← Quay lại trang sách

TÊN CỦA NGƯỜI HÙNG 1-Barcelona, 1958

Nhiều năm về sau, hai mươi ba vị khách tề tựu ăn mừng sự kiện này sẽ nhìn lại và nhớ đến cái đêm lịch sử trước ngày Fermín Romero de Torres từ bỏ đời độc thân.

“Thế là chấm dứt một kỷ nguyên,” Giáo sư Alburquerque tuyên bố, ông nâng ly sâm banh chúc mừng, nói to lên cái điều mà tất cả chúng tôi đều cảm thấy.

Tiệc độc thân của Fermín, một sự kiện mà tầm ảnh hưởng của nó tới dân số nữ toàn cầu được Gustavo Barceló so sánh với cái chết của Rudolf Valentino, diễn ra vào một đêm trời trong tháng Hai năm 1958. Địa điểm là phòng khiêu vũ La Paloma đẹp lộng lẫy, nơi chú rể trong quá khứ từng biểu diễn những điệu tango lay động lòng người, và gặt hái được những khoảnh khắc từ nay sẽ đi vào hồ sơ mật của một sự nghiệp lỗi lạc phục vụ cho người đàn bà vĩnh cửu. Cha tôi, lần duy nhất trong đời bị thuyết phục rời khỏi nhà, đã nhờ được một ban ca múa nhạc bán chuyên đến phục vụ, ban La Habana del Baix Llobregat, họ đồng ý chơi tuyển tập những điệu nhạc yêu thích của Fermín với một mức giá siêu hời: điệu mambo, guaracha và sones montunos đã đưa chú rể về những ngày xa xưa với những mưu đồ và cái tiếng tăm lẫy lừng ở các sòng bài của một Cuba bị lãng quên. Ai nấy, ở mức độ ít hay nhiều, đều xóa bỏ ngại ngần và lao mình vào sàn nhảy để tỏ lòng trân trọng Fermín.

Barceló đã thuyết phục cha tôi rằng những ly vodka mà ông liên tục đưa cho cha tôi chỉ là nước khoáng có cho thêm vài giọt rượu anit, và chẳng bao lâu chúng tôi đã được chứng kiến một cảnh vô tiền khoáng hậu: ngài Sempere khiêu vũ má áp má với một trong những quý cô dễ dãi được Rociíto - linh hồn đích thực của bữa tiệc - dẫn theo để thắp sáng sự kiện này.

“Chúa lòng lành,” tôi thì thầm khi nhìn theo cha tôi với quý cô ăn sương đã hết mùa, ông lắc lư và đánh mông với cô ta theo nhịp nhạc.

Barceló đi vòng quanh các thực khách, trao những điếu xì gà và những tấm thiệp nhỏ ông đã in để kỷ niệm sự kiện này tại một công ty chuyên làm đồ lưu niệm cho các buổi rước lễ lần đầu, lễ rửa tội và lễ tang. Tấm thiệp làm từ loại giấy cao cấp, vẽ hình biếm họa Fermín ăn mặc như một thiên thần, tay chắp lại như đang cầu nguyện, với dòng chữ như sau:

FERMÍN ROMEDO DE TORRES

19??-1958

Người tình vĩ đại về hưu

1958-19??

Người cha xuất hiện

Lần đầu tiên trong nhiều năm, Fermín hạnh phúc và điềm tĩnh. Chừng nửa tiếng trước khi bắt đầu bữa tiệc tôi đã dẫn anh ta đến Can Lluís, nơi Giáo sư Alburquerque chứng thực rằng ông đã đến Phòng Đăng ký Hộ tịch vào sáng hôm đó, kèm theo bộ hồ sơ gồm những chứng từ và giấy tờ được chế tác một cách thiện nghệ bởi Oswaldo Darío de Mortenssen và trợ lý của chú, Luisito.

“Fermín thân mến,” vị giáo sư tuyên bố. “Cho phép tôi chào đón anh chính thức đến với thế giới những người đang sống. Có các bạn của chúng ta từ Can Lluís làm chứng, Daniel Sempere và tôi xin giới thiệu với anh phiên bản hoàn toàn mới của anh, cùng với tấm chứng minh thư hợp pháp và mới tinh này.”

Một Fermín đầy xúc động xem xét chứng minh thư mới của mình.

“Sao ông có thể làm được một điều thần kỳ như vậy?”

“Chúng tôi sẽ miễn cho anh những vấn đề thủ thuật,” vị giáo sư nói. “Điều cần phải nói ấy là khi anh có một người bạn thực sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro và quyết dời non lấp biển để anh có thể kết hôn một cách đường hoàng và bắt đầu sinh cho đời những đứa con đặng tiếp tục dòng dõi nhà Romero de Torres, thì gần như điều gì cũng có thể làm được, Fermín ạ.”

Fermín mắt đẫm lệ nhìn tôi, anh ta ôm tôi chặt đến mức tôi tưởng mình ngạt thở. Tôi không xấu hổ khi thừa nhận rằng đó là một trong những khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời mình.

2

Nửa tiếng đồng hồ với âm nhạc, rượu và những điệu nhảy khêu gợi đã trôi qua, tôi cần nghỉ xả hơi nên bước đến quầy bar để xin chút đồ uống không cồn. Tôi không nghĩ mình có thể nuốt thêm dù chỉ một giọt rum chanh, thức uống chính thức tối hôm ấy. Phục vụ cho tôi một ly nước lạnh sủi tăm và tôi dựa lưng vào quầy bar để tận hưởng niềm vui. Tôi không để ý thấy Rociíto đang đứng ở phía đầu kia quầy bar. Chị đang cầm một ly sâm banh, và quan sát bữa tiệc mà chị đã tổ chức với nét đượm buồn. Từ những gì Fermín kể lại, tôi đồ chừng Rociíto cũng gần đến sinh nhật lần thứ ba lăm, nhưng ngót hai chục năm trong nghề đã gây bao tàn lụi và dù dưới ánh đèn màu nữ hoàng của phố Escudellers trông vẫn già hơn tuổi thật.

Tôi bước đến chỗ chị và mỉm cười.

“Rociíto này, trông chị đẹp hơn bao giờ hết,” tôi nói dối.

Chị đang mặc bộ cánh tuyệt nhất của mình và mái tóc chị thì đúng là một siêu phẩm do đích thân thợ làm tóc giỏi nhất Raval tạo ra, nhưng điều thực sự làm tôi chú ý hơn cả là đêm ấy trông chị rất buồn.

“Chị có sao không, Rociíto?”

“Nhìn anh ấy coi, thật tội nghiệp. Toàn da bọc xương, thế mà anh ấy vẫn có hứng thú để nhảy. Anh ấy luôn là một vũ công tuyệt vời.”

Đôi mắt chị dán chặt vào Fermín và tôi biết chị sẽ luôn nhìn thấy ở nơi anh nhà vô địch đã cứu chị khỏi gã ma cô nhãi nhép ấy. Sau hai chục năm chị hành nghề ở góc đường, anh ta có lẽ là một trong số ít đàn ông đáng theo đuổi mà chị gặp được.

“Cậu Daniel, tôi không muốn nói gì với Fermín cả, nhưng ngày mai tôi sẽ không đến dự đám cưới đâu.”

“Chị nói sao cơ, Rociíto? Fermín đã dành cho chị một chỗ danh dự...”

Rociíto khép mắt lại.

“Tôi biết, nhưng tôi không thể ở đó.”

“Tại sao?” tôi hỏi, dù tôi có thể đoán được câu trả lời.

“Bởi vì điều đó sẽ thực sự khiến tôi rất buồn và tôi muốn anh Fermín hạnh phúc với bà xã của anh ấy.”

Rociíto bắt đầu khóc. Tôi không biết phải nói gì, nên tôi ôm chị.

“Tôi luôn yêu anh ấy, cậu biết không? Kể từ khi chúng tôi gặp nhau. Tôi biết mình không phải là người phụ nữ phù hợp với anh ấy. Tôi biết anh ấy coi tôi là... ồ, anh ấy chỉ coi tôi là Rociíto thôi.”

“Fermín rất yêu chị đấy, chị không bao giờ được quên điều đó.”

Người phụ nữ ấy quay đi và lau nước mắt trong sự ngượng nghịu. Chị mỉm cười và nhún vai.

“Xin thứ lỗi cho tôi. Cậu biết đấy, tôi thật ngốc nghếch: cứ uống được ít rượu là tôi chẳng biết mình đang nói gì nữa.”

“Không sao mà.”

Tôi đưa ly nước của mình cho chị và chị nhận lấy.

“Rồi một ngày ta nhận ra tuổi trẻ đã qua đi và con tàu đã chạy rồi, nếu cậu hiểu tôi nói gì.”

“Luôn có chuyến tàu khác mà. Luôn là vậy.”

Rociíto gật đầu.

“Thế nên tôi sẽ không đến dự lễ cưới, cậu Daniel ạ. Cách đây vài tháng tôi gặp một quý ông người Reus. Anh ấy là người tốt. Một người góa vợ. Một người cha tốt. Sở hữu một bãi phế liệu và mỗi khi đến Barcelona anh ấy đều gặp tôi. Anh ấy đã hỏi cưới tôi. Chúng tôi không coi đây là chuyện đùa, cả tôi và anh ấy, cậu biết không? Trở nên già nua trong cảnh đơn côi là một việc rất khó khăn, và tôi biết tôi đâu còn nhan sắc gì nữa mà đứng ngoài đường. Jaumet, người đàn ông Reus ấy, đã đề nghị tôi làm một cuộc hành trình cùng anh ấy. Các con của anh ấy đã ra ở riêng và anh ấy đã làm việc suốt cả đời rồi. Anh ấy bảo muốn nhìn thế giới trước khi quá muộn, và đề nghị tôi đi cùng. Trên danh nghĩa là vợ anh ấy, chứ không phải con điếm người ta dùng xong rồi đuổi đi. Tàu sẽ rời cảng sáng sớm mai. Jaumet bảo thuyền trưởng có thể làm chủ hôn ngoài biển khơi và nếu không được, chúng tôi sẽ tìm một cha cố ở một cảng nào đó.”

“Fermín có biết không?”

Như thể đã nghe thấy chúng tôi nói gì, Fermín dừng chân nhảy và nhìn chúng tôi. Anh ta giơ tay về phía Rociíto và trao cho chị ánh nhìn ngẩn ngơ của kẻ đang khẩn thiết cần một nụ hôn cùng một cái ôm, ánh nhìn đó luôn giúp anh ta đạt được mục đích và Rociíto bật cười, lầm bầm trong lòng, và trước khi đến với tình yêu của đời mình trên sàn nhảy trong điệu bolero cuối cùng, chị quay sang tôi và nói:

“Hãy chăm sóc anh ấy cho tốt nhé, Daniel. Người như Fermín chỉ có một thôi.”

Ban nhạc đã ngừng chơi và mọi người dãn ra nhường chỗ cho Rociíto. Fermín nắm tay chị. Những ngọn đèn ở La Paloma từ từ mờ dần và giữa bóng tối một chùm sáng tỏa ra dưới chân đôi bạn nhảy. Những đôi khác rời khỏi sàn và dàn nhạc nhẹ nhàng chơi cái giai điệu chậm rãi của bản bolero buồn nhất được viết ra. Fermín quàng tay qua eo Rociíto. Họ nhìn vào mắt nhau, tách biệt khỏi thế giới, những người tình sẽ không bao giờ gặp lại nhau của Barcelona cùng khiêu vũ với nhau lần cuối cùng. Khi tiếng nhạc tắt đi, Fermín hôn lên môi Rociíto, mắt chị nhòe lệ, vuốt má anh ta, rồi chầm chậm bước đến lối ra không nói lời từ biệt.

3

Ban nhạc giải cứu bữa tiệc bằng điệu guaracha, và Oswaldo Darío de Mortenssen, do viết quá nhiều những bức thư tình đã trở thành một nhà bách khoa về những câu chuyện buồn, bèn khích lệ mọi người quay lại sàn nhảy và vờ như họ chẳng thấy gì hết. Fermín bộ dạng ỉu xìu bước đến quầy bar, đoạn ngồi trên chiếc ghế cạnh tôi.

“Mọi việc ổn chứ, Fermín?”

Anh ta yếu ớt gật đầu.

“Tôi nghĩ chút không khí trong lành sẽ giúp tôi khá lên, Daniel.”

“Đợi ở đây nhé, tôi đi lấy áo khoác cho chúng ta.”

Lúc chúng tôi tản bộ dọc theo phố Tallers về phía quảng trường Ramblas thì, cách đó chừng năm mươi mét, chúng tôi thoáng thấy một dáng người quen, đang bước chậm rãi.

“Này Daniel. Có phải cha cậu không?”

“Đúng rồi đấy. Và ông ấy say túy lúy.”

“Tôi không bao giờ nghĩ sẽ bắt gặp cảnh này,” Fermín nói.

“Nếu anh còn không ngờ tới, thì tưởng tượng xem tôi còn thấy thế nào nào!”

Chúng tôi rảo chân bước cho tới khi bắt kịp ông và khi thấy chúng tôi, ông mỉm cười, ánh mắt đờ đẫn.

“Mấy giờ rồi?” ông hỏi.

“Muộn lắm rồi.”

“Tôi cũng nghĩ vậy. Fermín này, bữa tiệc thật tuyệt. Và những cô gái kia nữa. Ở đó có những cặp mông xứng đáng để chúng ta ra chiến trận đấy.”

Tôi đảo mắt. Fermín khoác cánh tay cha tôi, dìu ông bước đi.

“Ông Sempere này, tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ phải nói điều này, nhưng ông đang bị rượu đầu độc, và tốt hơn ông đừng nói gì kẻo sau này lại thấy hối tiếc.”

Cha tôi gật đầu, bất chợt lộ vẻ xấu hổ.

“Tại cái lão Barceló xấu xa ấy. Tôi không biết ông ta chuốc cho tôi thứ gì, và bởi tôi không quen uống rượu...”

“Xin đừng bận tâm. Chỉ cần một cốc soda bicarbonate và đi ngủ. Sáng ngày mai ông sẽ tươi như hoa cúc và chẳng làm sao hết.”

“Tôi nghĩ tôi sẽ ốm mất.”

Hai người bọn tôi loay hoay dìu ông đứng thẳng trong khi con người khốn khổ nôn hết mọi thứ ông đã nốc vào. Tôi đưa tay đỡ lấy cái trán vã mồ hôi của ông và khi chắc chắn trong bụng ông không còn gì nữa, thậm chí cả bữa ăn đầu tiên thuở mới lọt lòng, chúng tôi để ông nghỉ một lát ở bậc thềm cửa nhà ai đó.

“Hít một hơi thật sâu, thật chậm nào, ông Sempere.”

Cha tôi gật đầu, mắt nhắm lại. Fermín và tôi nhìn nhau.

“Này, không phải anh sẽ kết hôn sao?”

“Chiều ngày mai.”

“Ồ, chúc mừng nhé!”

“Cảm ơn ông Sempere. Vậy ông nói sao nào? Ông nghĩ chúng ta có thể từ từ đi về nhà không?”

Cha tôi gật đầu.

“Quả là con người can đảm, chúng ta sắp đến nơi rồi.”

Cơn gió hanh khô, man mát giúp đầu óc cha tôi tỉnh táo hơn. Khi chúng tôi bước đến phố Santa Ana mười phút sau đó, ông đã hiểu ra tình hình và con người tội nghiệp ấy bẽ bàng vì xấu hổ. Có lẽ trước từ bé đến giờ ông chưa từng say rượu.

“Làm ơn, đừng nói một lời nào với bất kỳ ai nhé,” ông cầu xin.

*

Chúng tôi còn cách hiệu sách hai chục mét thì tôi nhận thấy có người đang ngồi nơi cửa chính tòa nhà. Ánh đèn đường từ Casa Jorba, tại góc phố cắt với Puerta del Ángel, soi hình dáng một thiếu nữ đang ôm chiếc va li trên gối. Khi thấy chúng tôi, cô bé đứng lên.

“Chúng ta có bạn,” Fermín lẩm bẩm.

Cha tôi thấy cô bé trước tiên. Tôi nhận thấy vẻ mặt ông có điều gì khác lạ, một sự điềm tĩnh căng cứng đã trùm lên ông như thể ông vừa chợt tỉnh cơn say. Ông tiến đến chỗ cô gái nhưng bất chợt đứng sững lại.

“Isabella?” Tôi nghe thấy ông nói.

Sợ rằng rượu vẫn còn che mờ óc phán xét của ông và rằng có lẽ ông có thể ngã sụp xuống ngay tại đó, ngay giữa phố, tôi bước đến. Rồi tôi nhìn thấy cô bé.

4

Cô bé nhìn như mới mười bảy. Khi tiến vào vùng ánh sáng tỏa xuống từ ngọn đèn đường, cô bé mỉm cười bẽn lẽn với chúng tôi, đưa một tay lên như muốn chào.

“Cháu là Sofía,” cô bé nói, giọng không nặng khẩu âm.

Cha tôi trân trân nhìn cô bé đầy ngạc nhiên, tưởng như thấy một bóng ma. Tôi nuốt ực, cảm thấy cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Cô gái đó như một bản sao của mẹ tôi: đúng cái khuôn mặt vẫn xuất hiện trong những bức ảnh cha tôi giữ trong ngăn bàn của ông.

“Cháu là Sofía,” cô bé nhắc lại, trông không thoải mái. “Cháu của dượng. Đến từ Naples...”

“Sofía,” cha tôi lắp bắp. “À, Sofía.”

Cảm ơn Chúa là Fermín có mặt ở đó để xử lý tình huống. Sau khi đánh vào cổ tay cho tôi tỉnh táo lại, anh ta giải thích rằng ông Sempere cảm thấy hơi mệt.

“Cô biết đấy, chúng tôi vừa mới trở về sau một buổi nếm rượu, và chỉ cần một ly Vichy cũng làm cho con người tội nghiệp này mê man. Xin đừng bận tâm đến ông ấy, thưa quý cô, thường ông ấy không bê bết thế đâu.”

Chúng tôi tìm thấy một bức điện khẩn dì Laura, mẹ cô bé, gửi đến thông báo việc cô đến. Nó được nhét dưới cửa trong khi chúng tôi ra ngoài.

Khi lên căn hộ, Fermín đỡ cha tôi lên xô pha và lệnh cho tôi chuẩn bị một ấm cà phê đặc. Trong khi đó, anh ta tiếp chuyện cô gái, hỏi han cô về chuyến đi rồi đủ những thứ mang tính thủ tục khác trong khi cha tôi dần dần hồi lại.

Bằng giọng vui tươi và vẻ hoạt bát, Sofía kể cho chúng tôi cô bé đến ga Francia đêm hôm đó lúc mười giờ rưỡi. Từ nhà ga, cô bé bắt taxi đến quảng trường Cataluna. Khi phát hiện ra không có ai ở nhà cô bé vào trú ở một quán bar gần đó cho tới khi quán đóng cửa. Rồi cô bé ngồi chờ nơi ngưỡng cửa, tin rằng sớm muộn gì cũng có người xuất hiện. Cha tôi nhớ lại bức thư mẹ cô bé báo cho ông Sofía sẽ đến Barcelona, nhưng ông không tưởng tượng nổi là lại sớm như thế.

“Dượng rất tiếc vì cháu phải đợi ngoài đường,” ông nói. “Thường thì, dượng không bao giờ ra ngoài, nhưng tối nay có bữa tiệc độc thân của Fermín và...”

Thích thú vì mẩu tin mới này, Sofía nhảy lên và chúc mừng Fermín bằng một cái hôn vội lên má. Dù đã thôi đóng vai trò hoạt náo, Fermín cũng không kiềm chế nổi bèn mời ngay cô bé đến dự lễ cưới.

Chúng tôi nói chuyện thêm chừng một tiếng rưỡi thì Bea, vừa từ bữa tiệc độc thân của Bernarda trở về, nghe thấy tiếng người lúc đi lên cầu thang nên bấm chuông. Khi bước vào phòng khách và thấy Sofía, nàng tái mặt nhìn tôi.

“Đây là em họ của anh, ở Naples,” tôi thông báo. “Cô bé đến Barcelona để học và sẽ ở đây một thời gian...”

Bea cố giấu nỗi hoảng hốt và chào cô bé với vẻ tuyệt đối bình thường.

“Đây là vợ anh, Beatriz.”

“Bea thôi. Không ai gọi chị là Beatriz cả.”

Thời gian và cà phê dần dần làm dịu cơn chấn động từ chuyến thăm của Sofía và sau một lát, Bea gợi ý rằng cô bé tội nghiệp hắn phải mệt lả rồi và tốt hơn là đi ngủ một chút. Ngày mai sẽ lại là một ngày khác, nàng nói, dù cho đó là một ngày cưới. Mọi người quyết rằng Sofía sẽ ở căn phòng trước đây là phòng ngủ hồi còn bé của tôi và, sau khi chắc chắn cha tôi không rơi vào cơn hôn mê lần nữa, Fermín xua ông lên giường. Bea bảo Sofía rằng nàng sẽ cho cô bé mượn một bộ váy để dự lễ cưới và khi Fermín, với hơi thở nồng mùi sâm banh dù đứng cách xa hai mét, toan đưa ra những nhận xét không thích hợp về sự giống nhau khác nhau trong vóc dáng và đường nét giữa họ, tôi hích khuỷu tay vào sườn để anh ta im miệng.

Một bức ảnh cha mẹ tôi trong ngày cưới đang ở trên giá quan sát chúng tôi.

Ba chúng tôi ngồi đó, trong phòng khách, há hốc mồm không tin nổi.

“Như hai hạt đậu trong một vỏ,” Fermín lẩm bẩm.

Bea nhìn tôi qua khóe mắt, cố đọc ý nghĩ của tôi. Nàng chộp tay tôi với nét mặt vui vẻ, chuẩn bị đổi chủ đề.

“Kể em nghe, buổi ăn mừng thế nào?”

“Trang nghiêm và chừng mực. Còn bữa tiệc của các quý cô thì sao?”

“Không như bên anh đâu.”

Fermín lia cho tôi một ánh nhìn nghiêm nghị.

“Tôi đã bảo cậu rằng về những chuyện thế này phụ nữ cục mịch hơn chúng ta mà.”

Bea quăng cho chúng tôi nụ cười chế giễu.

“Anh bảo ai cục mịch hả Fermín?”

“Xin thứ lỗi cho sự lỡ lời không thể tha thứ này, thưa cô Beatriz. Sâm banh trong máu khiến tôi nói những điều vớ vẩn. Tôi thề có Chúa rằng cô là hình mẫu về phẩm hạnh và sự đoan trang và kẻ hầu tầm thường này của cô thà chịu phạt phải câm lặng và sống những ngày còn lại của đời hắn ở nhà giam Carthusian trong sự ăn năn còn hơn bóng gió rằng cô có dấu hiệu, dẫu chỉ là thoáng qua, của sự cục mịch.”

“Không được may mắn thế đâu,” tôi nhận xét.

“Chúng ta không nên bàn vụ này nữa,” Bea xen vào, nhìn chúng tôi như thể chúng tôi mới mười một tuổi. “Và giờ tôi cho rằng cả hai anh sẽ thực hiện cuốc đi dạo theo thông lệ trước đám cưới đến tận đê chắn sóng ở hải cảng nhỉ,” nàng nói.

Fermín và tôi nhìn nhau.

“Thôi nào. Cả hai đi đi. Và các anh tốt hơn hết là phải có mặt ở nhà thờ đúng giờ vào ngày mai nhé.”

5

Nơi duy nhất chúng tôi thấy còn mở cửa lúc đó là quán El Xampanyet, trên phố Montcada. Họ hẳn phải lấy làm tiếc cho chúng tôi vì họ đã để chúng tôi ngồi thêm một lát, trong lúc họ dọn dẹp, và khi họ đóng cửa, nghe nói rằng chỉ còn mấy tiếng nữa Fermín sẽ trở thành người có gia đình, thì chủ quán ngỏ lời chia buồn và tặng chúng tôi một chai rượu thuốc nhà làm được.

“Can đảm nhé, và cầu Chúa ở bên anh,” ông ta thốt lên.

Chúng tôi lang thang qua những con phố hẹp của khu Ribera, bàn chuyện cứu thế giới, như vẫn thường làm, cho đến khi bầu trời nhuộm sắc tía và chúng tôi biết đã đến lúc chú rể và phù rể - nói cách khác, là tôi đây - phải tiến ra đê chắn sóng.

Ở đó chúng tôi sẽ ngồi xuống một lần nữa để chào bình minh, nhìn ngắm quang cảnh tuyệt vời nhất trong vũ trụ: hình ảnh phản chiếu của Barcelona đang thức giấc trên vùng nước cảng.

Chúng tôi ngồi đó chân thòng xuống bờ đê mà đung đưa rồi chia nhau chai rượu được quán El Xampanyet cho. Giữa những ngụm rượu, chúng tôi lặng ngắm thành phố, lần theo dấu những đàn chim mòng biển trên mái vòm nhà thờ La Merce và xem chúng vẽ những hình cung giữa những tòa tháp của tòa nhà bưu điện. Phía xa xa, ngự trị trên đồi Montjuic, lâu đài nhô lên sừng sững, tối hù, một con chim săn mồi ma mị chăm chú nhìn xuống thành phố dưới chân nó, như đang chờ đợi.

Sự im lặng bị tiếng còi tàu phá vỡ. Bên kia cầu cảng National một con thuyền lớn đang thu neo về. Rời xa bến tàu nó xuôi đi nhờ lực máy đẩy, bỏ lại sau thân tàu một đường rẽ lớn trên vùng nước cảng. Cỡ chục hành khách đã ra đuôi tàu vẫy tay chào. Tôi tự hỏi liệu Rociíto có trong số những người ấy, đứng bên cạnh ông lái buôn phế liệu đứng tuổi, điển trai người Reus của chị. Fermín ngắm nhìn con tàu, chìm trong suy nghĩ.

“Cậu nghĩ Rociíto sẽ hạnh phúc chứ, Daniel?”

“Còn anh, Fermín? Anh sẽ hạnh phúc chứ?”

Chúng tôi nhìn con tàu trôi về phía xa xăm cùng những bóng người nhỏ dần cho đến khi vô hình.

“Fermín này, có một điều khiến tôi thắc mắc. Sao anh không muốn ai tặng quà cưới hả?”

“Tôi không muốn làm khó cho mọi người. Vả lại chúng tôi sẽ làm gì với những bộ cốc chén, thìa có hình quốc huy Tây Ban Nha và đủ loại đồ đạc mà người ta tặng vào dịp cưới đây?”

“Ồ, tôi định tặng anh một món quà đấy.”

“Cậu đã tặng tôi món quà lớn nhất mà người ta có thể tặng tôi rồi, Daniel.”

“Cái đó không tính. Tôi đang nói về một món quà theo sở thích cá nhân kia.”

Fermín lộ vẻ tò mò.

“Đừng bảo đó là tượng Madonna bằng gốm hay tượng Thánh Teresa đấy nhé. Bernarda đã có một bộ sưu tập đồ sộ đến mức tôi không biết phải tìm chỗ nào mà ngồi rồi.”

“Đừng lo. Không phải đồ vật đâu.”

“Đừng bảo tôi là tiền đấy...”

“Anh thừa biết, đến một xu tôi còn chẳng có. Người có tiền là bố vợ tôi mà ông ấy thì chẳng vung tiền đâu.”

“Những kẻ theo Franco keo như gì vậy.”

“Bố vợ tôi là người tốt, Fermín ạ. Đừng bỉ bai ông ấy.”

“Thôi dẹp chuyện này đi, đừng có mà thay đổi chủ đề khi cậu đã nhử kẹo tôi. Quà gì thế?”

“Đoán đi nào.”

“Một túi kẹo ngọt Sugus.”

“Lạnh, lạnh...”

Fermín nhíu mày, đến chết vì tò mò. Đột nhiên, mắt anh ta sáng lên.

“Ôi không... Không thể sớm hơn được hả.”

Tôi gật đầu.

“Còn khối thời gian. Này, nghe cho kỹ đây. Anh không được kể cho ai điều anh sẽ thấy hôm nay, Fermín. Không một ai...”

“Kể cả Bernarda ư?”

6

Ánh nắng đầu tiên của ngày đổ xuống những chóp nhà hình nón của Đại lộ de Santa Mónica như dung dịch đồng. Hôm ấy là sáng Chủ nhật, đường phố yên tĩnh và hoang vắng. Khi chúng tôi vào con hẻm nhỏ Arco del Teatro, một luồng sáng ma mị từ Đại lộ len vào, mờ dần và khi đến cái cánh cửa lớn bằng gỗ chúng tôi bắt đầu ngập chìm trong một thành phố của những cái bóng.

Tôi leo lên bậc thềm và đập vào búa gõ cửa vài lần. Có tiếng vang từ bên trong, như những gợn sóng hồ. Fermín, lúc này đã kính cẩn lặng im và trông như cậu bé ngày đầu tiên đến trường, quay sang nhìn tôi lo lắng.

“Gọi cửa lúc này có sớm quá không?” anh ta hỏi. “Tôi hy vọng trưởng lão không bực mình...”

“Đây có phải cửa hàng đâu. Không có giờ mở cửa,” tôi trấn an anh ta. “Và ở đây trưởng lão tên là Isaac. Đừng nói gì trừ phi ông ấy hỏi anh trước.”

Fermín gật đầu tuân thủ.

“Không một tiếng xì xào.”

Vài phút sau, nghe thấy tiếng lịch kịch của bánh răng, ròng rọc và đòn bẩy đang hoạt động trong ổ khóa, tôi liền bước lùi xuống. Cánh cửa mở ra trong tích tắc và khuôn mặt kền kền của Isaac Montfort, người bảo vệ, ngó ra với vẻ nghiêm khắc thường lệ. Anh mắt ông dừng lại ở tôi trước, rồi sau khi liếc nhanh sang Fermín, ông tiến tới quá trình chụp X quang, lập danh mục và dò xét anh ta từ đầu đến chân.

“Đây chắc hẳn là Fermín Romero de Torres trứ danh,” ông làu bàu.

“Hân hạnh được phục vụ ông, và Chúa và...”

Tôi ra hiệu cho Fermín im lặng bằng một cú thúc khuỷu tay và mỉm cười với ông bảo vệ khắt khe.

“Chúc buổi sáng tốt lành, ông Isaac.”

“Một buổi sáng tốt lành, cậu Sempere, sẽ là một buổi sáng mà cậu không gọi cửa lúc tinh mơ thế này, hoặc là khi tôi đang trong nhà vệ sinh, hoặc vào một ngày nghỉ lễ,” Isaac đáp. “Thôi, các cậu vào đi.”

Ông bảo vệ mở cửa rộng hơn một chút và chúng tôi len vào. Khi cánh cửa đóng lại sau lưng chúng tôi, Isaac cầm ngọn đèn dầu dưới sàn lên và Fermín có thể quan sát những vận động phức tạp của ổ khóa khi nó tự xếp lại giống như bên trong chiếc đồng hồ lớn nhất thế giới.

“Một tên trộm có thể lên men như loại phô mai Camembert ngon lành khi cố nạy cái khóa này,” anh ta buông lời.

Tôi ném cho anh ta cái nhìn cảnh báo và anh ta vội đưa một ngón tay lên môi.

“Lấy hay đưa đây?” Isaac hỏi.

“Ồ, ông thấy đấy, cháu có ý đưa Fermín đến đây từ lâu để anh ấy được tai nghe mắt thấy nơi đây. Cháu thường kể cho anh ấy nghe về nó. Anh ấy là bạn thân nhất của cháu và anh ấy sẽ kết hôn hôm nay, vào buổi trưa,” tôi giải thích.

“Thật tử tế,” Isaac nói. “Tội nghiệp. Cậu có chắc là cậu không muốn tôi cho mượn chỗ này làm nơi để tị nạn hôn nhân chứ?”

“Fermín quả quyết muốn kết hôn, ông Isaac.”

Ông bảo vệ nhìn Fermín từ đầu đến chân. Fermín mỉm cười xin lỗi.

“Can đảm làm sao.”

Isaac dẫn chúng tôi đi dọc cái hành lang rộng dẫn đến cửa lối vào sảnh lớn. Tôi để Fermín đi trước cho anh ta khám phá tận mắt cái cảnh tượng không lời lẽ nào tả xiết ấy.

*

Hình dáng nhỏ bé của anh ta bị nhấn chìm dưới luồng sáng từ mái vòm kính đổ xuống. Luồng sáng rơi xuống một thác nước tỏa hơi nghi ngút bên trên một mê cung chằng chịt những hành lang, lối đi, cầu thang, mái vòm và mái cong tưởng chừng từ sàn nhà dựng lên như thân một cây sách dài vô tận, với những cành nhánh hướng lên trời tạo nên một hình khối đáng kinh ngạc. Fermín bước đến một lối đi kéo dài như chiếc cầu dẫn vào hầm cái công trình ấy. Anh ta nhìn chằm chặp, miệng há hốc. Tôi tiến lại gần và đặt tay lên vai anh.

“Chào mừng anh đến với Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, Fermín.”

7

Theo kinh nghiệm của tôi, mỗi khi ai khám phá ra nơi ấy, phản ứng của họ luôn là mê mẩn và kinh ngạc, vẻ đẹp và sự bí ẩn của cơ ngơi này khiến du khách câm lặng, ngơ ngẩn mà ngắm. Hiển nhiên, Fermín thì phải khác. Anh ta mất nửa tiếng bị thôi miên, lang thang như một người bị ma ám qua từng xó xỉnh và ngóc ngách của bức tranh xếp hình khổng lồ được hình thành từ cái mê cung ngoằn ngoèo kia. Anh ta dừng lại lấy đốt tay gõ vào các trụ tường và cột kèo, như thể nghi ngờ độ vững chãi của chúng. Anh ta nhìn từ đủ mọi góc độ khác nhau, lấy bàn tay tạo thành một kính thiên văn nhỏ và cố tìm ra logic của công trình này. Anh ta đi qua những đường xoắn ốc của thư viện, cái mũi lớn gần như chạm vào những dãy gáy sách bất tận chạy dọc những lối đi dài đến vô tận, ghi nhớ trong đầu những tên sách và lập danh mục những thứ khám phá ra được trên đường đi. Tôi đi theo sau anh ta vài bước chân, với cảm giác thận trọng xen lẫn lo lắng.

Tôi vừa bắt đầu hồ nghi rằng Isaac sắp sửa đá chúng tôi ra khỏi thì tôi đâm bổ vào ông quản thư trên một chiếc cầu nối giữa những căn phòng mái cong. Ngạc nhiên thay, chẳng những không tỏ dấu hiệu tức giận mà ông còn mỉm cười thân thiện khi quan sát hành trình của Fermín trong chuyến khám phá đầu tiên của anh ta ở Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên.

“Anh bạn của cậu đúng là một giống loài khác thường,” Isaac nhận định.

“Ông vẫn chưa biết hết đâu.”

“Đừng lo cho anh ta, cứ để anh ta yên. Anh ta rồi sẽ đáp xuống từ đám mây thôi.”

“Nếu anh ta lạc thì sao?”

“Anh ta có vẻ chú tâm lắm. Anh ta sẽ tìm được lối.”

Tôi không chắc đến vậy, nhưng không muốn cãi lại Isaac. Tôi đi cùng ông đến căn phòng cũng là nơi ông dùng làm văn phòng và đón lấy cốc cà phê ông trao cho.

“Cậu đã giải thích quy tắc cho bạn của cậu chưa?”

“Fermín và quy tắc là hai thứ không tương thích với nhau. Nhưng cháu đã tóm tắt những điều căn bản, và anh ta đáp bằng một câu đầy tự tin: ‘Dĩ nhiên, cậu cho tôi là hạng nào chứ?’ “

Trong khi Isaac rót thêm cà phê cho tôi ông bắt gặp tôi đang nhìn chằm chặp tấm hình cô con gái Nuria của ông đang đặt trên bàn.

“Không lâu nữa là được hai năm kể từ khi con bé rời chúng ta,” ông nói, với một nỗi buồn xuyên vào không gian.

Tôi cúi xuống, thiểu não. Dù cho có là một trăm năm trôi qua thì cái chết của Nuria Monfort vẫn ở lại trong tâm trí tôi, như một điều chắc chắn là nếu tôi chưa bao giờ gặp chị thì chị vẫn có thể còn sống. Isaac nâng niu tấm hình bằng ánh mắt.

“Tôi già rồi, cậu Sempere. Đã đến lúc người khác đảm nhiệm vị trí của tôi.”

Tôi toan phản đối thì Fermín bước đến, mặt đỏ gắt, và thở hồng hộc như vừa chạy đường dài xong.

“Vậy là?” Isaac hỏi. “Anh nghĩ sao?”

“Thật lộng lẫy. Dù hình như nó không có nhà vệ sinh. Ít nhất thì tôi nhận thấy như vậy.”

“Tôi hy vọng anh không tè vào góc nào đó.”

“Tôi đã có một nỗ lực siêu phàm là kìm nén và tìm đường quay lại đây.”

“Ở cửa bên tay trái. Anh phải kéo sợi dây hai lần, lần đầu không bao giờ được cả.”

Trong khi Fermín đi giải tỏa, Isaac rót một ly cà phê bốc hơi nóng chờ anh ta quay lại.

“Tôi có vài câu mong được hỏi ông, thưa ông Isaac.”

“Fermín, tôi không nghĩ...” tôi van nài.

“Không sao đâu. Cứ hỏi đi.”

“Loạt đầu tiên liên quan đến lịch sử của công trình này. Loạt thứ hai liên quan đến kỹ thuật và kiến trúc. Và thứ ba về căn bản là liên quan đến danh mục sách...”

Isaac bật cười. Lần đầu tiên tôi được nghe ông cười và tôi không biết nên coi đó là tín hiệu của thiên đường hay là điềm báo một thảm họa sắp xảy đến.

“Trước hết, anh phải chọn cuốn sách mà anh muốn giữ đã,” Isaac đề nghị.

“Tôi đã để mắt đến vài cuốn, tuy nhiên vì lý do tình cảm, tôi chọn cuốn này, nếu được.”

Anh ta lôi trong túi ra một cuốn sách. Nó được bọc da đỏ, với nhan đề in nổi chữ vàng, và khắc hình đầu lâu trên hang lót.

“Ồ tôi thì không: Thành phố bị nguyền rủa, tập mười ba: Daphne và những cầu thang không tưởng, của David Martín,” Isaac đọc.

“Một người bạn cũ,” Fermín giải thích.

“Thật vậy sao. Lạ thật, có dạo tôi thường thấy ông ta lai vãng ở đây,” Isaac nói.

“Hẳn đó là trước chiến tranh,” tôi nhận định.

“Không, không... tôi thấy ông ấy về sau này.”

Fermín và tôi nhìn nhau. Tôi băn khoăn không biết Isaac nói có đúng không hay là ông đã bắt đầu quá già với công việc này.

“Tôi không muốn trái ý ông, thưa trưởng lão, nhưng điều đó là không thể nào,” Fermín nói.

“Không thể nào ư? Anh phải nói rõ hơn một chút...”

“David Martín chạy trốn ra nước ngoài trước chiến tranh,” tôi giải thích. “Vào đầu năm 1939, đến khi cuộc xung đột kết thúc, ông ấy trở lại, vượt qua Pyreness, và bị bắt ở Puigcerda vài ngày sau. Ông ấy bị giam trong tù cho đến năm 1941, đó là khoảng thời gian mà nhiều khả năng ông ấy đã bị giết.”

Isaac nhìn chằm chặp, không thể nào tin nổi.

“Ông phải tin lời cậu ấy, thưa trưởng lão,” Fermín đoan chắc. “Nguồn của chúng tôi là đáng tin.”

“Tôi có thể đảm bảo với cậu rằng David Martín đã ngồi trong chiếc ghế cậu đang ngồi, cậu Sempere ạ, và chúng tôi đã nói chuyện một lát.”

“Ông có chắc không, Isaac?”

“Tôi chưa bao giờ chắc điều gì hơn thế trong đời,” người quản thư đáp. “Tôi nhớ bởi vì khi đó tôi không gặp ông ấy đã nhiều năm. Ông ấy có vẻ hơi tệ và trông ốm yếu.”

“Ông còn nhớ ngày ông ấy đến không?”

“Nhớ rõ lắm. Đó là đêm cuối cùng của năm 1941. Đêm giao thừa. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông ấy.”

Fermín và tôi lạc vào trong những phép tính toán.

“Thế có nghĩa điều mà gã cai ngục ấy, Bebo, kể cho Brians, là đúng,” tôi nói. “Vào đêm Valls ra lệnh mang ông ấy đến tòa nhà cũ gần Guell Park để xử tử... Bebo kể rằng về sau anh ta nghe lỏm được là ở đó có một chuyện xảy ra, rằng trong nhà có người khác... Có lẽ ai đó đã ngăn cho Martín khỏi bị giết...” tôi phỏng đoán.

Isaac nghe những lời này với vẻ lo lắng.

“Các cậu đang nói gì thế? Ai muốn giết Martín?”

“Một câu chuyện dài,” Fermín nói. “Với hàng tấn những chú thích.”

“Ồ, tôi hy vọng ngày nào đó sẽ được nghe...”

“Ông có nghĩ lúc ấy đầu óc Martín bình thường không Isaac?” tôi hỏi.

Isaac nhún vai.

“Người ta không bao giờ hiểu được Martín... Con người đó có một linh hồn bị đọa đày. Khi ông ấy ra về tôi đã đề nghị tiễn ra đến tàu, nhưng ông ấy bảo có xe đợi ở ngoài.”

“Xe ư?”

“Một chiếc Mercedes-Benz, không kém. Thuộc về một người ông ấy gọi là Ông Chủ, và người, từ điều ông ấy nói, đang đợi ông ấy ngoài cửa trước. Nhưng khi tôi đi với ông ấy ra đó, chẳng có chiếc xe nào cả, cũng không có ông chủ, chẳng có gì sất...”

“Xin đừng hiểu lầm, thưa trưởng lão, nhưng do là vào đêm giao thừa, và với tinh thần lễ hội của dịp này, có lẽ nào do hơi quá chén, và tê liệt đi vì những bài hát Giáng sinh và hàm lượng đường cao ngất trong kẹo Jijona, nên ông tưởng tượng ra hết thảy chuyện này không?” Fermín hỏi.

“Nói về rượu chè, tôi chỉ làm một chút nước chanh sủi tăm, và thứ mạnh nhất tôi uống ở đây là một chai ôxy già,” Isaac liệt kê. Dường như ông chẳng mếch lòng.

“Xin thứ lỗi cho tôi vì đã nghi ngờ ông. Đó đơn thuần là vấn đề thủ tục thôi.”

“Tôi hiểu. Nhưng hãy tin tôi, khi tôi nói rằng trừ phi người đến vào tối hôm đó là ma, và tôi không nghĩ ông ấy là ma bởi một bên tai ông ấy chảy máu và tay ông ấy run lên vì sốt - và hơn nữa, ông ấy vét hết những viên đường trong tủ bếp của tôi - Martín lúc đó còn sống như tôi và các cậu đây.”

“Và ông ấy không nói đến đây làm gì ư, sau một thời gian dài như vậy?”

Isaac gật đầu.

“Ông ấy bảo đến đây để bỏ lại thứ gì đó cho tôi và rằng, khi có thể, ông ấy sẽ quay lại lấy. Hoặc là sẽ cử người khác đến...”

“Và ông ấy để lại thứ gì?”

“Một gói bọc giấy có dây buộc. Tôi không biết bên trong có gì.”

Tôi nuốt khó nhọc.

“Ông còn giữ không?”

8

Cái bọc, được lôi ra từ phía sau tủ, nằm trên bàn của Isaac. Khi ngón tay tôi phủi mặt giấy, lớp bụi mịn màng bốc lên thành một đám những hạt nhỏ bắt ánh sáng của ngọn đèn dầu Isaac đang cầm trên tay. Bên phải tôi, Fermín mở dao rọc giấy và đưa cho tôi. Ba chúng tôi nhìn nhau.

“Ý nguyện của Chúa sẽ được thực thi,” Fermín nói.

Tôi luồn con dao dưới sợi dây buộc và cắt. Với sự cẩn trọng hết mức tôi tháo lớp bọc cho đến khi thứ bên trong hiện ra. Đó là một bản thảo. Những trang giấy bám bẩn, đầy những vết sáp và máu. Trang đầu tiên là nhan đề bằng chữ viết tay trông như ma quỷ.

Trò chơi của thiên thần

David Martín

“Đây là cuốn sách ông ấy viết lúc bị cầm tù trong tòa tháp,” tôi lẩm bẩm, “Bebo hẳn đã cứu được.”

“Có gì đó bên dưới...” Fermín nói.

Một mẩu da thuộc chìa ra dưới bản thảo. Tôi kéo mạnh và lấy ra một phong bì. Nó được niêm phong bằng sáp đỏ, đóng tem hình thiên thần. Trên mặt trước phong bì có một chữ, được viết mực đỏ:

Daniel

Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc cánh tay tôi. Isaac, người đang chứng kiến cảnh tượng này với sự kinh ngạc xen lẫn khiếp đảm, lẻn ra khỏi phòng, Fermín theo sau.

“Daniel,” Fermín gọi khẽ. “Chúng tôi sẽ để cậu một mình cho cậu bình tĩnh mở thư và đọc trong sự riêng tư...”

Tôi nghe thấy tiếng chân chầm chậm của họ và đoạn đầu tiên của cuộc trò chuyện của họ.

“Nghe này, thưa trưởng lão, vì xúc động quá mà tôi quên nói với ông lúc nãy khi bước vào, tôi đã lỡ nghe lỏm được ông bảo đang tính chuyện nghỉ hưu và vị trí của ông sắp bị bỏ trống...”

“Đúng vậy. Tôi đã ở đây quá lâu rồi. Tại sao?”

“Ồ, ông thấy đấy, tôi biết là chúng ta chỉ vừa mới gặp nhau, quả là vậy, nhưng tôi quan tâm đến...”

Giọng nói của Isaac và Fermín tan biến vào cái mê cung vang vọng của Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. Chỉ còn lại một mình, tôi ngồi vào ghế của ông thủ thư và bỏ sáp niêm phong. Phong bì chứa một tờ giấy được gấp lại màu đất son. Tôi mở ra và bắt đầu đọc.

Barcelona, 31 tháng Mười hai 1941

Daniel thân mến,

Ta viết cho cháu những lời này với hy vọng và niềm tin rằng một ngày nào đó cháu sẽ phát hiện ra nơi đây, Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, một nơi đã thay đổi đời ta và ta cũng tin chắc rằng nó sẽ thay đổi cuộc đời của cháu. Cũng chính hy vọng này đã khiến ta tin rằng có lẽ lúc ấy, khi ta không còn ở đây nữa, ai đó sẽ kể cho cháu nghe về ta và tình bạn giữa ta và mẹ cháu. Ta biết rằng nếu có đọc được những lời này đầu cháu sẽ chất chứa những câu hỏi và hồ nghi. Cháu sẽ tìm được vài câu trả lời trong bản thảo này, ta đã cố thuật lại câu chuyện của ta như ta còn nhớ, biết rằng thời gian còn minh mẫn của ta chỉ đếm được từng ngày và ta thường chỉ nhớ được điều chưa bao giờ xảy ra.

Ta cũng biết rằng khi cháu nhận được bức thư này, thời gian sẽ bắt đầu xóa mờ đi dấu vết của những sự kiện ấy. Ta biết cháu sẽ ấp ủ những hoài nghi và rằng nếu cháu phát hiện ra sự thật về những ngày cuối đời của mẹ cháu thì cháu sẽ có chung với ta cơn phẫn nộ và lòng khát khao báo thù. Người ta bảo rằng điều khôn ngoan và đúng đắn là hãy tha thứ, nhưng ta biết ta sẽ không bao giờ làm như vậy được. Linh hồn ta đã bị nguyền rủa và không còn hy vọng được cứu rỗi. Ta biết ta sẽ dành từng hơi thở còn lại để cố tìm cách trả thù cho cái chết của Isabella. Nhưng đó là số mệnh của ta, không phải của cháu.

Mẹ cháu hẳn không mong muốn cuộc sống của cháu sẽ giống như ta, bằng bất cứ giá nào. Mẹ cháu hẳn sẽ ước mong cháu có một cuộc sống trọn vẹn, không thù ghét và oán giận. Vì cô ấy, ta cầu xin cháu đọc câu chuyện này và khi đọc xong, hãy hủy nó. Hãy quên đi mọi thứ cháu có thể đã nghe về một quá khứ không còn tồn tại nữa, hãy làm sạch con tim oán giận của cháu và hãy sống một cuộc đời mẹ cháu hằng ước mong mang lại cho cháu, luôn luôn nhìn về phía trước.

Và nếu một ngày, khi đang quỳ bên mộ cô ấy, cháu cảm thấy ngọn lửa căm hờn đang cố chiếm ngự cháu, cháu hãy nhớ rằng trong câu chuyện của ta, cũng như trong câu chuyện của cháu, có một thiên thần nắm giữ mọi câu trả lời.

Bạn của cháu, DAVID MARTÍN

Tôi đọc đi đọc lại những lời David Martín nhắn gửi cho tôi qua thời gian, những lời dường như thấm đẫm sự ăn năn và rồ dại, những lời mà tôi không hiểu trọn vẹn. Tôi cầm bức thư trên tay một lát nữa rồi cho lên ngọn đèn dầu và nhìn nó hóa thành lửa.

Tôi thấy Fermín và Isaac dưới chân mê cung, họ đang trò chuyện như những người bạn cũ. Khi thấy tôi tiếng họ lặng đi và nhìn tôi như chờ đợi.

“Dù bức thư có nói gì, thì cũng chỉ liên quan đến cậu mà thôi. Cậu không phải kể cho chúng tôi gì cả.”

Tôi gật đầu. Tiếng chuông nhà thờ vọng lại khe khẽ qua những bức tường. Isaac nhìn chúng tôi, đoạn xem đồng hồ.

“Này, chẳng phải hôm nay hai người phải đến lễ cưới sao?”

9

Cô dâu mặc đồ trắng, và dù chị không mang kim hoàn hay trang sức óng ánh, thì trong mắt chú rể chưa người phụ nữ nào, trong toàn bộ lịch sử, trông đẹp được như Bernarda trong ngày đầu tháng Hai đó, khi ánh mặt trời thắp sáng khoảng sân trước nhà thờ Santa Ana. Ông Gustavo Barceló - người chắc hẳn đã mua tất cả hoa có ở Barcelona, vì chúng tràn ngập lối vào nhà thờ - đã khóc như trẻ con và cha xứ, bạn của chú rể, đã làm chúng tôi ngạc nhiên bằng một bài giảng lung linh mà ngay đến cả Bea, con người vốn không ủy mị tí nào cũng phải rơi nước mắt.

Tôi suýt nữa đánh rơi nhẫn, nhưng tất cả đều được tha thứ khi cha xứ, sau khi làm xong các thủ tục, bảo Fermín hôn cô dâu. Đúng lúc ấy, tôi quay mặt đi giây lát và nghĩ mình đã thấy một dáng người ở phía cuối nhà thờ, một người lạ đang nhìn tôi và mỉm cười. Tôi không thể nói tại sao, nhưng lúc ấy tôi chắc chắn người lạ mặt đó không ai khác chính là Tù nhân của thiên đường. Nhưng khi tôi nhìn lần nữa, ông đã không còn ở đó. Đứng cạnh tôi, Fermín ôm chặt Bernarda và điểm một nụ hôn lên môi chị, làm dấy lên một màn tung hô do cha xứ chủ xướng.

Khi nhìn bạn mình hôn người phụ nữ mà anh ta yêu thương, tôi đã nghĩ rằng cái khoảnh khắc này, cái khoảnh khắc bị đánh cắp khỏi thời gian và khỏi Chúa, xứng đáng với tất cả những ngày tháng đớn đau đã mang chúng tôi đến nơi này và hằng hà những điều khác, không nghi ngờ gì nữa, đang chờ đón khi chúng tôi quay về cuộc sống của mình. Và rằng mọi thứ đều tươm tất và sạch sẽ và thuần khiết trong thế giới này, những gì đáng sống và đáng hít thở đều nằm trên những đôi môi đó, trong những bàn tay đó và trong ánh mắt cặp uyên ương may mắn, những người mà tôi biết rằng sẽ sống bên nhau đến trọn cuộc đời.