← Quay lại trang sách

HOÀI NGHI 1-Barcelona, 1957

Tia sáng đầu tiên của ban mai tìm thấy tôi nơi ngưỡng cửa phòng ngủ của Julián nhỏ bé. Đây là lần đầu nó ngủ ngon vậy, cách xa khỏi mọi thứ và mọi người, với nụ cười hé trên môi. Tôi nghe thấy Bea tiến đến và cảm thấy bàn tay nàng trên lưng mình.

“Anh đứng đây bao lâu rồi?” nàng hỏi.

“Một lúc rồi.”

“Anh đang làm gì thế?”

“Anh đang ngắm con.”

Bea bước đến nôi của Julián đoạn cúi xuống hôn lên trán nó.

“Tối qua anh về lúc mấy giờ?”

Tôi không đáp.

“Fermín thế nào?”

“Không đến nỗi.”

“Còn anh?” Tôi gượng cười. “Anh có muốn nói về chuyện đó không?” nàng nài nỉ.

“Để hôm khác.”

“Em tưởng là giữa hai ta không có gì bí mật cả,” Bea nói.

“Anh cũng nghĩ vậy.”

Nàng ngạc nhiên ngước nhìn tôi.

“Ý anh là sao, Daniel?”

“Không sao cả. Anh không có ý gì hết. Anh rất mệt. Chúng ta về giường được không?”

Bea nắm tay dẫn tôi về phòng ngủ.

Chúng tôi nằm xuống giường và tôi ôm nàng.

“Đêm nay em đã mơ về mẹ anh,” Bea nói. “Về Isabella.”

Cơn mưa bắt đầu trút lên khung cửa sổ.

“Trong mơ em là một cô bé con, và mẹ đang nắm tay em. Em và mẹ ở trong một căn nhà rộng và rất cũ, có những phòng lớn và chiếc dương cầm lớn, cùng ban công lắp kính quay về một khu vườn có hồ nước. Có một cậu bé ở bên hồ. Cậu bé trông giống như Julián, nhưng em biết thực ra đó là anh, đừng hỏi em vì sao. Isabella quỳ xuống bên cạnh và hỏi em có nhìn thấy anh không. Anh đang chơi bên hồ nước với một con thuyền giấy. Em bảo có. Rồi bà dặn em chăm sóc anh. Chăm sóc anh suốt đời bởi bà phải đi xa.”

Chúng tôi nằm đó mà không nói gì một hồi lâu, lắng nghe tiếng mưa rơi tí tách.

“Tối qua Fermín đã kể chuyện gì với anh?”

“Sự thật,” tôi đáp. “Anh ấy kể sự thật.”

Khi tôi cố tường thuật lại câu chuyện của Fermín, Bea yên lặng lắng nghe. Ban đầu tôi thấy nỗi giận dữ trào dâng trong lòng, nhưng khi dấn sâu vào câu chuyện tôi bắt đầu thấy buồn và tuyệt vọng. Chuyện này hoàn toàn mới mẻ với tôi và tôi vẫn không biết mình sẽ sống ra sao với những bí mật và ẩn ý đằng sau những điều Fermín đã hé lộ. Những sự kiện ấy đã xảy ra gần hai chục năm trước, và thời gian trôi đi đã biến tôi thành một khán giả, không hơn không kém, của một vở kịch trong đó số mệnh của tôi đã được định đoạt trước.

Khi kể xong, tôi nhận thấy vẻ lo lắng trong mắt Bea. Không khó để đoán ra nàng đang nghĩ gì.

“Anh đã hứa với bố là chừng nào bố còn sống anh sẽ không tìm kẻ đó, Valls, hay làm điều gì khác,” tôi nói thêm, để trấn an nàng.

“Khi bố còn sống ư? Vậy sau đó thì thế nào? Anh không nghĩ về chúng ta ư? Về Julián nữa?”

“Dĩ nhiên là có. Và em đừng có lo lắng,” tôi nói dối. “Sau khi nói chuyện với bố anh hiểu rằng mọi chuyện đã xảy ra từ rất lâu rồi và chúng ta không thể làm gì để thay đổi được cả.”

Bea dường như không tin.

“Đó là sự thật...” tôi lại dối nàng.

Nàng cứ nhìn tôi một lát, nhưng đó là những lời nàng muốn nghe và cuối cùng nàng đầu hàng trước cám dỗ và tin vào chúng.

2

Chiều hôm đó, khi cơn mưa vẫn trút xuống những con phố hoang vắng, ngập nước, bóng dáng dữ tợn của Sebastian Salgado xuất hiện ngoài hiệu sách. Lão ta đang đứng ngoài cửa kính quan sát chúng tôi với cái vẻ sẵn sàng ăn tươi nuốt sống không lẫn vào đâu được, ánh đèn từ cảnh chúa Giáng sinh chiếu vào khuôn mặt bị tàn phá của lão. Bộ vét của lão - cũng chính là bộ vét cũ lão mặc vào lần đầu tiên đến đây - ướt sũng. Tôi bước ra mở cửa.

“Cái máng hay nhỉ,” lão nói.

“Ông có vào không?”

Tôi giữ cửa mở và Salgado tập tễnh đi vào. Sau vài bước chân lão dừng lại, tì vào gậy. Fermín ngồi ở quầy dõi mắt nhìn lão đầy nghi hoặc. Salgado mỉm cười.

“Cũng lâu rồi đấy nhỉ,” lão lên giọng.

“Tôi nghĩ ông chết rồi cơ đấy,” Fermín đáp.

“Tôi cũng nghĩ anh chết rồi, mọi người cũng nghĩ vậy. Người ta bảo chúng tôi thế. Rằng anh bị bắt khi đang chạy trốn và chúng đã bắn anh.”

“Đời nào.”

“Nói thật nhé, tôi luôn hy vọng anh trốn được. Anh biết đấy: thánh nhân đãi kẻ khù khờ mà...”

“Ông làm tôi xúc động muốn khóc đây này, Salgado. Ông ra từ bao giờ?”

“Khoảng một tháng trước.”

“Đừng bảo tôi ông được thả vì cải tạo tốt đấy,” Fermín nói.

“Tôi nghĩ chúng phát mệt vì chờ tôi chết. Anh có biết là tôi được ân xá không? Tôi được phát một tờ giấy ân xá, do chính Tướng Franco ký.”

“Hẳn ông phải đem đóng khung nó, tôi chắc vậy.”

“Tôi đặt nó vào chỗ danh dự: trong nhà vệ sinh, phòng khi tôi hết giấy.”

Salgado tiến thêm mấy bước đến quầy và chỉ chiếc ghế ở góc.

“Anh có phiền nếu tôi ngồi xuống không? Tôi vẫn chưa quen với việc đi quá mười mét theo đường thẳng và tôi rất chóng mệt.”

“Tùy ông thôi,” tôi đáp.

Lão buông người xuống ghế và hít một hơi thật sâu trong khi xoa đầu gối. Fermín nhìn lão như vừa trông thấy con chuột chui ra từ nhà xí.

“Buồn cười quá, phải không, khi nghĩ rằng người mà ai cũng cho là sẽ về chầu trời trước tiên lại là người cuối cùng... Anh có biết điều gì khiến tôi vẫn sống sau suốt những năm đấy không, Fermín?”

“Nếu không biết rõ ông thì hẳn tôi sẽ bảo là do chế độ ăn kiêng kiểu Địa Trung Hải và khí biển trong lành.”

Salgado cố cười một tiếng, nhưng nghe như là ho khan hoặc như thể cuống phổi của lão như sắp đứt.

“Anh không bao giờ thay đổi nhỉ, Fermín. Thế nên hồi đó chúng ta mới hợp cạ nhau như vậy. Ôi những ngày tháng ấy. Nhưng tôi không muốn làm chàng thanh niên này phát chán bằng ký ức về những ngày xưa cũ tuyệt vời. Thế hệ của cậu ta chẳng quan tâm đến chuyện của chúng ta. Chúng thích những điệu nhảy charleston, hay cái gì gì đấy kiểu vậy. Chúng ta bàn công việc chứ?”

“Tôi đang nghe đây.”

“Anh mới là người phải nói đấy, Fermín. Tôi đã nói tất cả những gì cần nói. Anh có định đưa tôi thứ anh còn nợ tôi không? Hay chúng ta sẽ kéo nhau vào một cuộc chiến mà anh tốt hơn hết đừng nên để cho mình bị dính vào?”

Fermín tiếp thu cái vẻ vô cảm thêm một lát, đẩy chúng tôi vào một sự yên lặng khó chịu. Salgado đang nhìn thẳng vào mặt anh ta với ánh mắt đầy ác ý. Fermín quăng cho tôi một cái nhìn tôi không tài nào hiểu nổi và thở dài chán nản.

“Ông thắng rồi, Salgado.”

Anh ta lôi trong túi ra một vật nhỏ rồi đưa cho lão. Một chiếc chìa khóa. Chìa khóa. Ánh mắt Salgado sáng lên như mắt trẻ con. Lão đứng lên và chầm chậm bước đến chỗ Fermín, nhận lấy chiếc chìa khóa bằng bàn tay còn lại, run run vì xúc động.

“Nếu ông định đưa vật này vào lại cái vùng bí mật trên cơ thể ông, tôi xin ông vì phép lịch sự hãy vào phòng trong. Đây là hiệu sách gia đình, là nơi công cộng,” Fermín cảnh cáo.

Salgado, dường như đã lấy lại tuổi thanh xuân, bật cười với vẻ thỏa mãn vô bờ.

“Nghĩ cho cùng thì, anh thực đã cho tôi một ân huệ lớn khi giữ nó giúp tôi trong chừng ấy năm,” lão tuyên bố.

“Bạn bè là thế chứ,” Fermín trả lời. “Chúa phù hộ, và ông cứ vô tư không việc gì phải quay lại đây nữa.”

Salgado mỉm cười, nháy mắt với chúng tôi. Lão bước về phía cửa, chìm đắm trong suy nghĩ. Trước khi bước ra đường lão quay lại một lát và giơ tay làm cử chỉ tạm biệt cầu hòa.

“Tôi chúc anh may mắn và sống lâu, Fermín. Và cứ yên tâm là tôi sẽ giữ bí mật cho anh.”

Chúng tôi nhìn lão đi trong mưa, một ông già mà hẳn ai cũng nghĩ đã bước đến ngưỡng cửa nhà thần chết, song tôi chắc rằng, lão không hề cảm thấy những giọt mưa lạnh ngắt đang trút xuống người lão, hay thậm chí là những năm tù đày khốn khó lão mang theo trong máu. Tôi liếc nhìn Fermín, anh ta đứng như chôn chân xuống đất, trông tái mét và bối rối khi gặp lại người bạn tù cũ.

“Chúng ta để lão đi như vậy sao?” tôi hỏi.

“Cậu có kế hoạch nào hay hơn không?”

3

Sau một phút chờ đợi truyền thống, chúng tôi hối hả xuống phố trong chiếc áo mưa sẫm màu và mang theo chiếc ô to như cái dù mà Fermín đã mua ở một hàng tạp hóa ngoài cảng - ý định là để sử dụng cho cả mùa hè và mùa đông trong những chuyến ăn chơi ngoài bãi biển La Barceloneta cùng Bernarda.

“Fermín, cầm cái ô này chúng ta dễ bị lộ lắm,” tôi cảnh báo anh ta.

“Đừng lo. Tôi chắc chắn cái duy nhất mà con lợn kia có thể thấy là những đồng vàng từ trên trời rơi xuống,” Fermín đáp.

Salgado đi trước chúng tôi vài trăm mét, rảo bước dọc theo phố Condal dưới cơn mưa. Chúng tôi thu hẹp khoảng cách một chút, vừa kịp lúc thấy lão sắp leo lên một chiếc xe điện chạy tới đường Layetana. Chúng tôi tăng tốc độ, vừa chạy vừa thu ô lại, và nhờ phép mầu mà nhảy lên được chỗ đuôi xe. Thể theo truyền thống hay ho nhất thời bấy giờ chúng tôi thực hiện cuộc hành trình bằng cách treo mình ở sau xe. Salgado đã tìm được một ghế ở đằng trước, được một người tốt bụng nhường cho, người ấy hẳn không thể nào biết được mình đang đối mặt với ai.

“Điều đó xảy ra khi người ta chạm ngưỡng tuổi già,” Fermín nói. “Không ai nhớ bọn họ cũng đã từng khốn nạn.”

Chiếc xe điện ầm ầm chạy theo phố Trafalgar cho tới khi đến Arco de Triunfo. Chúng tôi liếc vào trong và thấy Salgado vẫn dính chặt vào ghế. Người soát vé, có bộ râu rậm rạp, quắc mắt nhìn chúng tôi.

“Đừng có nghĩ là các người đứng ở đó thì tôi sẽ giảm giá. Tôi đã để mắt từ khi các người nhảy lên xe.”

“Chẳng ai còn quan tâm đến chủ nghĩa hiện thực xã hội nữa,” Fermín lẩm bẩm. “Đất nước gì thế này.”

Chúng tôi đưa cho ông ta vài xu lẻ và ông ta đưa vé cho chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu nghĩ rằng Salgado hẳn đã ngủ thì chiếc xe điện rẽ sang đường dẫn đến ga Norte và lão đứng lên, kéo dây yêu cầu dừng lại. Tài xế cho xe chạy chậm lại, nên chúng tôi nhảy xuống chỗ đối diện trụ sở nguy nga của công ty Điện nước được xây theo phong cách nghệ thuật mới và chạy bộ theo xe điện cho tới khi xe dừng. Chứng tôi thấy Salgado bước xuống, được hai hành khách đỡ, rồi lão tiến vào nhà ga.

“Anh có nghĩ điều tôi đang nghĩ không?” tôi hỏi.

Fermín gật đầu. Chúng tôi theo Salgado vào sảnh lớn nhà ga, bọn tôi ngụy trang - hay có lẽ là làm cho mình nổi bật hơn - sau chiếc ô to đùng của Fermín. Khi đã vào trong, Salgado tiến đến dãy tủ sắt xếp dọc theo một bức tường trông như phiên bản thu nhỏ của tủ đựng di cốt ở nghĩa trang. Chúng tôi ngồi vào một góc khuất trong sảnh nhà ga. Salgado đang đứng trước vô số những ngàn tủ, nhìn chằm vào chúng, mải mê tột cùng.

“Anh có nghĩ lão ta quên mất đã giấu đồ ăn cướp ở đâu không?” tôi hỏi.

“Dĩ nhiên là không. Lão đã đợi giây phút này hai chục năm nay. Chẳng qua là lão đang nhấm nháp nó thôi.”

“Nếu anh nói vậy... Nhưng nếu anh muốn biết ý kiến của tôi, thì tôi cho là lão quên rồi.”

Chúng tôi vẫn ở đó, quan sát và chờ đợi.

“Fermín này, thật sự là anh chưa bao giờ kể nơi anh giấu chìa khóa khi anh trốn khỏi lâu đài...”

Fermín ném về tôi cái nhìn thù nghịch.

“Thôi quên đi,” tôi nhún nhường.

Việc chờ đợi tiếp tục kéo dài thêm mấy phút nữa.

“Có lẽ lão còn một kẻ đồng phạm...” tôi nói, “và lão đang chờ kẻ đó.”

“Salgado không phải hạng người biết san sẻ.”

“Có lẽ ai đó...”

“Suỵt,” Fermín bảo tôi im lặng, đoạn chỉ về phía Salgado, cuối cùng lão cũng động đậy.

Lão già bước đến một ngăn tủ và đưa tay lên cửa sắt. Lão lấy chìa khóa, tra vào ổ, mở cửa và nhìn vào trong. Ngay lúc đó hai tên hiến binh, đang từ sân ga đi vào nhà ga và bước đến chỗ Salgado đứng, lúc này đang cố lôi thứ gì đó trong tủ ra.

“Ôi trời, ôi trời...” tôi lẩm bẩm.

Salgado quay lại và chào hai tên hiến binh. Bọn họ trao đổi vài lời rồi một người lôi chiếc hộp ra khỏi tủ đoạn để xuống sàn cạnh chân Salgado. Lão trộm cảm ơn họ nồng nàn vì sự giúp đỡ và hai tên hiến binh đưa tay lên sát mũ ba sừng ra dấu chào và tiếp tục công việc.

“Chúa phù hộ Tây Ban Nha,” Fermín lẩm bẩm.

Salgado nắm lấy tay nắm chiếc va li và kéo nó đến một chiếc ghế dài khác ở đầu phòng bên kia.

“Lão không định mở nó ra ở đây chứ?” tôi hỏi.

“Lão phải chắc chắn tất cả đều ở trong đó,” Fermín đáp. “Cái tay bẩn thỉu đó đã phải đánh đổi nhiều năm đau đớn để lấy lại kho báu của mình.”

Salgado nhìn quanh mình mấy lượt để đảm bảo không có ai ở gần, và cuối cùng lão cũng quyết định hành động. Chúng tôi thấy lão mở hé chiếc va li vài phân rồi liếc vào trong.

Lão giữ nguyên tư thế đó chừng một phút, hoàn toàn bất động. Fermín và tôi nhìn nhau không hiểu. Bất giác Salgado đóng va li lại và đứng lên, đoạn bước về lối ra, bỏ chiếc va li lại sau lưng, ngay trước một ngăn tủ đang mở.

“Lão đang làm gì thế kia?” tôi hỏi.

Fermín đứng lên và ra hiệu cho tôi.

“Cậu lấy chiếc va li, còn tôi sẽ theo lão...”

Không cho tôi thì giờ trả lời, Fermín tức tốc chạy về phía lối ra. Tôi vội đến nơi Salgado đã bỏ chiếc va li. Một gã bảnh bao đang đọc báo ở băng ghế gần đó cũng để mắt đến nó, ngó nghiêng sang hai bên để chắc rằng không có ai quan sát gã đứng lên và chuẩn bị nhào vào nó như một con chim săn mồi. Tôi rảo nhanh bước chân. Kẻ lạ sắp có được chiếc va li thì, nhờ một phép mầu, trong tích tắc tôi đã giật nó khỏi tay hắn.

“Cái va li này không phải của anh,” tôi nói.

Gã nhìn chằm tôi với cái nhìn chống đối và nắm chặt quai va li.

“Tôi có nên gọi hiến binh không nhỉ?” tôi hỏi.

Với vẻ bối rối, tên vô lại kia buông nó ra và lẻn đi ngay lập tức về hướng sân ga. Tôi bê nó đến chỗ ghế của mình và, sau khi chắc chắn không có ai dòm ngó, tôi mở ra.

Nó trống rỗng. Kho báu của Salgado đã biến mất.

Đến lúc ấy tôi mới nghe thấy tiếng la ó và khi quay đầu lại thì nhận thấy có biến cố đã xảy ra ngoài nhà ga. Tôi đứng lên và nhìn qua cửa kính. Hai tên hiến binh đang rẽ lối giữa một đám khách qua đường đang túm tụm lại dưới mưa. Khi đám đông tản ra, tôi thấy Fermín đang quỳ dưới đất, hai tay ôm lấy người Salgado. Ánh mắt lão nhìn vào không trung.

Một phụ nữ đi vào ga, một tay che miệng.

“Chuyện gì thế?” tôi hỏi.

“Một ông già tội nghiệp, ông ta bị ngã...” bà nói.

Tôi đi ra ngoài và bước qua đám đông đang đứng xem cảnh tượng kia. Tôi có thể thấy Fermín đang ngước lên trao đổi mấy lời với hai tên hiến binh. Một gã gật đầu. Rồi Fermín cởi áo mưa phủ lên xác Salgado, trùm qua cả mặt lão. Lúc tôi đến nơi, một bàn tay chỉ còn ba ngón đang thò ra khỏi lớp áo. Trong lòng bàn tay, ánh lên dưới cơn mưa, là chiếc chìa khóa. Tôi dùng ô che cho Fermín, và đặt tay lên vai anh ta. Chúng tôi từ từ bước đi.

“Anh có ổn không, Fermín?”

Anh bạn tốt của tôi nhún vai.

“Về nhà thôi,” anh thốt ra.

4

Khi chúng tôi bỏ lại nhà ga sau lưng để bước đi, tôi cởi áo mưa khoác lên vai Fermín. Anh ta đã để áo của mình lại trên xác Salgado. Tôi không nghĩ trong tình trạng này, bạn mình có thể đi bộ nhiều, bèn vẫy một chiếc taxi. Tôi mở cửa cho anh ta, và khi anh ta đã ngồi vào ghế, tôi đóng cửa lại và vào xe từ cửa bên kia.

“Chiếc va li rỗng,” tôi nói. “Ai đó đã chơi trò bẩn với Salgado.”

“Cần một tên trộm để bắt một tên trộm...”

“Anh nghĩ là ai?”

“Có lẽ chính là kẻ đã bảo lão tôi có chìa khóa và rằng lão có thể tìm thấy tôi ở đâu,” Fermín lẩm bẩm.

“Valls?”

Fermín cất tiếng thở dài não nề.

“Tôi không biết, Daniel ạ. Tôi không còn biết phải nghĩ sao nữa.”

Tôi nhận thấy tài xế đang nhìn chúng tôi qua gương chiếu hậu, chờ đợi.

“Chúng tôi đến đầu quảng trường Real, trên phố Fernando,” tôi nói.

“Chúng ta không về hiệu sách sao?” Fermín hỏi, anh ta vốn chẳng còn đủ sức trong người để cãi xem taxi nên đi đâu.

“Tôi sẽ về hiệu sách. Còn anh sẽ đến nhà ông Gustavo, từ giờ đến hết hôm nay anh sẽ ở bên Bernarda.”

Chúng tôi tiếp tục hành trình trong lặng im, nhìn chằm ra thành phố Barcelona, một quang cảnh mờ mịt dưới mưa. Khi chúng tôi đến những mái vòm ở phố Fernando, nơi nhiều năm trước tôi đã gặp Fermín, tôi trả tiền và chúng tôi bước ra. Tôi tiễn Fermín đến cửa nhà ông Gustavo rồi ôm anh ta.

“Anh giữ gìn sức khỏe nhé, Fermín. Hãy ăn chút gì đó, không thì đêm tân hôn Bernarda sẽ bị xương đâm vào người mất.”

“Cậu đừng lo. Khi đã đặt quyết tâm, tôi có thể tăng cân hơn cả một nghệ sĩ opera. Ngay khi lên nhà tôi sẽ ngấu nghiến những chiếc bánh hạnh nhân mà ông Gustavo mua ở Casa Quílez và đến sáng mai tôi sẽ trông như một con gà tây nhồi thịt.”

“Tôi cũng hy vọng thế. Cho tôi gửi lời hỏi thăm cô dâu nhé.”

“Được rồi, dù với cái rắc rối về mặt pháp lý tôi đang phải đối mặt cùng từng ấy các thủ tục nhiêu khê, thì tôi có thể thấy mình như đang sống trong tội lỗi.”

“Không hề đâu. Nhớ điều anh từng bảo tôi không? Rằng định mệnh không ghé thăm ta tận nhà, rằng ta phải tự tìm đến nó?”

“Tôi phải thú nhận rằng câu đó trong sách của Carax. Tôi thấy nó rất hay.”

“Ồ, tôi đã tin như vậy và vẫn tin. Thế nên tôi mới bảo anh rằng định mệnh của anh là cưới Bernarda vào đúng ngày đã định với mọi giấy tờ hợp pháp - với cha xứ, gạo và tên họ của anh.”

Anh bạn của tôi nhìn tôi ngờ vực.

“Hai năm rõ mười như tên tôi là Daniel, anh chắc chắn sẽ kết hôn với nghi lễ đàng hoàng,” tôi hứa với Fermín. Trông anh ta tuyệt vọng đến nỗi tôi nghĩ chẳng có gì vực lại tinh thần anh ta được: kể cả là một gói kẹo Sugus, hoặc một bộ phim hay ở rạp Femina có cảnh Kim Novak mặc bộ áo ngực lộng lẫy thách thức cả trọng lực.

“Nếu cậu nói vậy, Daniel...”

“Anh đã mang lại sự thật cho tôi,” tôi nói. “Tôi sẽ mang lại tên cho anh.”

5

Chiều hôm ấy, khi quay lại hiệu sách, tôi khởi động kế hoạch giải cứu danh tính của Fermín. Bước đầu tiên là gọi vài cú điện thoại ở phòng sau và lên danh sách những việc cần làm. Bước thứ hai đòi hỏi phải có một đội ngũ những chuyên gia danh tiếng.

Hôm sau hóa ra là một ngày dễ chịu và đầy nắng. Chừng giữa trưa tôi đi bộ đến thư viện ở phố Carmen, tôi hẹn gặp Giáo sư Alburquerque ở đó, tin rằng có điều gì ông không biết thì cũng chẳng có ai biết cả.

Tôi tìm thấy ông ở dưới những mái vòm cao của phòng đọc chính, bao quanh là những chồng sách và giấy tờ. Ông đang tập trung, bút cầm trong tay. Tôi ngồi đối diện ông, ở phía bên kia bàn, và để ông tiếp tục công việc. Ông mất gần một phút mới nhận ra sự có mặt của tôi. Khi ngước lên, ông nhìn tôi đầy ngạc nhiên.

“Đó hẳn là một chủ đề rất hay,” tôi thăm dò.

“Tôi đang viết loạt bài về những nhà văn Barcelona bị nguyền rủa,” ông giải thích. “Cậu có nhớ người tên Julián Carax không, một tác giả mà mấy tháng trước tại hiệu sách cậu đã gợi ý tôi nên đọc ấy?”

“Dĩ nhiên rồi,” tôi đáp.

“Ồ, tôi đã tìm hiểu về ông ấy và câu chuyện của ông ấy thực sự phi thường. Cậu có biết đã nhiều năm rồi có một nhân vật hiểm ác đi khắp thế giới tìm tác phẩm của Carax để đốt không?”

“Ôi trời ạ,” tôi nói, giả vờ ngạc nhiên.

“Một vụ rất kỳ quặc. Tôi sẽ cho cậu đọc khi tôi viết xong.” “Ông nên viết một cuốn sách về chủ đề này,” tôi đề xuất. “Lịch sử bí ẩn của Barcelona được nhìn qua những nhà văn bị nguyền rủa, những điều bị cấm đoán trong chính sử.”

Giáo sư cân nhắc ý tưởng đó, vẻ thích thú.

“Tôi cũng đã nảy ra ý đó, phải nói là như vậy, nhưng viết báo và công việc ở trường quá bận rộn...”

“Nếu ông không viết, sẽ không có ai viết đâu...”

“Vâng, ồ, có lẽ tôi sẽ liều mình bắt tay vào công việc này.

Tôi không biết tìm đâu ra thời gian, nhưng...”

“Sempere & Con trai sẽ cung cấp cho ông danh mục sách và bất cứ sự hỗ trợ nào ông có thể cần đến.”

“Tôi sẽ ghi nhớ điều này. Giờ sao nhỉ? Chúng ta đi ăn trưa chứ?”

Giáo sư Alburquerque dừng làm việc và chúng tôi đến Casa Leopoldo nhâm nhi ly rượu và chút bánh tiêu nhân thịt trong khi đợi hai đĩa đuôi bò hầm, món đặc biệt trong ngày.

“Anh bạn Fermín tốt bụng của chúng ta sao rồi? Vài tuần trước, khi tôi thấy anh ta ở Can Lluís, trông anh ta buồn lắm.”

“Lạ thay tôi đang định nói chuyện với ông về anh ta đây.

Vấn đề khá tế nhị và tôi buộc phải đề nghị ông giữ bí mật.”

“Dĩ nhiên rồi. Tôi có thể làm gì nào?”

Tôi bèn kể tình hình ra, một cách chính xác nhất có thể, cố không chạm đến những chi tiết gai góc và không cần thiết. Vị giáo sư cũng cảm thấy rằng còn nhiều điều nữa ngoài những gì tôi kể cho ông, nhưng ông vẫn giữ vẻ thận trọng theo thói quen.

“Thử xem tôi hiểu đúng không nhé,” ông nói. “Fermín không thể sử dụng danh tính của mình, một cách chính thức, bởi anh ta bị tuyên bố là đã chết cách đây gần hai chục năm, trong mắt chính phủ, anh ta không tồn tại.”

“Chính xác.”

“Nhưng, từ điều cậu kể, tôi hiểu rằng danh tính đã bị hủy này cũng do chính Fermín ngụy tạo trong chiến tranh, để bảo vệ mình.”

“Chính xác.”

“Đó chính là điểm mà tôi bị rối. Giúp tôi nào, Daniel. Nếu Fermín đã nghĩ ra một danh tính giả một lần, tại sao anh ta không thể bịa ra một danh tính khác lúc này để làm đám cưới?”

“Bởi hai lý do, thưa giáo sư. Điều đầu tiên hoàn toàn thực tế, đó là, dù sử dụng tên thật hay tên bịa ra, hiện tại Fermín không có giấy tờ pháp lý nào cả. Do vậy, dù quyết định sử dụng danh tính nào thì nó cũng phải được tạo ra từ con số không.”

“Nhưng anh ta muốn tiếp tục làm Fermín, tôi cho là vậy.”

“Chính xác. Và đây là lý do thứ hai, hoàn toàn về mặt tinh thần, nếu có thể nói như vậy, và là lý do quan trọng hơn nhiều. Fermín muốn tiếp tục làm Fermín bởi đó là người mà Bernarda đem lòng yêu thương, là người bạn của chúng ta, là người tất cả chúng ta đều biết và là con người mà anh ta muốn trở lại. Con người trước đây của anh ta đã không tồn tại từ rất nhiều năm rồi. Cái lớp vỏ đó anh ta đã rũ bỏ. Đến cả tôi, có lẽ là bạn thân nhất, cũng không biết tên rửa tội của anh ta là gì. Với tôi, và với tất cả những người yêu mến anh ta, đặc biệt là với bản thân anh ta, thì anh ta là Fermín Romero de Torres. Và khi ta nghĩ kỹ về chuyện này, nếu việc cần làm là tạo cho anh ta một danh tính mới, thì tại sao không lấy luôn cái danh tính hiện nay?”

Giáo sư Alburquerque cuối cùng cũng gật đầu tán thành.

“Đúng,” ông tuyên bố.

“Vậy ông nghĩ chuyện này có khả thi không, thưa giáo sư?”

“Ờ, đó là nhiệm vụ viển vông kiểu Don Quixote, nếu thực sự có nhiệm vụ nào như vậy,” vị giáo sư cân nhắc. “Làm thế nào cũng cho hiệp sĩ hốc hác Don Fermín xứ Mancha một dòng dõi, chó săn và một lô lốc giấy tờ giả để sánh đôi với người đẹp Bernarda xứ Toboso dưới ánh mắt của Chúa và văn phòng đăng ký kết hôn đây?”

“Tôi đang nghĩ về chuyện này và đi tham khảo mấy cuốn sách pháp lý,” tôi nói. “Ở đất nước này, danh tính của một người bắt đầu từ giấy chứng sinh, mà ngẫm ra, thì đó là một loại giấy cực kỳ đơn giản.”

Giáo sư nhướng mày.

“Điều cậu đang gợi ý nhạy cảm lắm đấy. Nếu không muốn nói là một tội nghiêm trọng.”

“Đúng là chưa có tiền lệ, ít nhất là trong thư tịch tư pháp. Tôi đã kiểm chứng.”

“Thật ư? Xin hãy tiếp tục, chuyện này đang mỗi lúc một hay hơn.”

“Cứ giả sử như có ai đó, nói giả sử thôi, vào được Phòng Đăng ký Hộ tịch, và có thể, nói toạc ra, cấy một tờ giấy chứng sinh vào hồ sơ lưu trữ... Liệu điều đó có mang lại đủ căn cứ để tạo ra danh tính của một người không?”

Giáo sư lắc đầu.

“Với trẻ mới sinh thì có lẽ được. Nhưng giả như chúng ta đang nói, giả sử thôi, về một người lớn, chúng ta sẽ phải tạo ra một đống các giấy tờ. Và dù cho có tiếp cận được, giả dụ thôi, các kho lưu trữ, thì cậu lấy đâu ra những giấy tờ này?”

“Cứ cho rằng tôi có thể tạo ra một loạt những bản sao đáng tin cậy. Vậy ông nghĩ chuyện này có thể thành công không?”

Vị giáo sư suy tính cẩn thận vấn đề này.

“Rủi ro chính ấy là nhỡ có người phát hiện ra vụ gian lận này và muốn mang nó ra ánh sáng. Hãy nhớ trong đầu là trong trường hợp này kẻ phá bĩnh, tạm gọi là vậy, người sẽ làm lộ việc của ta thông qua những bất thường trong chứng từ đã chết, những việc phải làm chỉ bao gồm a), truy cập kho lưu trữ và chèn một tệp hồ sơ vào hệ thống với một danh tính ảo nhưng hợp lý và b), tạo một chuỗi chứng từ cần thiết, đủ để làm nên một danh tính. Tôi đang nói đến những giấy tờ với đủ mọi hình dạng và kích thước, và đủ loại chứng nhận gồm chứng nhận rửa tội của nhà thờ giáo khu, giấy căn cước...”

“Về điểm a), tôi biết rằng ông đang viết một loạt những bài báo về những điều kỳ diệu trong hệ thống pháp luật Tây Ban Nha, được hội đồng đặt hàng. Tôi đã tìm hiểu một chút và phát hiện ra rằng trong chiến tranh, một số kho lưu trữ trong Phòng Đăng ký Hộ tịch đã bị ném bom. Thế có nghĩa là hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, những danh tính đã được đồng loạt làm lại. Tôi không phải chuyên gia, nhưng tôi đồ rằng điều này sẽ tạo một vài kẽ hở mà những người thạo tin, có mối quan hệ tốt và có một kế hoạch sẽ có thể lợi dụng...”

Vị giáo sư nhìn tôi qua khóe mắt.

“Tôi thấy là cậu đã tìm hiểu nghiêm túc đấy, Daniel.”

“Xin thứ lỗi, thưa giáo sư, nhưng hạnh phúc của Fermín xứng đáng với điều đó và hơn thế nữa.”

“Cũng khá khen cho cậu. Nhưng ai làm như vậy có thể sẽ phải nhận lấy một hình phạt nặng nề nếu bị bắt quả tang.”

“Vậy nên tôi nghĩ nếu có ai, giả sử thôi, tiếp cận được với đống tư liệu được làm lại đó trong Phòng Đăng ký Hộ tịch, thì người đó có thể dẫn một người phụ việc đi cùng, và người này sẽ làm cái công việc rủi ro kia.”

“Nếu đúng như vậy, thì người phụ việc giả định kia hẳn có thể đảm bảo cho người tạo điều kiện được chiết khấu trọn đời hai mươi phần trăm tại hiệu sách Sempere & Con trai. Cộng thêm lời mời đến dự lễ cưới của đứa bé mới sinh.”

“Coi như đã thỏa thuận xong. Và tôi thậm chí sẽ tăng lên thành hai lăm phần trăm. Mặc dù, ngẫm cho kỹ thì tôi biết có người, giả định thôi, sẽ sẵn sàng hợp tác vì lợi ích chung, lấy làm vui khi có cơ hội phá hoại một chế độ thối nát, ruỗng mục mà chẳng cần nhận được gì.”

“Tôi là học giả, Daniel. Đem cảm xúc ra chẳng dọa dẫm được tôi đâu.”

“Vậy thì vì Fermín.”

“Đó lại là chuyện khác. Chúng ta hãy bàn đến vấn đề kỹ thuật.”

Tôi lấy ra tờ một ngàn peseta Salgado đã đưa cho tôi và cho ông xem.

“Đây là số tiền dùng để chi trả cho các phí tổn,” tôi giải thích.

“Cậu đúng là chi tiền chẳng chùn tay. Nhưng tốt hơn cậu nên giữ số tiền này cho những công đoạn khác trong cái việc cao cả này. Tôi làm miễn phí,” giáo sư đáp. “Phần làm tôi lo lắng nhất, trợ lý thân mến, là tạo được một bộ chứng từ cần thiết. Hãy bỏ qua các công trình công cộng với cả sách kinh: các quan chức quân sự mới của chế độ cũng đã tăng gấp đôi cấu trúc vốn đã đồ sộ của bộ máy nhà nước quan liêu, xứng đáng là những cơn ác mộng tồi tệ nhất của ông bạn Franz Kafka của chúng ta. Như tôi nói, một vụ việc như thế này sẽ đòi hỏi ta phải tạo ra đủ loại thư tín, đơn từ, kiến nghị và những tài liệu khác, trông chúng phải rất đáng tin cậy và có được cái chất liệu tông màu và mùi đặc trưng cho một hồ sơ bụi bặm, quăn góc và không gây ngờ vực...”

“Chúng ta được yểm trợ trên mặt trận này,” tôi nói.

“Tôi sẽ phải có một danh mục những kẻ đồng lõa trong mưu đồ này, để đảm bảo rằng cậu không bịp bợm.”

Tôi giải thích phần còn lại của kế hoạch.

“Có thể thành công đấy,” ông kết luận.

Khi món chính được mang ra, chúng tôi gác lại vấn đề và cuộc trao đổi đi theo một hướng khác. Dù đã kìm nén trong suốt bữa ăn, nhưng đến lúc cà phê được mang tới, thì tôi không thể giữ miệng lâu hơn được nữa. Làm ra vẻ thờ ơ, tôi ngây thơ hỏi:

“Giáo sư này, hôm trước tại hiệu sách, một khách hàng tán gẫu với tôi về việc gì đó, rồi cái tên Mauricio Valls được buột ra - người từng là bộ trưởng Bộ Văn hóa hay cái gì đại loại đấy. Ông biết gì về ông ta không?”

Vị giáo sư nhướng mày.

“Về Valls ư? Điều mà ai cũng biết, tôi cho là vậy.”

“Tôi chắc ông biết nhiều hơn mọi người chứ, thưa giáo sư. Rất nhiều là đằng khác.”

“Ồ, thực ra đã khá lâu tôi không nghe đến cái tên này rồi, nhưng cho đến rất gần đây thì Mauricio Valls vẫn là một nhân vật có số má. Như cậu nói đấy, ông ta là một vị bộ trưởng Bộ Văn hóa nổi tiếng, tại vị trong vài năm, đứng đầu một số cơ quan tổ chức, một con người có địa vị cao trong chế độ và được trọng vọng trong giới cầm quyền, là người bảo trợ cho nhiều nhân vật, cậu bé vàng của những trang văn hóa trên báo chí Tây Ban Nha... Như tôi nói đấy, có số má.”

Tôi mỉm cười yếu ớt, vờ như ngạc nhiên một cách thích thú.

“Ông ta không còn số má nữa sao?”

“Nói thẳng ra, tôi cho là ông ta đã biến mất khỏi bản đồ cách đây một thời gian, hay ít nhất là khỏi chốn công cộng. Tôi không biết ông ta có được bổ làm đại sứ hay được giữ chức vị trong một tổ chức quốc tế nào không, cậu biết mấy thứ này là thế nào mà. Kỳ thực là gần đây tôi mất dấu vết ông ta... Tôi biết cách đây mấy năm ông ta đã cùng với mấy người thành lập một nhà xuất bản. Công ty này làm ăn rất tốt - nó không ngừng cho ra những cuốn sách mới. Thực tế, mỗi tháng một lần tôi lại nhận được thư mời đến dự buổi ra mắt một trong những đầu sách của họ...”

“Vậy Valls có đến những sự kiện này không?”

“Ông ta thường đến, hồi nhiều năm trước. Chúng tôi luôn đem ra làm trò đùa chuyện ông ta nói về bản thân nhiều hơn nói về cuốn sách hay tác giả mà ông ta giới thiệu. Nhưng cũng lâu rồi. Nhiều năm rồi tôi không gặp ông ta. Liệu tôi có thể hỏi tại sao cậu lại quan tâm thế không, Daniel? Tôi không nghĩ cậu thuộc dạng người hứng thú với cái hội chợ phù hoa nhỏ bé của văn chương nước nhà.”

“Tôi chỉ tò mò thôi.”

“Tôi hiểu.”

Trong khi Giáo sư Alburquerque trả tiền, ông nhìn tôi ngờ vực.

“Tại sao tôi luôn nghĩ rằng cậu không thèm kể cho tôi dù chỉ một góc câu chuyện thế nhỉ?”

“Một ngày nào đó tôi sẽ kể cho ông phần còn lại, thưa giáo sư. Tôi hứa.”

“Cậu nên vậy, bởi các thành phố không có ký ức và chúng cần người như tôi, một nhà hiền triết điềm tĩnh, để giữ những ký ức đó lại.”

“Đây là thỏa thuận: ông giúp tôi giải quyết vấn đề của Fermín và đổi lại, một ngày nào đó tôi sẽ kể cho ông nghe những chuyện mà Barcelona nên quên đi thì hơn. Vì cái lịch sử huyền bí của ông.”

Vị giáo sư chìa tay ra, và tôi bắt tay ông.

“Tôi tin lời cậu. Bây giờ, quay lại chủ đề Fermín và các giấy tờ mà chúng ta cần có để lôi ra từ trong một cái mũ...”

“Tôi nghĩ mình đã tìm được người hợp với công việc này.”

6

Oswaldo Darío de Mortenssen, ông hoàng viết chữ thuê xứ Barcelona và là một người quen cũ của tôi, đang tận hưởng phút nghỉ ngơi sau bữa trưa trong quầy của chú ta cạnh La Virreina Palace, nhấm nháp một ly espresso đúp với một chút cô nhắc và hút xì gà. Khi thấy tôi tiến lại chú ta giơ tay chào.

“Đứa con hoang đàng quay về rồi. Cậu đã thay đổi ý định sao? Chúng ta sẽ bắt tay vào viết cái bức thư tình sẽ giúp cậu tiếp cận được vùng cấm đoán nơi khuy quần và cúc áo của người thiếu nữ cậu mê đắm chứ?”

Tôi cho chú ta xem nhẫn cưới của tôi và chú ta gật đầu, đã nhớ ra mọi chuyện.

“Tôi xin lỗi. Đó là do thói quen. Cậu là một trong những tay bảo thủ. Tôi có thể làm gì cho cậu đây?”

“Hôm trước tôi nhớ ra tại sao tên chú nghe quen thuộc với tôi đến thế, chú Oswaldo. Tôi làm việc ở một hiệu sách và tôi đã tìm được một cuốn tiểu thuyết của chú vào năm 1933, Kỵ sĩ buổi tà đương.”

Câu nói đó thắp sáng lên một vùng ký ức. Oswaldo mỉm cười hoài niệm.

“Những ngày tháng tươi đẹp... Barrido và Escobillas, các nhà xuất bản của tôi, đã bòn rút của tôi đến đồng xu cuối cùng, lũ lợn. Mong chúng bị thiêu trụi vĩnh viễn ở địa ngục. Song, cái niềm vui viết ra nó - không ai có thể cướp đi của tôi niềm vui ấy được.”

“Hôm nào tôi mang sách đến, chú sẽ ký vào sách cho tôi chứ?

“Dĩ nhiên. Đó là tác phẩm cuối cùng của tôi. Thế giới chưa sẵn sàng cho một phương Tây được đặt ở đồng bằng Ebro, với những kẻ cướp dùng xuồng thay vì cưỡi ngựa, và những con muỗi to như quả dưa hấu.”

“Chú đúng là Zane Grey của bờ biển Tây Ban Nha.”

“Tôi ước thế. Tôi có thể làm gì cho cậu đây, chàng trai?”

“Cho tôi mượn tài năng và sự khéo léo của chú vào một cuộc phiêu lưu xứng đáng với những gì chú có.”

“Tôi vểnh hết tai lên đây.”

“Tôi cần chú giúp tôi tạo ra một quá khứ bằng tư liệu cho một người bạn, để anh ta có thể kết hôn với người phụ nữ anh ta yêu mà không gặp phải trở ngại pháp lý nào.”

“Một người tốt chứ?”

“Người tốt nhất mà tôi biết.”

“Nếu là như vậy, coi như ta đã thỏa thuận xong. Cảnh tượng tôi yêu thích luôn là đám cưới và lễ rửa tội.”

“Chúng ta sẽ cần các giấy tờ hành chính như đơn từ, báo cáo, kiến nghị, giấy chứng nhận - tất tần tật luôn.”

“Không thành vấn đề. Chúng ta sẽ giao một phần công việc cho Luisito, người mà cậu đã làm quen. Anh ta hoàn toàn đáng tin cậy và là một bậc thầy về mười hai kiểu chữ viết.”

Tôi lấy ra tờ một ngàn peseta mà vị giáo sư đã từ chối và đưa cho chú ta. Oswaldo gạt phăng đi, mắt chú trợn trừng như cái đĩa.

“Thế mà người ta bảo ở Tây Ban Nha cậu không sống bằng nghề viết được,” chú nói.

“Số tiền này có đủ trang trải mọi chi phí không?”

“Thừa sức. Khi đã thu xếp được mọi thứ tôi sẽ cho cậu biết toàn vụ này tốn bao nhiêu, nhưng cứ như tôi nhẩm tính thì tôi đồ rằng chỉ cần ba hoặc bốn trăm đồng là đủ.”

“Tôi phó thác việc này cho sự khôn ngoan của chú đấy, Oswaldo. Bạn tôi, Giáo sư Alburquerque...”

“Một cây viết tuyệt vời...” Oswaldo xen vào.

“Và còn là một quý ông tuyệt vời nữa. Như tôi nói, bạn tôi, ngài giáo sư, sẽ qua đây và cho chú một danh sách những loại giấy tờ cần đến, và mọi chi tiết. Nếu cần gì, chú có thể tìm tôi ở hiệu sách Sempere & Con trai.”

Khuôn mặt chú ta sáng lên khi nghe đến cái tên này.

“A, chốn tôn nghiêm. Hồi còn trai trẻ tôi thường đến đó mỗi ngày thứ Bảy và những cuộc gặp gỡ với ngài Sempere đã giúp tôi mở rộng tầm mắt.”

“Hẳn người đó là ông tôi.”

“Tôi không đến đó nhiều năm rồi. Tài chính của tôi eo hẹp nên tôi đành mượn sách thư viện.”

“Ồ, hãy cho chúng tôi vinh dự được đón chú quay lại hiệu sách, thưa chú Oswaldo. Cứ xem đó như nhà chú và chúng ta sẽ tìm ra cách để xử lý vấn đề tiền bạc.”

“Tôi sẽ đến.”

Chú ta chìa tay ra, và tôi bắt tay chú.

“Thật vui khi được làm việc với nhà Sempere.”

“Hy vọng chúng ta sẽ có nhiều dịp như thế này.”

“Chuyện gì đã xảy ra với lão què có cặp mắt sáng lên khi nhìn thấy vàng vậy?”

“Hóa ra không phải thứ nào lấp lánh cũng là vàng,” tôi nói.

“Một dấu hiệu của thời đại của chúng ta...”

7 Barcelona, 1958

Tháng Giêng đến, kéo theo những bầu trời băng giá tươi sáng, phủ một lớp tuyết mịn lên những mái nhà của thành phố. Mặt trời tỏa sáng mỗi ngày, tạo nên những mảng sáng tối sắc nét trên những mặt tiền của một Barcelona trong suốt như pha lê. Những chiếc xe buýt hai tầng chạy trên đường với cái tầng hai vắng tanh còn xe điện thì để lại một quầng hơi trên đường ray.

Đèn Giáng sinh rực sáng trên khắp khu phố cổ và những khúc nhạc Giáng sinh mang theo lời ước may mắn yên bình vang lên từ hàng ngàn lẻ một cái loa ở những cửa hiệu. Thông điệp mùa Giáng sinh ngập tràn đến độ một cảnh sát đứng gác tại cảnh Chúa giáng sinh đặt gần tòa thị chính ở Plaza San Jaime đã vờ như không trông thấy khi một người nảy ra cái ý tưởng sáng láng là đội chiếc mũ bê rê Catalan lên đầu Chúa hài đồng - lờ đi những yêu cầu của một nhóm bà lão ngoan đạo mong anh ta cho người kia một cái tát và lôi đến trụ sở cảnh sát. Cuối cùng, ai đó ở văn phòng tổng giám mục đã báo cáo biến cố này và ba bà xơ xuất hiện để vãn hồi trật tự.

Doanh số mùa Giáng sinh nhích lên và những chữ số màu đen* trong tài khoản nhà Sempere & Con trai đảm bảo rằng chúng tôi ít nhất cũng có thể đương đầu với các hóa đơn điện và lò sưởi. Với chút may mắn, chúng tôi thậm chí có thể có được một bữa ăn nóng đúng nghĩa mỗi ngày một lần. Cha tôi dường như đã lấy lại được tinh thần và ban chỉ dụ rằng năm tới chúng tôi sẽ trang trí cửa hàng ngay chứ chẳng chờ đợi.

Trong kế toán, chữ số màu đen nghĩa là có lời. Ngược lại, màu đỏ là lỗ.

“Chúng ta sẽ phải treo cái máng đó trong một thời gian dài,” Fermín càu nhàu, sự phấn khích tựa hồ như đã biến mất.

Sau mồng sáu tháng Giêng, ngày Lễ Ba Vua, cha chỉ thị cho chúng tôi thu dọn một cách cẩn thận cảnh Chúa giáng sinh và đem cất dưới tầng hầm chờ đến mùa Giáng sinh tiếp theo.

“Cẩn thận đấy,” cha tôi cảnh báo. “Tôi không muốn nghe nói rằng cậu vô tình làm rơi những chiếc hộp đâu, Fermín.”

“Tôi sẽ cẩn thận tột cùng, thưa ngài Sempere. Tôi mang tính mạng ra để bảo đảm cho sự nguyên vẹn của cái máng này, cùng với cả những con vật đứng quanh Chúa cứu thế quấn tã.”

Khi chúng tôi đã dọn dẹp xong để lấy chỗ cho những chiếc hộp chứa đồ trang trí Giáng sinh, tôi dừng lại một lát để ngó quanh tầng hầm cùng những góc bị lãng quên của nó. Lần trước chúng tôi ở đây, cuộc trò chuyện đã đụng đến những vấn đề mà tới nay cả Fermín và tôi đều không khơi lại, nhưng ít nhất chúng vẫn đè nặng trong tâm trí tôi. Fermín dường như đọc được ý nghĩ của tôi và anh ta bèn lắc đầu.

“Đừng bảo tôi là cậu vẫn còn nghĩ đến bức thư của gã ngốc kia nhé.”

“Thỉnh thoảng.”

“Cậu chưa nói gì với cô Beatriz, tôi hy vọng thế.”

“Không. Tôi đã bỏ thư vào trong áo khoác của cô ấy và không nói một lời nào.”

“Còn cô ấy? Cô ấy có nhắc đến việc nhận được thư của gã Don Joan Tenorio không?”

Tôi lắc đầu. Fermín chun mũi, như thể muốn nói rằng đó không phải tín hiệu tốt.

“Cậu đã quyết định xem phải làm gì chưa?”

“Về chuyện gì?”

“Đừng giả ngây thơ, Daniel. Cậu có định đi theo vợ cậu tới cuộc hẹn hò với gã bạn trai cũ ở Ritz và gây ra một cuộc huyên náo nho nhỏ hay không?”

“Anh đang giả định là cô ấy sẽ đến đó,” tôi phản bác.

“Vậy cậu thì không sao?”

Tôi cúi đầu, tự trách mình.

“Chồng mà không tin vợ thì là loại chồng gì đây?” tôi hỏi.

“Cậu có muốn tôi cho cậu một danh sách những cái tên, hay chỉ cần những con số thống kê thôi?”

“Tôi tin Bea. Cô ấy sẽ không lừa dối tôi. Cô ấy không phải người như thế. Nếu có điều gì muốn nói, cô ấy sẽ nói trực tiếp với tôi, không gian dối.”

“Vậy là cậu chẳng có gì phải lo lắng cả, đúng không?”

Trong giọng điệu của Fermín có gì đó khiến tôi nghĩ những nghi ngờ và cảm giác bất an của tôi đã làm anh ta thất vọng. Dù anh ta không bao giờ thừa nhận, tôi chắc anh ta thấy buồn khi nghĩ rằng tôi đã dành hết thì giờ cho những ý nghĩ vô bổ và hoài nghi sự chân thành của một người phụ nữ mà tôi không xứng đáng.

“Chắc anh nghĩ tôi là thằng ngu.”

Fermín lắc đầu.

“Không. Tôi nghĩ cậu là một người đàn ông may mắn, ít nhất trong chuyện tình yêu. Và cũng giống như hầu hết những kẻ may mắn, cậu không nhận ra là mình gặp may.”

Tiếng gõ cửa ở đầu cầu thang đã kết thúc câu chuyện của chúng tôi.

“Trừ phi hai người phát hiện dưới đó có mỏ dầu, không thì làm ơn quay lại ngay, còn có việc phải làm,” cha tôi gọi.

Fermín thở dài.

“Kể từ khi thoát ra khỏi hội đỏ ông ấy đã trở thành một tay bạo chúa,” anh ta nói.

Ngày tháng trễ nải trôi đi. Fermín cuối cùng đã đồng ý giao phó công việc chuẩn bị lễ cưới cho cha tôi và ông Gustavo, những người đứng ra đảm nhiệm vai trò thay cho các bậc phụ mẫu. Với tư cách phù rể, tôi là người tư vấn cho ban chủ trì, nhưng chức phận của tôi chỉ đơn thuần mang tính danh dự bởi Bea đã đứng ra làm người điều hành kiêm chỉ đạo nghệ thuật và điều phối hết thảy mọi hoạt động bằng một nắm đấm sắt.

“Fermín, tôi được lệnh của Bea là mang anh đến Casa Pantaleoni để anh thử đồ.”

“Bộ áo tù là cái mà tôi sẽ mặc...”

Tôi đã hứa với anh ta rằng đến khi lễ cưới diễn ra vấn đề danh tính của anh ta sẽ được thu xếp ổn thỏa và vị cha xứ bạn của anh ta sẽ có thể xướng lên: “Fermín, con có chấp nhận Bernarda là người vợ hợp pháp của con không?” mà không ai trong chúng tôi bị vào đồn cảnh sát cả. Nhưng khi ngày cưới cận kề thì Fermín vẫn bị nỗi lo lắng giày vò. Bernarda đã thoát khỏi tình trạng hồi hộp nhờ phương thức cầu nguyện và bánh bông lan trứng, mặc dù, khi tình trạng bầu bí của chị đã được một vị bác sĩ thận trọng, đáng tin xác nhận, chị dành phần lớn thì giờ đấu tranh với cơn buồn nôn và chóng mặt. Mọi thứ dường như cho thấy rằng con đầu lòng của Fermín sẽ là một đứa khó nuôi.

Đó là những ngày tháng trôi đi trong một sự êm đềm hiển nhiên và dối lừa, nhưng dưới lớp mặt nạ thì tôi đã chìm vào một dòng chảy tối tăm, u ám, nó chầm chậm kéo tôi vào những khoảng sâu của một cảm xúc mới và không tài nào chống chọi nổi: sự căm hờn.

Những lúc rảnh rỗi, không cho ai biết mình đi đâu, tôi lại lẻn ra ngoài và dạo bước đến thư viện Ateneo trên phố Canuda, nơi tôi lần theo từng bước chân cuộc đời của Mauricio Valls trong phòng đọc báo. Kẻ nhiều năm qua tôi vẫn cho là một nhân vật nhạt nhòa và vô vị thì ngày càng trở nên rõ nét đến đau đớn. Cuộc điều tra giúp tôi dựng lại sự nghiệp của Valls trong mười lăm năm qua, từng mảnh một. Nhiều thứ đã trôi vào dĩ vãng kể từ những ngày đầu tiên hắn làm cho chế độ. Cùng với thời gian và những mối quan hệ tốt, nếu ta tin vào những gì báo chí nói (mà thế chẳng khác nào tin rằng nước cam có được là do vắt những quả cam tươi ở Valencia, Fermín nói), Mauricio Valls đã chứng kiến mong ước của hắn thành hiện thực và trở thành một ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn chương nghệ thuật của Tây Ban Nha.

Con đường thăng tiến của hắn quả là ngoạn mục. Từ năm 1944 trở đi hắn leo lên những chức vụ và được bổ nhiệm vào những vị trí mà tầm quan trọng ngày càng tăng trong hệ thống cơ quan văn hóa và học thuật của đất nước. Những bài báo, những bài phát biểu và những cuốn sách của hắn được tăng lên theo cấp số nhân. Bất cứ buổi lễ trao giải, tọa đàm hoặc sự kiện văn hóa có tự trọng nào cũng cần đến sự tham gia và hiện diện của ngài Mauricio. Trong năm 1947, cùng vài đối tác làm ăn, hắn thành lập Ariadna, một công ty xuất bản đặt văn phòng ở Madrid và Barcelona với nhiệm vụ hàng đầu là quảng bá cho hắn, nơi đã được báo chí miệt mài tán dương là “thương hiệu xuất bản uy tín nhất” của văn học Tây Ban Nha.

Đến năm 1948, cũng những tờ báo ấy bắt đầu nhắc đến Mauricio Valls như là “trí thức sáng láng nhất và được trọng vọng nhất của nước Tây Ban Nha Mới”. Giới trí thức tự phong của đất nước này và những kẻ mong mỏi được đứng vào hàng ngũ ấy dường như đang tham gia một chuyện tình lãng mạn nhiều đam mê với ngài Mauricio. Đám nhà báo phụ trách mục văn hóa không từ bỏ một cơ hội nào để ca tụng Valls, những mong được hắn ưu ái, và nếu may mắn thì sẽ được công ty Ariadna cho xuất bản một số bản thảo mà họ cất trong ngăn kéo, ngõ hầu trở thành một phần của cái quang cảnh chính thức và nếm chút vụn bánh ngọt từ bàn của hắn rơi xuống.

Valls đã học được luật chơi và kiểm soát bàn cờ giỏi hơn bất kỳ ai. Đầu thập niên năm mươi, danh tiếng và ảnh hưởng của hắn đã vươn xa ngoài phạm vi giới cầm quyền và bắt đầu len lỏi vào cái gọi là xã hội dân sự và những thành viên của nó. Các khẩu hiệu của Mauricio biến thành những chuẩn mực chân lý mới trong mắt ba hay bốn ngàn người Tây Ban Nha, những kẻ tự cho mình là số ít được lựa chọn và bọn họ xem việc nhai đi nhai lại những lời phúc âm của Mauricio như những cậu học trò cần cù trong khi khinh thị nhìn xuống đám đông dốt nát.

Trên đường lên đến đỉnh cao, Valls đã quy tụ quanh mình một bè lũ những nhân vật cùng chí hướng vốn được ăn lộc từ bàn tay hắn và dần dần được cất nhắc làm lãnh đạo của những tổ chức và giữ các vị trí quyền lực. Nếu có ai cả gan chất vấn lời nói hay giá trị của Valls, thì cá nhân đó sẽ bị báo chí chà đạp không chút tiếc thương. Sau khi bị nhạo báng bằng những lời lẽ cay độc, kẻ khốn khổ tội nghiệp kia rốt cuộc sẽ trở thành một gã khốn cùng, một tên ăn mày mà mọi cánh cửa đều đóng lại và lựa chọn duy nhất của anh ta chỉ có thể là sống mai danh ẩn tích hoặc lưu vong.

Tôi mất không biết bao nhiêu là thời gian để đọc từng lời được viết ra cũng như ý ẩn giữa các dòng chữ, so sánh những phiên bản khác nhau của câu chuyện, liệt kê những ngày tháng và lập một danh sách những thành công cùng các chuyện thâm cung bí sử. Trong những tình huống khác, giả như mục đích tìm hiểu của tôi chỉ đơn thuần mang tính chất nhân học, tôi sẽ ngả mũ trước ngài Mauricio và những mưu chước bậc thầy của hắn. Không ai có thể chối bỏ rằng hắn đã học được cách đọc trái tim và tâm hồn của đồng bào mình và giật dây điều khiển những ham muốn, hy vọng và mơ ước của họ. Hắn hiểu thấu trò chơi từ trong ra ngoài, và không ai có thể chơi giỏi hơn hắn.

Nếu còn lại gì đó trong tôi sau những ngày bất tận đắm mình trong phiên bản chính thức của cuộc đời Valls, thì ấy là niềm tin rằng những viên gạch nền móng của một nước Tây Ban Nha mới đang được đặt xuống và rằng sự thăng tiến chóng mặt của ngài Mauricio lên đỉnh cao quyền lực minh chứng cho một xu hướng đang lên, mà rất có thể, sẽ tồn tại lâu hơn cả nền độc tài và bén rễ sâu và vững chắc trên toàn đất nước trong mấy thập kỷ tới.

Năm 1952 Valls vươn lên đỉnh cao sự nghiệp khi hắn được chỉ định làm bộ trưởng Bộ Văn hóa với nhiệm kỳ ba năm, một vị trí mà hắn đã tranh thủ để củng cố quyền lực và đặt tay sai của mình vào những vị trí ít ỏi còn sót lại mà trước đó hắn chưa kiểm soát được. Hình ảnh của hắn ở chốn công cộng đạt đến một sự đơn điệu dát vàng: lời lẽ của hắn được trích dẫn như suối nguồn thông tuệ. Sự hiện diện của hắn trong các ban giám khảo và ban bệ đủ loại là thường xuyên, trong khi đống bằng khen, vòng nguyệt quế và huân chương của hắn thì tiếp tục đầy lên như nấm mọc sau mưa.

Rồi, đột nhiên, một điều kỳ lạ xảy ra.

Lúc đầu tôi đã không nhận thấy. Danh mục tràng giang đại hải những lời ca tụng và tin tức tiếp tục mọc lên không ngưng nghỉ, nhưng sau năm 1956, tôi bắt được một chi tiết bị chôn vùi giữa đống bài báo, đối lập hoàn toàn với mọi thứ được xuất bản trước đó. Giọng điệu và nội dung của những bài báo thì không đổi, nhưng bằng cách đọc từng bài và so sánh chúng, tôi nhận ra một điều.

Ngài Mauricio Valls không bao giờ xuất hiện nơi công cộng nữa.

Tên của hắn, uy tín của hắn, danh tiếng của hắn và quyền lực của hắn vẫn tiếp tục trở nên mạnh mẽ hơn. Nhưng có một điều mất đi: con người hắn. Sau năm 1956, không hề có ảnh, không hề có ai đả động hay viện dẫn đến sự tham dự của hắn ở những buổi lễ chính thức.

Bài báo cuối cùng xác nhận sự hiện diện của Mauricio Valls là vào mồng hai tháng Mười một năm 1956, khi hắn nhận giải thưởng cho thành tựu nổi bật nhất của năm trong lĩnh vực xuất bản. Buổi lễ trang trọng, được tổ chức ở Círculo de Bellas Artes tại Madrid, có sự tham dự của những quan chức cấp cao nhất và các tinh hoa của xã hội. Bài tường thuật được viết theo một lối dễ đoán, đặc trưng cho thể loại này, nói cách khác là một mẩu tin ngắn sặc mùi nịnh nọt. Điều thú vị nhất trong bài là bức ảnh kèm theo, bức ảnh đăng báo cuối cùng của Valls, chụp không lâu trước sinh nhật thứ sáu mươi của hắn. Ăn mặc lịch duyệt trong một bộ vét được cắt may tinh tế, hắn đang mỉm cười khiêm tốn khi đón nhận màn vỗ tay tán thưởng từ đám khán giả. Xuất hiện cạnh Valls là những gương mặt thường thấy trong các sự kiện như vậy và, đằng sau hắn, hơi khuất khỏi máy ảnh, với vẻ mặt nghiêm túc và khó hiểu, là hai nhân vật