làm anh hồi tỉnh. Khi Fermín thấy bữa tiệc được đưa đến, anh hoảng sợ.

“Rociíto, trên người ta không có một xu nào đâu...”

“Để em trả,” cô hãnh diện cắt lời. “Em phải quan tâm đến người đàn ông của em và cho ảnh ăn đầy đủ.”

Rociíto tiếp tục nhồi cho anh xúc xích cay, bánh mì và khoai tây trộn gia vị, tất cả đều được dọn sạch cùng với một cốc bia vĩ đại. Fermín từ từ hồi sinh và lấy lại sắc thái sinh động trước sự mãn nguyện thấy rõ của cô gái.

“Còn tráng miệng, nếu anh muốn, em có thể mời anh món đặc biệt của quán sẽ làm anh đổ nghiêng đổ ngả,” người thiếu nữ liếm môi mời mọc.

“Nghe này, cô bé, chẳng phải giờ này cô đáng ra phải ở trường với các bà xơ sao?”

Rociíto cười trước câu đùa của anh.

“Đồ khốn này, anh đúng là bẻm mép!”

Khi bữa tiệc vẫn tiếp diễn, Fermín vỡ lẽ rằng, nếu cứ để cô gái này quyết định thì anh đang có trước mặt một sự nghiệp hứa hẹn là dắt gái. Nhưng còn có những chuyện quan trọng hơn làm anh phải bận tâm.

“Em bao nhiêu tuổi rồi, Rociíto?”

“Mười tám tuổi rưỡi, thưa ngài Fermín.”

“Trông em già hơn đấy.”

“Tại cặp bưởi của em đấy. Có chúng khi em mới mười ba. Nhìn cũng thích nhỉ, phải không, dù em không nên nói vậy.”

Fermín, vốn không còn được để mắt đến những đường cong từ những ngày xa xưa ở Havana, cố gắng lấy lại óc xét đoán thông thường.

“Rociíto,” anh bắt đầu nói, “ta không thể chăm sóc em được...”

“Em biết, thưa ngài Fermín. Đừng nghĩ là em ngu ngốc. Em biết anh không phải hạng đàn ông sống dựa vào phụ nữ. Có thể em còn trẻ, nhưng em biết chuyện sẽ như thế nào...”

“Em phải cho ta biết chỗ mà ta sẽ gửi tiền bồi hoàn cho bữa tiệc hào phóng này. Còn lúc này ta đang trong một tình cảnh tài chính rất tế nhị...”

Rociíto lắc đầu.

“Em có phòng ở đây, trong nhà khách này. Em ở cùng với Lali, nhưng nó suốt ngày ra ngoài vì nó làm chỗ các tàu buôn... Sao anh không lên đó, rồi em sẽ mát xa cho anh?”

“Rociíto...”

“Không tính phí đâu...”

Fermín nhìn chằm cô với một cảm giác u buồn.

“Đôi mắt ngài buồn lắm, ngài Fermín. Hãy để Rociíto bé nhỏ làm anh vui, dù chỉ một lúc thôi. Điều đó thì có làm hại gì đâu?”

Fermín cúi xuống xấu hổ.

“Anh không ở bên cạnh phụ nữ đã bao lâu rồi?”

“Ta còn không nhớ nổi.”

Rociíto chìa tay ra, kéo anh đi theo mình, dẫn anh lên một căn phòng nhỏ với không gian vừa đủ cho một chiếc giường xiêu vẹo và một bồn rửa. Một ban công nhỏ nhìn xuống quảng trường. Cô gái kéo rèm lên và trong chốc lát đã cởi chiếc váy in hoa cô đang mặc mà không có đồ lót bên trong. Fermín liếc nhìn điều kỳ diệu của tự nhiên và để mặc cho bản thân được ôm ấp bởi một trái tim cơ hồ cũng già cỗi như trái tim anh.

“Chúng ta không cần làm gì cả, nếu anh không muốn, được chứ?”

Rociíto nằm lên giường và duỗi người ra bên cạnh anh. Cô ôm anh thật chặt rồi xoa đầu anh.

“Suỵt, suỵt,” cô thì thầm.

Khuôn mặt vùi vào ngực của cô gái mười tám tuổi, Fermín bật khóc.

*

Khi màn đêm buông xuống và Rociíto phải bắt đầu ca làm việc của mình, Fermín lôi ra mảnh giấy Armando đã đưa cho anh một năm trước, với địa chỉ của Brians, vị luật sư, và quyết định ghé thăm nơi đó một chuyến. Rociíto một mực muốn cho anh mượn ít tiền lẻ, đủ để bắt vài chuyến xe điện và mua một ly cà phê. Cô bắt anh phải thề, hết lần này đến lượt nọ, rằng anh sẽ quay lại gặp, dù chỉ là để đưa cô đi xem phim hay đi lễ Misa: cô có một niềm sùng kính đặc biệt với Đức Mẹ đồng trinh Carmen và cô yêu những buổi lễ, nhất là những buổi lễ nhạc. Rociíto xuống cầu thang cùng anh và khi họ nói lời từ biệt, cô hôn lên môi anh rồi nhéo vào mông anh.

“Yêu lắm cơ,” cô nói trong khi nhìn anh ra đi dưới những mái vòm của khu phố.

Khi Fermín băng qua quảng trường Cataluna, một dải những đám mây bắt đầu xoáy cuộn trên bầu trời. Đàn bồ câu thường bay qua quảng trường đã trú ngụ dưới những tán cây và kiên nhẫn chờ đợi. Người ta có thể ngửi thấy mùi phấn khích trong không khí khi họ vội vã bước đến cổng vào dẫn xuống tàu điện ngầm. Một cơn gió khó chịu bắt đầu thổi, kéo theo lá khô bay là là trên mặt đất. Fermín rảo chân và đúng lúc anh đến phố Caspe, cơn mưa trút xuống.

8

Brians là chàng trai có dáng vẻ một sinh viên phóng túng tưởng như chỉ sống nhờ bánh quy mặn và cà phê, chính là thứ ta ngửi thấy khi vào văn phòng của anh ta. Chúng, và cả giấy tờ bụi bẩn. Nơi làm việc của vị luật sư là căn phòng nhỏ, tù túng nằm ở cuối một hành lang tối tăm, trên tầng gác mái của nhà hát Tivoli. Anh ta vẫn ở đó lúc tám giờ ba mươi tối. Anh ta mở cửa, bận áo sơ mi và chào vị khách bằng cái gật đầu cùng tiếng thở dài.

“Fermín, anh hẳn là Fermín. Martín đã kể cho tôi về anh. Tôi bắt đầu tự hỏi bao giờ anh sẽ ghé qua.”

“Tôi đã đi xa một thời gian.”

“Dĩ nhiên. Xin mời vào.”

Fermín theo anh ta vào trong căn phòng nhỏ.

“Đêm nay ghê rợn thật ấy nhỉ?” vị luật sư nói. Giọng anh ta có vẻ lo lắng.

“Chỉ là nước thôi mà.”

Fermín nhìn quanh mình và nhận ra có mỗi một chiếc ghế. Brians nhường anh chỗ đó và ngồi lên chồng sách luật dân sự, hình sự.

“Tôi vẫn đang chờ đồ đạc dọn tới.”

Fermín có thể nhận ra nơi này thậm chí còn không đủ chỗ cho một chiếc gọt bút chì, nhưng anh nghĩ tốt nhất không nên hé miệng. Trên bàn là một chiếc bánh nhân thịt xay và một ly bia. Một miếng khăn giấy báo cho anh biết bữa tối xa xỉ kia mua ở quán cà phê dưới tầng trệt.

“Tôi sắp ăn tối. Tôi sẵn lòng chia sẻ với anh.”

“Không, không, anh cứ ăn đi, người trẻ như anh mới cần ăn, hơn nữa, tôi đã ăn tối rồi.”

“Tôi mời anh thứ gì nhé? Cà phê?”

“Nếu anh có kẹo Sugus...”

Brians quờ quạng trong cái ngăn bàn chứa đủ mọi thứ ngoại trừ kẹo ngọt Sugus.

“Kẹo cam thảo nhé?”

“Không sao, cảm ơn.”

“Vậy, nếu anh không phiền thì...”

Brians cắn thật mạnh miếng bánh, nhai khoái trá, Fermín băn khoăn giữa họ ai là người đói hơn. Bên cạnh bàn, cánh cửa dẫn sang phòng bên khép hờ. Fermín thoáng thấy một chiếc giường chưa dọn, một cái cọc treo đồ với mấy chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ và một chồng sách.

“Anh sống ở đây ư?” Fermín hỏi.

Rõ ràng vị luật sư mà Isabella có thể thuê bào chữa cho Martín không phải là người nhiều tham vọng. Brians nhìn theo ánh mắt của Fermín và nở nụ cười nhũn nhặn.

“Nơi này, tạm thời, là văn phòng cũng là nhà của tôi, đúng vậy,” Brians đáp, đoạn nghiêng người đóng cửa phòng ngủ lại.

“Hẳn anh nghĩ trông tôi không giống một luật sư. Anh không phải người duy nhất đâu. Cha tôi cũng thế.”

“Xin chớ bận tâm. Cha tôi luôn thích thú gọi chúng tôi là một lũ đần độn vô dụng thế nào cuối cùng cũng đi khiêng đá ngoài mỏ, nếu bọn tôi may mắn. Và giờ nhìn tôi mà xem, oách hết tầm. Được gia đình tin tưởng và ủng hộ rồi thành công thì có gì đáng ngợi ca?”

Brians miễn cưỡng gật đầu.

“Nếu anh nhìn theo cách đó... Thật ra mà nói, tôi cũng mới tách ra làm riêng. Trước kia tôi làm việc cho một hãng luật nổi tiếng cũng ở gần đây trên đường Gracia. Nhưng chúng tôi bất đồng về một số chuyện. Rồi kể từ ấy mọi việc không dễ dàng cho lắm.”

“Để tôi đoán nhé. Valls?”

Brians gật đầu, uống hết cốc bia chỉ trong ba ngụm.

“Từ khi tôi nhận vụ kiện của ông Martín, Valls đã không dừng tay cho đến khi hắn khiến gần như tất cả khách hàng rời bỏ tôi và tôi bị sa thải. Những người ít ỏi vẫn theo tôi là những người không có lấy một xu và không thể trả tiền phí.”

“Còn cô Isabella?”

Bóng đen che lấp khuôn mặt vị luật sư. Anh ta để cốc bia lên bàn và dè dặt nhìn Fermín.

“Anh không biết sao?”

“Biết gì cơ?”

“Isabella Sempere đã mất.”

9

Cơn bão đổ vào thành phố. Fermín cầm ly cà phê trên tay trong khi Brians, đang đứng bên cửa sổ để mở, ngắm mưa rơi tạt vào những mái nhà ở quận Ensanche và kể lại những ngày cuối cùng của Isabella.

“Chị ấy đột nhiên ngã bệnh, không có lời giải thích nào. Nếu anh biết rõ chị ấy... Isabella còn trẻ, đầy sức sống. Chị ấy tính cương nghị và đã trải qua gian khó thời chiến. Chuyện chỉ xảy ra trong một đêm. Vào cái đêm anh trốn khỏi tòa lâu đài đó, Isabella về nhà muộn. Khi chồng phát hiện ra, chị ấy đang quỳ trong phòng tắm, người vã mồ hôi và tim đập nhanh. Chị ấy bảo cảm thấy không được khỏe. Họ gọi bác sĩ, nhưng trước khi ông ấy đến chị đã bị co giật và nôn ra máu. Bác sĩ bảo là do ngộ độc thức ăn và bảo chị ấy phải theo một chế độ ăn nghiêm ngặt trong vài ngày, nhưng sáng hôm sau lại càng tệ hơn. Anh Sempere đã quấn chị ấy trong chăn, và một hàng xóm làm nghề lái taxi đã chở họ đến bệnh viện Mar. Chị ấy bị nổi những vết thâm đen, như nhọt, và tóc rụng từng nắm. Trong bệnh viện họ phải chờ vài tiếng nhưng cuối cùng bác sĩ cũng không chịu khám, bởi ai đó trong phòng đợi, một bệnh nhân chưa được khám, bảo rằng hắn ta biết anh Sempere và cáo buộc anh ấy là cộng sản hay một thứ gì đó đại loại thế. Tôi cho hắn làm như vậy là vì muốn chen ngang. Một y tá cho họ thứ xi rô mà cô ta nói sẽ giúp làm sạch dạ dày cho Isabella, nhưng Isabella không thể nuốt được gì. Anh Sempere không biết phải làm gì. Anh ấy đưa chị về nhà và bắt đầu gọi hết bác sĩ này đến bác sĩ khác. Không ai biết chị ấy bị làm sao. Một người bán thuốc là khách hàng quen của hiệu sách biết một người làm ở bệnh viện Lâm sàng. Anh Sempere đưa Isabella đến đó.” “Trong bệnh viện Lâm sàng, người ta bảo với Sempere rằng có lẽ đó là bệnh tả và anh phải đưa chị ấy về nhà, bởi dịch bệnh đang bùng phát và bệnh viện đang quá tải. Trong vùng đã có mấy người chết. Càng ngày, Isabella càng yếu hơn. Chị ấy bị hôn mê. Chồng chị đã làm mọi thứ có thể làm. Anh ấy đã lên trời xuống biển, nhưng chỉ sau vài ngày, chị ấy yếu đến mức không thể mang chị vào viện. Chị ấy chết một tuần sau khi ngã bệnh, trong căn hộ trên phố Santa Ana, phía trên hiệu sách...”

Một quãng lặng dài bao trùm lấy họ, và chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng mưa lộp độp cùng những tiếng sấm xa dần khi cơn gió đã dịu đi.

“Mãi cho đến một tháng sau tôi mới nghe được tin người ta đã thấy chị ấy ở quán cà phê Opera, đối diện Liceo. Ngồi cùng Mauricio Valls. Không chịu nghe tôi, Isabella đã đe dọa sẽ tiết lộ dự định dùng Martín để viết lại mấy thứ rác rưởi của hắn hòng trở nên nổi tiếng và tắm trong vinh quang. Tôi đến đó để tìm hiểu thêm. Người phục vụ nhớ rằng Valls đi ô tô đến trước chị ấy, hắn gọi hai ly trà hoa cúc và mật ong.”

Fermín cân nhắc lời vị luật sư trẻ tuổi.

“Và anh tin Valls đã đầu độc cô ấy?”

“Tôi không thể chứng minh được, nhưng càng nghĩ tôi lại càng thấy thế. Chắc chắn phải là Valls.”

Fermín nhìn xuống sàn nhà.

“Ông Martín có biết không?”

Brians lắc đầu.

“Không. Sau khi anh trốn thoát, Valls đã lệnh đưa Martín vào phòng biệt giam trong tòa tháp.”

“Còn bác sĩ Sanahuja? Họ có được nhốt cùng nhau không?” Brians cất tiếng thở dài ngán ngẩm.

“Sanahuja bị xử ở tòa án binh về tội mưu phản không lâu sau khi anh trốn thoát. Một tuần sau đó ông ấy bị bắn.”

Một quãng lặng dài nữa tiến vào căn phòng. Fermín đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại, trông giận dữ.

“Vậy sao không có ai tìm tôi? Dù gì, tôi cũng là nguyên nhân của tất cả chuyện này mà...”

“Anh không tồn tại. Để tránh bị mất mặt trước cấp trên và chấm dứt một sự nghiệp hứa hẹn làm việc cho chế độ, Valls đã triệu tập cái nhóm tuần tra hắn phái đi để tìm anh và bắt họ phải thề rằng họ đã bắn chết anh trong khi anh cố bỏ trốn dọc sườn đồi Montjuic, và họ đã vứt anh vào khu mộ chung.”

Fermín nếm thấy nỗi tức giận trên môi.

“Ồ, xem nào, tôi sẽ đến văn phòng chính phủ ngay lúc này và mời chúng hôn lên cái đít mới hồi sinh của tôi. Tôi muốn xem Valls giải thích thế nào chuyện tôi từ hầm mộ trở về.”

“Đừng nói vớ vẩn. Làm thế anh chẳng giải quyết được gì đâu. Anh sẽ bị giải đến Carretera de las Aguas rồi bị bắn vào sọ. Thứ sâu bọ đó không đáng để anh làm thế.”

Fermín gật đầu tán thành, nhưng cảm giác xấu hổ và tội lỗi cào xé trong lòng.

“Còn Martín? Chuyện gì sẽ xảy ra với ông ấy?”

Brians nhún vai.

“Chuyện này là bí mật đấy nhé. Không thể lọt ra ngoài bốn bức tường này được. Một cai ngục trong lâu đài đó, một gã tên Bebo, mang nợ tôi vài ân huệ. Người ta định giết một người em của anh ta nhưng tôi đã lo cho án phạt giảm xuống còn mười năm ở nhà tù Valencia. Bebo là một gã tử tế kể cho tôi mọi chuyện anh ta trông thấy và nghe được ở trong lâu đài kia. Valls không cho phép tôi gặp Martín, nhưng qua Bebo tôi đã biết được rằng ông ấy còn sống, Valls nhốt ông ấy trong tòa tháp và theo dõi sát sao