← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV PHÂN TÍCH TÂM LÍ- Tâm (Năng tri, Năng lự)- Tính (tình dục)

Tuân Tử là Nho gia đầu tiên đời Tiên Tần – cũng có thể là triết gia duy nhất đời đó – đã đặc biệt lưu ý đến tâm lí con người và đã nghiên cứu khá tinh tế các hiện tượng tâm lí.

Mục đích nghiên cứu tâm lí của Tuân Tử có lẽ là để xiển minh tính ác, trung khu toàn bộ học thuyết của ông – chứ không phải chỉ vì tâm lí học. Cho nên lập luận của ông đôi khi có tính cách chủ quan, mang nhiều sắc thái của một “khoa học giá trị” (Đạo đức học, lí tắc học) hơn là của một “khoa học sự thực”.

Tuy nhiên, phải nhận rằng phép phân tích những tác dụng tâm lí của ông có tính cách rất tiến bộ và mới mẻ đối với học giới đương thời.

TÍNH VÀ TÂM

Phân tích các thành phần tâm lí và định nghĩa các tác dụng tâm lí, Tuân Tử nói:

“Sinh ra là vốn thế, gọi là TÍNH. Bản năng (bản chất sinh lí) mà điều hoà lành mạnh thì cảm ứng với ngoại giới đúng, chẳng cần học mà biết, chẳng cần dạy mà hay, đó cũng gọi là tính. Tính phát động thành ưa, ghét, mừng, giận, thương, vui, thì gọi là TÌNH. Tình như thế mà tâm lựa chọn nên chăng thì là LỰ (suy nghĩ, cân nhắc). Tâm suy nghĩ cân nhắc mà bản năng nhờ đó có tác dụng khắc chế thì tác dụng gọi là NGUỴ. Tâm suy nghĩ cân nhắc lâu ngày, bản năng khắc chế thành thói quen mà tới được cảnh giới “hoá tính” thì cái công phu tu vi đó cũng gọi là NGUỴ (…) Cái ở nơi người nhờ đó mà người ta hiểu biết gọi là TRI (…) là bản năng tri giác. Tri tiếp xúc với vật gọi là TRÍ (Tri thức). Sở năng của trí nơi con người gọi là BẢN NĂNG. Bản năng tác động hợp với điều tâm lựa chọn gọi là TÀI NĂNG” (Sinh chi sở dĩ nhiên giả vị chi tính, tính chi hoà sở sinh, tinh hợp cảm ứng, bất sự nhi tự nhiên, vị chi tính. Tính chi hiếu ố, hỉ nộ, ai lạc vị chi tình. Tình nhiên nhi tâm vi chi trạch vị chi lự. Tâm lự nhi năng vi chi động vị chi nguỵ. Lự tích yên, năng tập yên, nhi hậu thành vị chi nguỵ (…) Sở dĩ tri chi tại nhân giả vị chi tri. Tri hữu sở hợp vị chi trí. Trí sở dĩ năng chi tại nhân giả vị chi năng. Năng hữu sở hợp vị chi năng[65] - Chính danh).

Như vậy, trong tâm lí học của Tuân Tử, hai yếu tố quan trọng hơn cả là TÍNH và TÂM.

TÍNH: Một số học giả Trung Quốc hữu danh như Phương Hiếu Bác (tác giả Tuân Tử Tuyển Chú), Đường Quân Nghị (tác giả Nguyên Tính) cho rằng chữ TÍNH của Tuân Tử có hai nghĩa:

Một trỏ cái “bản chất sinh lí”, cái mà Mạnh Tử gọi là “thực sắc chi tính”, cái tính đói thèm ăn, trai gái thèm thương yêu, gần gụi nhau, cái tính này, người và cầm thú đều có như nhau:

“Nay, tính người ta, đói thì muốn no, lạnh thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ” (Kim nhân chi tính, cơ nhi dục thực[66], hàn nhi dục noãn, lao nhi dục hưu[67] - Tính ác).

Một trỏ cái “bản năng” sáng của mắt, thính của tai:

“Tính người ta là mắt nhìn được, tai nghe được” (Kim nhân chi tính, mục khả dĩ kiến, nhĩ khả dĩ thính[68] - Tính ác).

Hiểu chữ tính của Tuân Tử như vậy, không phải là vô lí, hiểu như vậy là có căn cứ, nhưng tách bạch như thế, e quá tế toái, chi li, tưởng chỉ cần để ý một điều: Tính, theo Tuân Tử, là “cái trời sinh ra đã có, vốn thế” (Tính giả, thiên chi tựu dã[69] - Tính ác), là cái “Không thể học, cũng không thể làm ra được” (Bất khả học, bất khả sự, nhi tại nhân giả, vị chi tính[70] - Tính ác). Và như sẽ nói ở dưới, cái tính đó nhất thiết ác, thuần thị ác, tính ông thánh cũng ác như tính người phàm.

Trạng thái TĨNH của tính thế nào, không thấy Tuân Tử đề cập, (sách Trung Dung có nói rõ trạng thái này), ông chỉ nói đến trạng thái ĐỘNG của tính, đến phát tác của nó: Tính phát động thành TÌNH: ưa, ghét, ghét, mừng, giận, thương, vui. Tình là phản ứng chủ quan của tính, là “biểu hiện cụ thể của tính” là “thể chất của tính” (Tình giả, tính chi chất dã[71] – Chính danh). Cho nên, TÍNH và TÌNH tuy được định nghĩa khác nhau, nhưng trong sách Tuân Tử, nhiều chỗ, hai chữ tính, tình được dùng dính liền nhau, cơ hồ như đồng nghĩa vậy. Tỉ dụ: “…Đói thì muốn no, lạnh thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ, đó là TÍNH TÌNH con người ta” (…thử nhân chi tính tình dã – Tính ác), “Buông thả tính tình mà không đủ học vấn (…), tính tình phải nhẫn nại, rồi sau mới có thể sửa mình” (Túng tính tình nhi bất túc học vấn[72] (…), hành nhẫn tính tình, nhiên hậu năng tu[73] – Nho hiệu).

Ngoài ưa, ghét, mừng, giận, thương, vui, tình còn một tác dụng cực kì quan trọng và được nói đến nhiều trong thiên Chính danh và Tính Ác, đó là DỤC, là lòng ham muốn:

“Dục là cái ứng dụng của tình” (Dục giả, tình chi ứng dã[74] – Chính danh.

“Lòng dục không thể bỏ được, nó là cái biểu hiện cụ thể của tính” (Dục bất khả khứ, tính chi cụ dã[75] – Chính danh).

Thực ra, trong ngữ vựng của Tuân Tử, Dục chính là đồng nghĩa với tính. Vì tính cách quan trọng của nó, DỤC sẽ được chúng tôi nói đến nhiều hơn trong một chương riêng ở dưới (Chương 6).

TÂM: Tâm là quan năng của tri, của sự hiểu biết, là ý thức. Hiểu biết là tác dụng tự nhiên của tâm, cũng “không thể học, cũng không thể làm ra được”.

“Tâm sinh ra là có biết” (Tâm sinh nhi hữu tri[76] – Giải tế). Ngoài tri ra, tâm còn có những tác dụng khác là: Lự (suy tính, cân nhắc), Trạch (lựa chọn) và Năng (tác động thực hiện và hợp với điều tâm lựa chọn). Và kết quả của các tác dụng tri, lự, trạch, năng, này là NGUỴ[77].

Ghi thêm rằng: Chữ TÂM thường cũng được Tuân Tử dùng để chỉ chung tất cả các tác dụng tâm lí, tỉ dụ như trong mấy câu:

“Cho nên tình người ta là miệng thích vị (ngon) (…) tâm thích lợi” (Cố nhân chi tình, khẩu hiếu vị (…) tâm hiếu lợi[78] – Vương Bá).

“Thiên tử là người có cái thế rất lớn mà thân rất nhàn, có cái TÂM rất vui, hoà mà chí không bị cái gì khuất phục” (Thiên tử giả thế chí trọng nhi hình chí dật, tâm chí du nhi chí vô sở khuất[79] – Chính luận).

Nhưng tác dụng quan trọng nhất của tâm vẫn là tri. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một chương bàn riêng về Tri Thức (Chương 11).

Tuân Tử phân tích tâm lí con người thật không khác các nhà tâm lí học ngày nay bao nhiêu. Các nhà này đại khái cũng nhận rằng tâm lí có ba phần: tình cảm, lí trí (tri) và ý chí (năng).

Ba đức: Nhân, Trí, Dũng của Khổng Tử, hoặc Bi, Trí, Dũng của Phật cũng thuộc về ba phần đó của tâm lí. Luyện Tình cảm, Lí trí và Nghị lực thời nào cũng là ba việc chính của sự tu dưỡng, sự đào tạo con người.

[65]生之所以然者謂之性,性之和所生,精合感應,不事而自然,謂之性。性之好惡,喜怒,哀樂謂之情,情然而心爲之擇謂之慮。心慮而能爲之動謂之僞。慮積焉,能習焉,而後成謂之僞 (…) 所以知之在人者謂之知。 知有所合謂之智。智所以能之在人者謂之能。能有所合謂之能。

[66] Thực 食: nhiều bản trên mạng chép là: 飽 (bão). (Goldfish).

[67] 今人之性,饑而慾食,寒而欲暖,勞而欲休。

[68] 今人之性,目可以見,耳可以聽。

[69] 性者,天之就也。

[70] 不可學,不可事,而在人者,謂之性。

[71] 情者,性之質也。

[72] Câu này trong sách không chép nguyên văn chữ Hán. Nhiều bản trên mạng chép là: 縱性情而不足問學 (Túng tính tình nhi bất túc vấn học). (Goldfish).

[73] 行忍性情,然後能修。

[74] 欲者, 情之應也。

[75] 欲不可去,性之具也。

[76] 心生而有知。

[77] Nguỵ: chữ NGUỴ này thường còn dùng để trỏ cái “người làm ra” tức Lễ, Nghĩa.

[78] 故人之情,口好味 (…)心好利。

[79] 天子者勢至重而形至佚,心至愉而志無所屈。