CHƯƠNG V TÍNH ÁC
Tuân Tử chống lại Mạnh Tử
Tiêu chuẩn phân biệt thiện ác
Luận chứng về tính ác
“Hoá tính khởi nguỵ”
Đối chiếu hai thuyết tính thiện của Mạnh và tính ác của Tuân
Hai thuyết tính thiện và tính ác đó bổ túc cho nhau
Ảnh hưởng của hai học thuyết
Khuyết điểm của hai thuyết
Người Trung Hoa vốn thực tế, triết học Trung Hoa vụ thực tiễn. Hầu hết các triết gia Trung Hoa đều coi việc đào tạo con người là cực trọng. Nhất là đối với đạo Nho thì hạnh phúc của cá nhân, gia đình, trật tự quốc gia, xã hội đều xem như tuỳ thuộc vấn đề giáo dục con người. Một khi đã thấy rằng bình thiên hạ, trị quốc, tề gia phải bắt đầu bằng tu thân, từ việc xây dựng con người, thì tất nhiên không thể không xét tới cái tính của con người được. Tất phải rõ tính con người rồi sau mới trù định được chính xác những phương pháp đào tạo con người cho thích đáng, hữu hiệu. Cho nên vấn đề nhân tính là một vấn đề rất quan trọng của triết học Trung Hoa mà riêng đối với Nho gia thì đó là một vấn đề căn bản.
Thời Tuân Tử, ở Trung Hoa, ít nhất đã có bốn thuyết về tính người:
- Thuyết “có tính thiện, có tính bất thiện” (hình như của Thế Thạc).
- Thuyết “tính có thể khiến trở thành thiện hoặc bất thiện” (không biết của ai).
- Thuyết “tính không thiện cũng không bất thiện” (của Cáo Tử).
- Thuyết “tính thiện” (của Mạnh Tử).
Bốn thuyết này được chép trong sách Mạnh Tử (thiên Cáo Tử).
TUÂN TỬ CHỐNG LẠI MẠNH TỬ
Tuân Tử chống lại Mạnh Tử, lập thêm thuyết TÍNH ÁC.
Mạnh Tử bảo: Tính người vốn thiện, nhân, nghĩa, lễ, trí là bốn đức mà đầu mối của chúng có sẵn nơi người khi mới sinh ra:
“Lòng trắc ẩn ai cũng có; lòng tu ố, ai cũng có; lòng cung kính, ai cũng có; lòng thị phi ai cũng có”[80] (Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi, tu ố chi tâm, nhân giai hữu chi, cung kính chi tâm, nhân giai hữu chi, thị phi chi tâm, nhân giai hữu chi[81] – Mạnh Tử, Cáo Tử).
“Lòng trắc ẩn là đầu mối của đức nhân; lòng tu ố là đầu mối của đức nghĩa; lòng từ nhượng là đầu mối của đức lễ, lòng biết phải trái là đầu mối của đức trí” (Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã; tu ố chi tâm, nghĩa chi đoan dã; từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã; thị phi chi tâm, trí chi đoan giả dã[82] – Mạnh Tử, Công Tôn Sửu). Mà “người ta có bốn đầu mối ấy cũng như có bốn chân tay” (Nhân chi hữu thị tứ đoan dã, do kì hữu tứ thể dã[83] – N.t). Nghĩa là: “sinh ra, người ta vốn đã sẵn có bốn đầu mối ấy chứ không phải luyện tập mà sau mới có” (Nhân, nghĩa, lễ, trí, phi do ngoại thước ngã dã, ngã cố hữu chi dã[84] – Mạnh Tử, Cáo Tử).
“Ta cầu nó thì được nó” nhưng nếu ta “bỏ nó thì nó mất” (Cầu tắc đắc chi, xả tắc thất chi – Mạnh Tử, Cáo Tử).
Tuân Tử bác thuyết này của Mạnh. Theo ông thì chính lòng hiếu lợi, lòng đố kị, lòng dục mới là cái “bản thuỷ tài phác” – cái tài chất thuần phác nguyên sơ, cái tính con người, còn nhân, nghĩa, lễ, trí thì do thánh nhân, nghĩa là người đặt ra, chứ không phải do trời sinh, vậy là “NGUỴ”, chứ không phải tự nhiên, là phạm trù hậu nhiên, chứ không phải phạm trù tiên thiên. Và ông chê Mạnh Tử là không phân biệt được thế nào là TÍNH (tự nhiên), thế nào là NGUỴ (nhân vi). Ông viết:
“Mạnh Tử bảo: Cái người ta học (tức nhân, nghĩa…) là tính, tính đó thiện. Tôi bảo: Không phải, nói vậy không hiểu tính con người, không phân biệt tính và nguỵ. Tính là cái trời sinh ra đã có, không thể học, cũng không thể làm ra được; lễ nghĩa là cái thánh nhân đặt ra, người ta học rồi mới biết, làm rồi mới thành; cái gì không học, không làm mà đã có ở lòng người rồi, cái đó mới là tính; cái gì ở người học rồi mới biết, làm rồi mới thành, thì gọi là nguỵ. Đó, tính và nguỵ khác nhau như vậy” (Mạnh Tử viết: nhân chi học giả, kì tính thiện. Viết: thị bất nhiên, thị bất cập tri nhân chi tính, nhi bất sát hồ nhân chi tính nguỵ chi phân giả dã. Phàm tính giả, thiên chi tựu dã, bất khả học, bất khả sự; lễ nghĩa giả, thánh nhân chi sở sinh dã, nhân chi sở học nhi năng, sở sự nhi thành dã. Bất khả học, bất khả sự, nhi tại nhân giả vị chi tính; khả học nhi năng, khả sự nhi thành, chi tại nhân giả, vị chi nguỵ; thị tính nguỵ chi phân dã[85] – Tính ác).
Đoạn này, chúng ta thấy Tuân hiểu lầm ý Mạnh. Mạnh bảo: tính gồm bốn đầu mối của nhân, nghĩa, lễ, trí là lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi, bốn đầu mối ấy chỉ manh nha ở trong lòng mọi người thôi, lại dễ mất nữa, không khéo giữ gìn, nuôi nấng thì thui chột, đâu đã hoàn thành rồi, nó cũng không phải “học rồi mới biết”, “làm rồi mới thành”, vậy nó không phải là “nguỵ”, theo cái nghĩa của Tuân.
Trong thiên Tính ác, Tuân Tử còn viết: “Tính người ta làm mắt nhìn được, tai nghe được. Cái sáng cho mắt thấy không thể lìa mắt, cái thính của tai nghe không thể lìa tai. Mắt sáng, tai thính không phải do học mà sáng mà thính, điều đó rõ ràng. Mạnh Tử bảo: “người ta vốn tính thiện, đánh mất hẳn tính mới thành ra ác”. Tôi bảo: nếu thế thì sai! Tính người sinh ra mà lìa cái “tài chất nguyên sơ thuần phát” (tức cái tính) thì tất mất nó rồi” (Kim nhân chi tính, mục khả dĩ kiến, nhĩ khả dĩ thính. Phù khả dĩ chi minh bất li mục, khả dĩ thính chi thông bất li nhĩ, mục minh nhi nhĩ thông bất khả học, minh hĩ. Mạnh Tử viết: “kim nhân chi tính thiện, tương giai thất táng kì tính dã”. Viết: nhược thị tắc quá hĩ. Kim nhân chi tính, sinh nhi li kì phác, li kì tư, tất thất nhi táng chi[86] – Tính ác).
Ý Tuân Tử muốn nói: nếu thiện là tính của người thì một khi thiện mất, tính cũng mất, còn đâu nữa mà thành cái gì? Tuân bẻ Mạnh như vậy e cũng chưa thật ổn: “Tính người ta là mắt nhìn được”, là sáng, đánh mất cái sáng thì người thành mù, điều đó rõ ràng. Vậy tại sao lại không nói được như Mạnh Tử: Tính người vốn thiện, đánh mất cái thiện thì người thành ác? Và hình như Tuân cũng hiểu lầm ý của Mạnh nữa: Mạnh không nói bốn đầu mối của nhân, nghĩa, lễ, trí là tất cả tính người mà chỉ bảo bốn đầu mối đó là cái đặc biệt của tính người, khác với tính loài vật (không có bốn đầu mối đó); bốn đầu mối đó, ở tính người “nó giống như ngọn lửa mới nhen nhúm, như mạch nước nguồn mới chảy ra, khéo khuếch sung chúng thì đủ để giữ được bốn bể, không khéo khuếch sung chúng thì không đủ để thờ cha mẹ” (nhược hoả chi thuỷ nhiên, toàn chi thuỷ đạt, cẩu năng sung chi, túc dĩ bảo tứ hải, cẩu bất sung chi, bất túc dĩ sự phụ mẫu[87] – Mạnh Tử, Công Tôn Sửu). “Cầu chúng thì chúng còn, bỏ chúng thì chúng mất” (Cầu tắc đắc chi, xả tắc thất chi – Tính ác) Mạnh bảo bốn đầu mối của tính có thể mất, chứ không bảo cái tínhmất.
Trong một đoạn sau, chúng tôi sẽ đối chiếu các quan niệm về tâm, về tính của Mạnh và Tuân rồi xét đến những điểm dị đồng, cùng là giá trị, hiệu dụng về hai thuyết về tính có vẻ đối nghịch nhau này.
TIÊU CHUẨN PHÂN BIỆT THIỆN ÁC
Tuân Tử chủ trương tính ác, trái với Mạnh Tử chủ trương tính thiện. Vậy trước hết, thế nào là thiện? thế nào là ác?
Thiện và ác là hai danh từ biểu thị hai giá trị đối nghịch. Vậy thì phải theo tiêu chuẩn nào để phân định hai giá trị đó? Tuân định nghĩa thiện, ác như thế này:
“Xưa nay, thiên hạ gọi thiện là những gì hợp với sự chính lí bình trị; gọi ác là những gì hợp với sự thiên hiểm bội loạn. Đó là điểm phân biệt thiện và ác!” (Phàm cổ kim thiên hạ chi sở vị thiện giả, chính lí bình trị dã, sở vị ác giả, thiên hiểm bội loạn dã. Thị thiện ác chi phân dã[88] – Tính ác).
Thật rõ ràng, Tuân Tử đồng hoá thiện, ác với trị, loạn: cái gì hợp với và đưa tới nền bình trị, cái đó là thiện, trái lại, cái gì hợp với và đưa tới tình trạng rối loạn, cái đó là ác. Bình trị theo Tuân Tử, là tiêu chuẩn phân biệt thiện, ác[89].
Mà theo Tuân Tử cái gì hợp với lễ, nghĩa mà đưa tới bình trị, cái gì trái với lễ, nghĩa thì đưa tới rối loạn:
“Lễ nghĩa chi vị trị, phi lễ nghĩa chi vị loạn dã”[90] - Bất cẩu). Điều đó cũng đúng nữa. Cho nên thiện tức cũng hợp với lễ, nghĩa; ác tức cũng là trái với lễ, nghĩa.
Việc nào cũng có động cơ và kết quả. Thường thì động cơ thiện thì kết quả cũng thiện, nhưng không nhất thiết luôn luôn như vậy: có khi động cơ thiện mà kết quả lại ác, có khi, ngược lại, động cơ ác mà kết quả lại thiện. Đánh giá hành vi, căn cứ vào động cơ hay kết quả là tuỳ ý từng người. Tuân Tử lấy bình trị làm tiêu chuẩn phân biệt thiện ác. Bình trị có thể hiểu như động cơ là mưu đồ bình trị mà cũng có thể hiểu như kết quả là trạng thái bình trị. Trong thiên Lễ luận, Tuân Tử nói:
“Người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm tòi, đòi hỏi; tìm tòi, đòi hỏi mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng”. (Nhân sinh nhi hữu dục, dục nhi bất đắc, tắc bất năng vô cầu, cầu nhi vô độ lượng, phân giới, tắc bất năng bất tranh. Tranh tắc loạn, loạn tắc cùng)[91].
Theo ý câu này thì trị, loạn Tuân nói ở đây trỏ tình trạng trị, loạn (là kết quả) đúng hơn là mưu đồ trị, loạn (động cơ). Cho nên người ta có lí khi nói rằng Tuân Tử xét giá trị hành vi theo kết quả, chứ không theo động cơ. Và, như thế, vấn đề này, ông gần Mặc gia hơn Nho gia (Học thuyết Mặc đặt trên cơ sở Công và Lợi); Nho gia thì “chính kì nghị, bất mưu kì lợi, minh kì đạo, bất kế kì công” (Đổng Trọng Thư, Xuân Thu Phồn Lộ), nghĩa là: vì muốn chính cái nghĩa hơn là vì mưu lợi, vì muốn làm sáng cái đạo hơn là tính đến hiệu quả[92].
LUẬN CHỨNG VỀ TÍNH ÁC
Chủ trương tính người vốn ác, Tuân Tử đưa ra hai luận chứng, một trực tiếp, một gián tiếp:
a) Luận chứng trực tiếp: Tính người vốn ác vì tính người muốn nhiều và vốn luôn luôn có khuynh hướng đi quá trớn. Tuân Tử nói:
“Tình người ta là muốn nhiều chứ không muốn ít, cho nên thưởng thì cho (thêm) giàu có, mà phạt thì rút bớt đi” (Nhân chi tình vi dục đa nhi bất dục quả, cố thưởng dĩ phú hậu nhi phạt dĩ sái tổn[93] – Chính luận). Và:
“Tình người ta, ăn muốn có thịt thà, mặc muốn có đồ thêu, đi muốn có xe ngựa, lại muốn có thừa tiền của, súc tích làm giàu. Vậy là hết đời, trọn kiếp vẫn không biết đủ” (Nhân chi tình, thực dục hữu sô hoạn, y dục hữu văn tú, hành dục hữu dư mã, hựu dục phù dư tài súc tích chi phú dã, nhiên nhi cùng niên luỹ thế bất tri túc[94] - Vinh nhục[95]).
Trong thiên Tính ác, Tuân Tử nhấn mạnh vào cái khuynh hướng luôn luôn muốn quá trớn của lòng dục như sau:
“Tính con người sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có, sinh ra là đố kị, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc mà lòng trung tín không có; sinh ra là có lòng muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đóthì thành ra dâm loạn mà lễ, nghĩa, văn lí không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận theo cái tình của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức quyền lợi của nhau), làm loạn cái lí mà mắc cái lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để cải hoá (cái tính) đó đi, có lễ, nghĩa để dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lí mà thành ra trị. Xét vậy, thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, nó mà hoá thiện được là do công của người ta vậy”. (Kim nhân chi tính, sinh nhi hiếu lợi yên, thuận thị cố tranh đoạt sanh nhi từ nhượng[96] vong yên, sinh nhi hữu tật ố yên, thuận thị cố tàn tặc sinh nhi trung tín vong yên, sinh nhi hữu nhĩ mục chi dục, hữu hiếu thanh sắc yên, thuận thị cố dâm loạn sinh nhi lễ nghĩa, văn lí vong yên. Nhiên tắc tòng nhân chi tính, thuận nhân chi tình, tật xuất vu tranh đoạt, hợp vu phạm phận, loạn lí nhi qui vu bạo. Cố tất tương hữu sư pháp chi hoá, lễ nghĩa chi đạo, nhiên hậu xuất ư từ nhượng, hợp ư văn lí nhi qui ư trị. Dụng thử quan chi, nhiên tắc nhân chi tính ác, minh hĩ, kì thiện giả nguỵ dã[97] – Tính ác)[98].
Mấy chữ “thuận theo cái tính, thuận theo cái tình” được nhắc đi, nhắc lại là có ý nhấn mạnh vào cái khuynh hướng đi quá trớn của cái lòng muốn nhiều, “trọn kiếp vẫn không biết đủ” ấy là mầm móng của mọi hoạ hại. Ai cũng muốn nhiều, cái muốn của mọi người lại giống nhau, ai cũng muốn cùng một thứ mà vật dụng thì hữu hạn, nếu buông thả tính tình vốn ưa đi quá trớn thì tất lâm vào tình trạng cung chẳng đủ cầu, sinh ra tương tranh, tương đoạt mà dẫn tới cảnh rối loạn, khốn cùng. Tiêu chuẩn phân định thiện, ác của Tuân Tử là tiêu chuẩn công lợi: cái gì đưa tới bình trị là thiện, cái gì đưa tới rối loạn là ác, cho nên ông bảo tính người vốn muốn nhiều và vốn ưa đi quá trớn là ác.
b) Luận chứng gián tiếp
Tuân Tử còn đưa ra luận chứng sau đây, dựa vào một nhận xét thực tiễn, được coi như một nguyên tắc tâm lí: Đại phàm cái gì sẵn có ở nơi mình thì không cần tìm kiếm ở bên ngoài, ngược lại, cái gì không có sẵn ở nơi mình thì mới cần tìm kiếm ở bên ngoài. Ông nói:
“Người ta sở dĩ muốn làm thiện, là vì tính người ta vốn ác, bạc thì muốn hậu, xấu thì muốn tốt, hẹp thì muốn rộng, nghèo thì muốn giàu, hèn thì muốn sang: nếu trong không có, tất tìm ở ngoài. Cho nên giàu thì không mong tiền, sang thì không mong quyền thế: nếu trong sẵn có, tất chẳng tìm ở ngoài. Xét vậy thì người ta muốn làm thiện là vì tính ác. Nay, tính người ta vốn không có lễ nghĩa, cho nên mới cố học, cầu cho có… tính người ta vốn không biết lễ nghĩa, cho nên mới suy nghĩ, cầu cho biết” (Phàm nhân chi dục vi thiện giả, vi tính ác dã. Phù bạc nguyện hậu, ác nguyện mĩ, hiệp nguyện quảng, bần nguyện phú, tiện nguyện quí: cẩu vô chi trung giả, tất cầu ư ngoại. Cố phú nhi bất nguyện tài, quí nhi bất nguyện thế: cẩu hữu chi trung giả, tất bất cập ư ngoại. Dụng thử quan chi, nhân chi dục thiện giả, vị tính ác giả. Kim nhân chi tính, cố vô lễ nghĩa cố cường học nhi cầu hữu chi dã, tính bất tri lễ nghĩa, cố tư lự nhi cầu tri chi dã[99] – Tính ác). Luận chứng này gọi là gián tiếp (hoặc phản diện) vì nó được dùng không phải để chứng minh thẳng rằng tính người ta ác mà để chứng minh rằng tính người ta không thể thiện.
Nguyên tắc được coi là như căn bản mà Tuân Tử dựa vào để lập luận như trên, không khỏi gây thắc mắc. Trong thực tế, quả thật người nghèo có mong giàu, kẻ hèn có mong sang... nhưng cũng thiếu gì kẻ tiền như nước mà vẫn đầu tắt mặt tối, nhặt nhạnh từng đồng, để giàu hơn nữa? Thiếu gì kẻ mũ cao áo dài mà vẫn khom lưng uốn gối, “sang” rồi lại muốn “sang” hơn. Vậy thì “nếu trong không có, tất tìm ở ngoài”, điều đó, xét chung có đúng, nhưng, ngược lại, “trong sẵn có” không nhất định “tất chẳng tìm ở ngoài”. Cho nên sự kiện “muốn làm thiện” không nhất định là bằng cứ đủ vững để vịn vào mà cho rằng tính vốn ác. Vả lại, dù đời sống xã hội có sa đoạ, vẫn có những trường hợp “an bần, lạc đạo”, sống tự tại với cơm giỏ nước bầu. Vậy thì “trong không có” cũng không nhất thiết “tất tìm ở ngoài”, tính dù ác, không nhất thiết tất muốn làm thiện. Cho nên cái việc “muốn làm thiện” không nhất thiết là bằng cứ đủ vững để vịn vào mà kết luận rằng tính vốn ác.
Nhưng nỗi thắc mắc này, nếu đem cật vấn Tuân Tử, Tuân Tử sẽ không thừa nhận. Như trên kia đã nói, Tuân Tử vốn chủ trương rằng “tính người là muốn nhiều”, lòng tham không có đáy: có một lại muốn mười, không bao giờ người ta “tri túc” cả. Kẻ giàu vẫn muốn giàu thêm là vì họ tự thấy giàu thế chưa đủ, họ vẫn thấy nghèo. Kẻ sang cũng thế. Vậy thì cái sự thực “giàu muốn giàu thêm, sang vẫn muốn sang hơn” không phủ nhận giá trị chính xác của nguyên tắc “trong sẵn có, tất chẳng tìm ở ngoài”. Còn như “cơm giỏ, nước bầu” mà vẫn vui, như trường hợp thầy Nhan Hồi, cao túc của Khổng Tử, thì theo Tuân Tử, đó không phải là “thuận theo tính tình” người ta, mà niềm vui đó chính phát sinh từ công phu “khởi nguỵ hoá tính” (dùng chữ của Tuân Tử) của thánh nhân.
Tóm lại, thuyết Tính ác của Tuân Tử dựng trên định đề “tính người là muốn nhiều” nên ông cực lực bác thuyết “tính người là muốn ít” của Tống Tử[100] (coi thiên Phi thập nhị Tử), nhưng định đề đó không luôn luôn đúng, nên thuyết Tính ác của ông cũng không thật vững.
“HOÁ TÍNH KHỞI NGUỴ”
a) Phân biệt giữa tính và nguỵ
Trong tâm lí học của Tuân Tử, “TÍNH” và “NGUỴ” đối lập với nhau:
TÍNH là “cái trời sinh ra đã có”, vốn thế, không cần học cũng “không thể làm ra được” (Bất khả học, bất khả sự, nhi tại nhân giả, vị chi tính[101] – Tính ác).
NGUỴ, trái lại, là “cái ở người, học rồi rồi mới biết, làm rồi mới thành” (Khả học nhi năng, khả sự nhi thành chi tại nhân giả, vị chi nguỵ[102] - Tính ác).
TÍNH là “cái sinh ra tự nhiên như vậy, chẳng phải đợi làm gì mà sau mới như vậy” (Cảm nhi tự nhiên, bất đãi sử nhi hậu sinh chi giả (tính) dã[103] – Tính ác).
NGUỴ là “cái sinh ra tự nhiên không được như vậy, tất phải đợi làm gì mà sau mới thành như vậy” (Cảm nhi bất năng nhiên, tất thả đãi sự nhi hậu nhiên giả, vị chi nguỵ[104] - Tính ác).
Giữa TÍNH và NGUỴ, còn có một điểm khác nhau thật quan trọng nữa:
TÍNH thì ai cũng như ai, đều ác cả: tính thánh nhân cũng ác như người thường.
“Cho nên cái chỗ thánh nhân cũng như mọi người, chẳng hơn mọi người ấy là cái tính” (Cố thánh nhân chi sở dĩ đồng ư chúng, kì bất dị ư chúng giả, tính giả[105] - Tính ác)
“Phàm là tính người thì vua Nhiêu, vua Thuấn, hay bạo Kiệt, đạo Chích cũng tính ấy, quân tử hay tiểu nhân, cũng tính ấy” (Phàm nhân chi tính giả, Nghiêu, Thuấn chi dữ Kiệt, Chích, kì tính nhất dã, quân tử chi dữ tiểu nhân, kì tính nhất dã[106] – Tính ác).
Nhưng cái tính ác chung cho tất cả mọi người ấy lại có thể CẢI HOÁ ĐƯỢC: “Tính người không thể làm ra, nhưng mà có thể cải hoá” (Tính dã giả, ngô sở bất năng vi dã, nhiên nhi khả hoá dã[107] – Nho hiệu).
Vì tính có thể cải hoá cho nên “vua Nghiêu, vua Vũ còn thì thiên hạ theo mà trị, vua Kiệt, vua Trụ còn thì thiên hạ theo mà loạn” (Nghiêu Vũ tồn tắc thiên hạ tòng nhi tri, Kiệt Trụ tồn tắc thiên hạ tòng nhi loạn[108] – Vinh nhục).
NGUỴ thì khác với tính, không ai cũng như ai: Nguỵ là kết quả của tri, lự và trạch, năng của mỗi người. Tri, lự, trạch, năng mỗi người mỗi khác, cho nên nguỵ ở mỗi người cũng mỗi khác:
“Thánh nhân sở dĩ khác mọi người, hơn mọi người là do cái nguỵ” (Thánh nhân chi sở dĩ nhi quá chúng giả, nguỵ dã[109] – Tính ác).
Tóm lại, TÍNH là cái thiên sinh, NGUỴ là cái nhân thành.
TÍNH vốn ác mà có thể cải hoá.
NGUỴ hiểu như lễ, nghĩa, phép tắc do thánh nhân đặt ra thì tận thiện (mặc dù cũng có cái nguỵ có thể không tận thiện).
b) Do lai của thiện
Tuân Tử khẳng định rằng tính người vốn ác, nhưng đồng thời cũng nhận rằng câu cổ ngữ: “Người ngoài đường (người dân thường) cũng có thể thành vua Vũ (bậc thánh nhân)” (Đồ chi nhân khả dĩ vi Vũ.[110] – Tính ác) là đúng: ai cũng có thể thành thánh nhân. Và theo ông, sở dĩ con người trở nên thiện, thành thánh nhân được, là NHỜ CÓ TRI VÀ NĂNG, nghĩa là có lí trí để biết được điều hay, lẽ phải và có ý chí để tự chế mà theo được điều hay, lẽ phải[111].
“Người ngoài đường (người dân thường) có thể thành vua Vũ được nghĩa làm sao? – Thưa: câu ấy ý nói rằng vua Vũ thành được vua Vũ là vì đã làm điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay. Thế nghĩa là điều nhân, nghĩa, phép thảng ngay có cái lẽ hiểu được, giữ được, mà người ngoài đường đều có cái tài chất để hiểu được điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay. Vậy thì họ có thể thành vua Vũ là điều rõ rệt (…) Cái tài chất có thể hiểu, có thể làm, không người ngoài đường nào không có, là điều rõ ràng” (“Đồ chi nhân khả dĩ vi Vũ” hạt vị dã? Viết: phàm Vũ chi sở dĩ vi Vũ giả, dĩ kì vi nhân nghĩa, pháp chính dã. Nhiên tắc nhân nghĩa, pháp chính hữu khả tri, khả năng chi lí, nhiên nhi đồ chi nhân dã giai hữu khả dĩ tri nhân nghĩa, pháp chính chi chất, giai hữu khả dĩ năng nhân nghĩa, pháp chính chi cụ, nhiên tắc kì khả dĩ vi Vũ minh hĩ.[112] – Tính ác).
Nếu có thể trở thành thiện, trở thành thánh nhân mà không thể trở thành thiện, trở thành thánh nhân được là vì kém thông minh, kém hiểu biết, suy nghĩ không tới, lựa chọn không đúng cái điều cần theo đuổi học tập. “Bất luận trí, ngu, ai cũng có ưa, có thích nhưng cái ưa cái thích thì thay đổi tuỳ người” (Sinh dã, giai hữu khả dã, trí ngu đồng, sở khả dị dã, trí ngu phân.[113] – Phú quốc).
Vì trí ngu, ưa thích khác nhau, mỗi người hiểu biết, suy nghĩ, lựa chọn có thể khác nhau, cho nên cái nguỵ của mọi người cũng có thể khác nhau: có cái nguỵ tận thiện, như cái nguỵ thể hiện thành lễ nghĩa của thánh nhân, mà cũng có thể có cái nguỵ không tận thiện. Tuân Tử nói: “Thánh nhân sở dĩ khác mọi người, hơn mọi người là do cái nguỵ” nghĩa là vậy. Nhưng chính cũng vì có cái nguỵ không tận thiện cho nên Tuân Tử mới nói: “Cái thiện là do người làm ra” (Kì thiện giả nguỵ dã) chứ không nói “cái mà người ta làm ra là thiện” (Kì nguỵ giả thiện dã).
Mọi người có thể trở thành thiện, trở thành thánh nhân mà không trở thành thiện, trở thành thánh nhân được, còn vì một lẽ nữa: Vì không đủ bản năng tự chế và ý chí kiên quyết để “tích tập”, nghĩa là tiếp tục nay làm, mai làm điều lễ nghĩa, kì cho thành thói quen:
“Thánh nhân là người (thường), nhờ công phu TÍCH NGUỴ mà thành” (Thánh nhân dã giả, nhân chi sở tích nhi trí.[114] – Tính ác).
Tài trí hơn người, thánh nhân biến hoá được cái tính và “khởi” được cái nguỵ, làm ra lễ nghĩa cho mọi người theo. Mọi người sẵn có thánh nhân làm thầy, có lễ nghĩa của thánh nhân làm phép, không còn lo suy nghĩa, lựa chọn mà không đúng nữa, có cải hoá được cái tính của mình hay không, đối với họ, bây giờ chỉ còn là vấn đề “năng” hay “bất năng”, vấn đề có đủ bản năng chịu tự chế, tự cường hay không:
“Kẻ tiểu nhân có thể làm người quân tử mà không chịu làm người quân tử (…) Tiểu nhân và quân tử chưa từng không thể kẻ nọ làm người kia, người kia làm kẻ nọ. Nhưng họ không làm là vì họ có thể làm mà họ không chịu làm. Cho nên “người ngoài đường” có thể làm vua Vũ, “người ngoài đường” không hẳn làm được vua Vũ (…) Xét vậy thì “có thể làm được” chưa hẳn là “làm được”; “làm được” và “không làm được” với “có thể làm được” và “có thể không làm được”, hai đàng khác nhau xa lắm” (Cố tiểu nhân khả dĩ vi quân tử, nhi bất khẳng vi quân tử (…) Tiểu nhân, quân tử giả vị thường bất khả dĩ tương vi dã. Nhiên nhi bất tương vi giả, khả dĩ nhi bất khả sử dã. Cố “đồ chi nhân” khả dĩ vi Vũ tắc nhiên, “đồ chi nhân” năng vi Vũ vị tất nhiên dã (…) Nhiên tắc năng, bất năng chi dữ khả, bất khả, kì bất đồng viễn hĩ.[115] – Tính ác).
Tóm lại, tính ác sở dĩ trở nên thiện được là nhờ:
- Tính có yếu tính có thể cải hoá.,
- Mọi người đều có cái tài chất “tri” để hiểu được điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay, đều có cái tài chất “năng” để làm được điều nhân nghĩa, giữ được phép thẳng ngay.
Đó là những nhân tố nội tại, do lai của thiện. Ngoài ra, còn một nhân tố ngoại lai là HOÀN CẢNH. Thiên Nho hiệu nói:
“Sửa chữa tập nhiễm để cải hoá cái tính (…) Sự tập nhiễm làm thay đổi cái chí, thói quen lâu dần thay đổi khí chất (…) Ở nước Sở thì hoá (theo người) Sở, ở nước Việt thì hoá (theo người) Việt (…)” (Chú thác tập tục, sở dĩ hoá tính (…)[116] Tập tục di chí, an cửu di chất (…) Cư Sở nhi Sở, cư Việt nhi Việt (…)[117].
Cũng nên ghi thêm: Tính bản nhiên chịu ảnh hưởng của công phu khởi nguỵ, chỉ bị hoá một phần mà thoát li cái ác, chứ không mất hẳn, cái “nguyên thuỷ tài phác” vẫn không bị huỷ tiêu:
“Không có tính thì không có chỗ để mà gia công phu tích nguỵ, không có công phu tích nguỵ thì tính tự nó không thể tốt đẹp (…) Tính hợp với công phu tích nguỵ mà sau thành cái danh thánh nhân (…) Tính hợp với công phu tích nguỵ mà thiên hạ trị” (Vô tính tắc vô nguỵ sở gia, vô nguỵ tắc tính bất năng tự mĩ (…) Tính nguỵ hợp nhiên hậu thánh nhân chi danh nhất (…) Tính nguỵ hợp nhi thiên hạ trị.[118] - Lễ luận).
Có thể nói cách khác: tính bản nhiên của con người vốn ác nhưng khả hoá, sau khi “thụ hoá” – chịu ảnh hưởng của công phu tích nguỵ - tính ấy thành ra có khuynh hướng thiện. Trong thiên Cường quốc, Tuân Tử nói:
“Cái người ta ghét là gì? Đáp: là nết xấu xa, ô uế, sự tranh đoạt, lòng tham lợi. Cái người ta ưa là gì? Đáp: là điều lễ nghĩa, nết từ nhượng, lòng trung tín” (Nhân chi sở ố giả, hà dã? Viết: ô mạn, tranh đoạt, tham lợi thị dã. Nhân chi sở hiếu giả, hà dã? Viết: lễ nghĩa, từ nhượng, trung tín thị dã.[119]).
Ghét và ưa nói ở đây là ghét ưa sau khi tính người đã thụ hoá mà hướng thiện, chứ trước khi thụ hoá, tính người không ưa điều lễ nghĩa, nết từ nhượng và ghét nết ô mạn, sự tranh đoạt được.
ĐỐI CHIẾU HAI THUYẾT TÍNH THIỆN CỦA MẠNH VÀ TÍNH ÁC CỦA TUÂN
Thuyết tính thiện và thuyết tính ác đối nghịch nhau thì dĩ nhiên có nhiều điểm dị biệt; tuy nhiên, không vì vậy mà không có những điểm tương đồng.
NHỮNG ĐIỂM DỊ BIỆT
a) Dị biệt từ cơ sở
Thuyết của Mạnh Tử được xây dựng trên cơ sở siêu hình, theo tư tưởng truyền thống của người Trung Hoa: “Thiên nhân hợp nhất”, “Thiên nhân hợp đức”. Những nguyên tắc siêu hình của vũ trụ tâm linh – tức trời – cũng là những nguyên tắc đạo đức của con người mà tính người là sự thể hiện đặc biệt.
Thuyết của Tuân Tử bắt nguồn từ kinh nghiệm thực tại – cái thực tại chiến tranh tàn khốc ở cuối đời Chiến Quốc, và cái thực tại “thiên nhân bất tương dữ”, “thiên nhân các hữu phận” – trời với người không liên quan với nhau mà mỗi bên có chức phận riêng.
b) Dị biệt từ định nghĩa tính
Với Mạnh Tử, tính với tâm “tuy hai mà một”. Cái tâm trắc ẩn, cái tâm tu ố, cái tâm từ nhượng, cái tâm thị phi, chính là bốn đầu mối “tứ đức” của tính người. Chỉ bốn đầu mối riêng của tính người ấy mới được kể là tính người. Ngoài bốn đầu mối của tứ đức, tính còn những yếu tố khác không thiện cũng không ác, khả thiện, khả ác, nhưng vì những yếu tố này không phải riêng của tính người, nên không được coi là đại biểu cho tính người… Tâm tính người có lương tri và lương năng.
Tuân Tử xem tâm và tính là hai thành phần tâm lí khác nhau. Tâm có cái “khả dĩ tri chi chất” và cái “khả dĩ năng chi cụ”. Tính thì không, tính phát động thành tình, biểu hiện phần “bản chất thấp kém” của sinh vật.
c) Dị biệt về qui kết
Hai bên đặc học thuyết về tính trên hai cơ sở khác nhau và định nghĩa cho tính cũng khác nhau, cho nên qui kết về tính cũng khác nhau:
Mạnh Tử quan niệm tính người vốn thiện.
Tuân Tử quan niệm tính người vốn ác.
Hai qui kết đều thuận lí trong hệ thống của mỗi nhà.
Mạnh Tử tin tâm tính và trời hợp nhất[120], tin thiên lí là chí thiện cho nên qui kết tất nhiên phải là: tính người vốn thiện, - nhất là khi ông đã chỉ thừa nhận bốn đầu mối của tứ đức mới là tính người.
Trước thảm cảnh của cuộc chiến tranh bá “giết người đầy thành… giết người đầy đồng” (Mạnh Tử) ngày một ác hoá thêm, một người “duy nghiệm luận giả”[121] như Tuân Tử làm sao khỏi nghĩ rằng “tính người vốn ác, cái thiện của tính người là do công người mà ra”?[122]
d) Dị biệt về nhận định do lai của thiện
Mạnh Tử bảo tính người vốn thiện rồi, chỉ cần khuếch sung bốn đầu mối của tứ đức là thành được thánh hiền.
Theo Tuân Tử thì sở dĩ trở thành thánh hiền được là nhờ vốn sẵn trí thông minh, biết đem cái tri, cái lự, cái năng của tâm mà trị cái ác của tính (dĩ tâm trị tính).
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
a) Tính khả hoá, hiệu năng của giáo dục
Hai nhà cùng cho rằng tính người là “KHẢ HOÁ”:
Mạnh bảo: “Khéo khuếch sung chúng (bốn đầu mối) thì đủ giữ được bốn bể, không khéo khuếch sung chúng thì không đủ để thờ cha mẹ”.
Tuân Tử nhận tính người vốn ác, nhưng cũng tin rằng “người ngoài đường có thể thành vua Vũ”.
Như vậy, cả hai nhà cùng lạc quan về con người và đều vững tin vào hiệu năng của giáo dục, tu dưỡng.
b) Phương tiện giáo dục
Mạnh Tử chủ trương tính thiện, do đó cần khuếch sung cái thiện (bốn đầu mối). Tuân Tử chủ trương tính ác, do đó phải uốn nắn cái tính. Tuy phương pháp giáo dục của đôi bên có khác nhau, nhưng phương tiện giáo dục thì lại giống nhau. Ai cũng ngờ Tuân đề xướng tính ác thì phải dùng hình phạt mà trị ác, uốn nắn lại tính người. Vậy mà không! Cũng như Mạnh, ông vẫn dùng lễ nghĩa, lễ nhạc[123], có thêm chăng là chỉ thêm phép “TƯ THIỆN”, “TÍCH THIỆN”, nghĩa là suy nghĩ về điều thiện, mỗi người làm điều thiện cho thành thói quen, sửa lại tính mình cho thêm thiện mãi để lâu dần tích luỹ cái thiện thì thành thánh nhân.
“Chứa cái thiện mà đến được chỗ hoàn toàn tột độ thì gọi là thánh nhân… các vị (thánh nhân) cầu rồi sau mới được, làm rồi sau mới thành, chất chứa (cái thiện) rồi sau mới hoá cao, làm đến cùng (cái thiện) rồi sau mới thành thánh nhân” (Tích thiện nhi toàn tận, vị chi thánh nhân… bỉ cầu chi nhi hậu đắc, vi chi nhi hậu thành, tích chi nhi hậu cao, tận chi nhi hậu thánh. Cố thánh dã giả, nhân chi sở tích dã…[124] - Nho hiệu).
HAI THUYẾT TÍNH THIỆN VÀ TÍNH ÁC BỔ TÚC CHO NHAU
Mạnh Tử chú trọng đến lương tri mà không để ý đúng mức đến tình dục. Tuân Tử nói nhiều đến tình dục để ta đề phòng nó. Mạnh Tử đề xướng tính thiện để ta vững tin theo tính mà làm điều thiện. Tuân Tử đưa ra tính ác để ta giữ mình, sửa mình mà chẳng làm điều ác. Một bên khuyến khích làm thiện, một bên cảnh giới tránh ác, hai thuyết thật bổ túc cho nhau, và phương pháp giáo dục tu vi thực nhờ thế mà thêm hoàn bị, cho nên Đái Đông Nguyên (một triết gia đầu đời Thanh)[125] bảo: “Cái thuyết tính ác ấy (…) như còn cùng với tính thiện phát minh lẫn nhau” (Thử dữ tính thiện chi thuyết bất duy bất tương bội, nhi thả nhược tương phát minh) (Dẫn trong Đông Thục Độc Thư Kí của Trần Phong).
ẢNH HƯỞNG CỦA HAI HỌC THUYẾT
Tâm lí con người hễ cứ tin mình là thiện thì dễ thành thiện, tin mình là ác thì cũng dễ hoá ác. Hẳn hậu Nho cũng nhận thấy như vậy, cho nên từ đời Hán trở đi, ít nhắc đến học thuyết Tuân Tử.
Một lẽ nữa: Hậu Nho ít nhắc đến thuyết tính ác của Tuân Tử, vì thuyết đó đã đưa Hàn Phi, học trò của Tuân, đến chủ trương chuyên dùng hình pháp để trị dân, không cần dạy luân thường, đạo lí, cho nhân nghĩa là “đồ bỏ”. Hàn Phi cực tả cái tính ác của con người, nói: “Cha mẹ đối với con, sinh trai thì mừng, sinh gái thì giết. Đều là mang ở trong lòng mình ra cả mà trai thì mừng, gái thì giết là nghĩ đến cái tiện lợi của mình sau này. Cha mẹ đối với con mà còn có lòng tính toán, huống hồ là đối với người ngoài”. (Thả phụ mẫu chi ư tử dã, sản nam tắc tương hạ, sản nữ tắc sát chi. Thử câu xuất phụ mẫu chi hoài nhẫm, nhiên nam tử thụ hạ, nữ tử sát chi giả, lự kì hậu tiện, kế chi trường lợi dã. Cố phụ mẫu chi ư tử dã, do dụng kế toán chi tâm dĩ tương đãi dã, nhi huống vô phụ tử chi trạch hồ - Hàn Phi Tử, Lục phản). Chủ trương này được Lí Tư, thừa tướng của Tần Thuỷ Hoàng, thực hành – là nguyên nhân phát khởi cái hoạ “phần thư, khanh nho”, do đó Tuân Tử mang tiếng lây và bị trách cứ oan.
Đời Đường, một số Nho gia, như Hàn Dũ, Lí Cao muốn “khởi suý” cho nền đạo thống, trước cái thế lấn lướt của Phật giáo, đã đề cao thuyết tính thiện – Tận tâm tri tính – của Mạnh Tử, để “hoá giải” thuyết Tính Chân “Minh tâm kiến tính” của họ Cồ Đàm, cho nên thuyết tính ác của Tuân Tử chịu ảnh hưởng không lợi mà bị nghi kị thêm. Tuy nhiên, thời Đường, Tuân Tử vẫn chưa bị công kích nặng lời.
Đến đời Tống, các nhà Đạo học mới mạt sát họ Tuân kịch liệt, thậm chí cho thuyết tính ác của ông di hại không kém nạn hồng thuỷ.
Mãi đến đời Thanh, có học phong “Thực sự cầu thị”, cái học trọng lí trí, cầu phù nghiệm của Tuân, bấy nay bị thất thế, bây giờ mới được chú ý và thuyết tính ác của ông mới thôi bị hiểu lầm.
KHUYẾT ĐIỂM CỦA HAI THUYẾT
Thuyết tính thiện của Mạnh Tử và thuyết tính ác của Tuân Tử đều suy diễn một cách rất tự nhiên, tuy vậy cả hai thuyết đều có khuyết điểm: Mạnh Tử chứng minh được rằng tính người có thiện, nhưng luận cứ của ông chưa đủ để chứng minh được rằng tính người không ác; ngược lại, Tuân Tử chứng minh được rằng tính người có ác, nhưng những luận cứ của ông chưa chứng minh được thật vững chắc tính người không có thiện. Cho nên ngay đời Tống, trong khi Tuân Tử bị Trình, Chu mạt sát nhất, cũng có mấy nhà chê Mạnh Tử là phiến diện, là cực đoan.
Tư Mã Quang bảo:
“Mạnh Tử cho nhân, nghĩa, lễ, trí do tính mà có mà không biết rằng (tàn) bạo, (ngạo) mạn, tham (lam), (mê) hoặc cũng do tính mà ra”.
Còn Tô Triệt thì bảo:
“Há chỉ có lòng trắc ẩn mà thôi? cũng còn cái lòng tàn bạo nữa chứ, há chỉ có lòng tu ố (hổ thẹn) mà thôi? cũng có cái lòng vô sỉ nữa chứ, há chỉ có cái lòng từ nhượng mà thôi? cũng còn cái lòng tranh đoạt nữa chứ, há chỉ có cái lòng biết phải trái (thị phi) mà thôi? cũng có cái lòng u mê nữa chứ. Mạnh Tử tách bốn cái lòng trên ra mà bảo đó là tính, còn bốn cái lòng dưới không phải là tính, mà muốn cho người ta tin, khó thay!”
Tư Mã Quang và Tô Triệt chê Mạnh tức là nhận Tuân cũng có lẽ một phần, và cả Mạnh lẫn Tuân đều cực đoan, đều nói quá để lập một thuyết làm cơ sở cho đường lối chính giáo của mình: Mạnh chú trọng vào nhân, nghĩa, Tuân chú trọng vào lễ.
Cái thuyết THIỆN ÁC HỖN (con người nửa là thần thánh, nửa là súc sinh) của Dương Hùng[126], đời Tây Hán, dễ thường mà đúng hơn cả.
[80] Tôi tạm ghi thêm mấy chữ: “Lòng thị phi ai cũng có” (chắc sách in thiếu). (Goldfish).
[81] 側隱之心,人皆有之;羞惡之心,人皆有之;恭敬之心,人皆有之;是非之心,人皆有之。
[82] 惻隱之心,仁之端也;羞惡之心,義之端也;辭讓之心,禮之端也;是非之心,智之端也。
[83] 人之有是四端也,猶其有四體也。
[84] 仁,義,禮,智,非由外鍥我也,我固有之也。[Chữ “thước” 鍥, Từ điển Thiều Chửu phiên âm là khiết. (Goldfish)].
[85]孟子曰:人之學者,其性善。曰:是不然,是不及知人之性,而不察乎人之性僞之分者也。凡性者,天之就也,不可學,不可事;禮義者,聖人之所生也,人之所學而能,所事而成者也。不可學,不可事,而在人者謂之性;可學而能,可事而成,之在人者,謂之僞;是性僞之分也。
[86]今人之性,目可以見,耳可以聽。夫可以見之明不離目,可以聽之聰不離耳,目明而耳聰不可學,明矣。孟子曰:今人之性善,將皆失喪其性故也。曰:若是則過矣。今人之性,生而離其樸,離其資。必失而喪之。
[87] 若火之始然,泉之始達,苟能充之,足以保四海,苟不充之,不足以事父母。
[88] 凡古今天下之所謂善者,正理平治也;所謂惡者,偏險悖亂也。是善惡之分也。
[89] Thiện ác: Tiêu chuẩn này thật hợp với công lợi chủ nghĩa của Mặc Tử. Dĩ nhiên còn có thể có tiêu chuẩn khác, như tiêu chuẩn của Trang Tử: Tự do, bình đẳng và tự tại, sống bình dị. Nhưng tiêu chuẩn của Tuân cũng đúng.
[90] 禮義之爲治,非禮義之爲亂也。[Hai chữ 爲 (ở đây phiên âm là vị) trong câu này, các bản chữ Hán trên mạng chép là: 謂 (vị). (Goldfish)].
[91] 人生而有欲,欲而不得,則不能無求,求而無度量分界,則不能不爭。爭則亂,亂則窮。
[92] Hiệu quả: Ý Đổng Trọng Thư muốn nói: Nho gia chú trọng vào động cơ hơn là vào kết quả. Nhan Tập Trai, một triết gia đầu đời Thanh, hiểu lầm ý họ Đổng nên bẻ rằng: Có ai làm việc gì mà lại không chú trọng đến kết quả bao giờ? Phùng Hữu Lan đã vạch chỗ lầm của họ Nhan, trong cuốn Tân Nguyên Đạo (Trung Quốc Triết học nghiên cứu hội. Hongkong -1965, trang 14-15.
[93] 人之情爲欲多而不欲寡,故賞以富厚而罰以殺損。
[94] 人之情,食欲有芻豢,衣欲有文繡,行欲有輿馬,又欲夫餘財蓄積之富也; 然而窮年纍世不知不足。
[95] Hai chữ Vinh nhục là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[96] Từ nhượng: sách in lầm thành trung tín. (Goldfish).
[97]今人之性,生而好利焉,順是故爭奪生而辭讓亡焉,生而有疾惡焉,順是故殘賊生而忠信亡焉,生而有耳目之欲,有好聲色焉,順是故淫亂生而禮義,文理亡焉。然則從人之性,順人之情,必出於爭奪,合於犯分,亂理而歸於暴。故必將有師法之化,禮義之道,然後出於辭讓,合於文理而歸於治。用此觀之,然則人之性惡,明矣,其善者僞也。
[98] Kì thiện giả nguỵ: Trong Đại cương triết học Trung Quốc, hai cụ Giản chi và Nguyễn Hiến Lê bảo: “Kì thiện giả nguỵ”, bốn chữ đó đủ tóm tắt thuyết tính ác của Tuân Tử, và ông dùng nó để bác thuyết tính thiện của Mạnh Tử. Chữ nguỵ 僞 ở đây, cũng như chữ tính 性 ở đoạn trên, ông đều dùng theo nghĩa gốc; nguỵ gồm chữ nhân 人 và chữ vi 爲 trỏ cái gì người làm ra, gây ra, chứ không có nghĩa là tà, là dối trá như ngày nay; còn chữ tính gồm chữ tâm 心 và chữ sinh 生 trỏ cái lòng người khi sinh ra đã có rồi”. (Goldfish).
[99]凡人之欲爲善者,爲性惡也。夫薄願厚,惡願美,狹願廣,貧願富,賤願貴:苟無之中者,必求於外。故富而不願財,貴而不願勢:苟有之中者,必不及於外。用此觀之,人之欲爲善者,爲性惡也。今人之性,固無禮義,故強學而求有之也, 性 不知禮義,故思慮而求知之也。
[100] Tức Tống Kiên (383 tr.T.L-290 tr.T.L), cũng gọi là Tống Khanh hoặc Tống Vinh. (Goldfish).
[101] 不可學,不可事而在人者,謂之性。
[102] 可學而能,可事而成之在人者,謂之僞。
[103] 感而自然,不待事而后生之者也。[Nguyên văn chữ Hán câu này và câu sau, trong sách không có, tôi tạm chép thêm. (Goldfish)].
[104] 感而不能然,必且待事而後然者,謂之僞。
[105] 故聖人之所以同於眾,其不異於眾者,性也。
[106] 凡人之性者,堯,舜之與桀,跖,其性一也,君子之與小人,其性一也。
[107] 性也者,吾所不能爲也,然而可化也。
[108] 堯禹存則天下從而治,桀紂存則天下從而亂。
[109] 聖人之所以而過眾者,僞也。[Câu nguyên văn chữ Hán này, trong sách không in. Về sau, những câu tôi chép thêm, tôi chỉ ghi “(Goldfish)”].
[110] 塗之人可以爲禹。
[111] Lẽ phải: Thiên Lễ luận, sách Tuân Tử nói: “Nguỵ là cái cao đẹp của văn lí” (Nguỵ, văn lí long thịnh dã). Vi Chính Thông (tác giả Tuân Tử Dữ Cổ Đại Triết Học) căn cứ vào câu: “Phi ti phi bạch, văn lí thành chương” trong thiên Phú, sách Tuân Tử, cắt nghĩa: văn lí là lễ nghĩa.
Ý kiến Tuân Tử về nhân tính thật có giống ý kiến Thomas Hobbes (1588-1679). Trong tác phẩm Leviathan, Hobbes bảo: người ta sinh ra, ai cũng có lòng muốn “tự kỉ bảo tồn”, từ đó phát sinh ra sự tranh giành “cá lớn nuốt cá bé” – “sự đấu tranh của hết thẩy đối với hết thẩy”. Trong tình trạng đó, loài người không còn giữ được trọn vẹn sự an toàn và, nhờ có lí trí mới lí hội được rằng tranh giành nhau là sai, rằng tổ chức thành quốc gia để sống có trật tự là điều cần thiết. Như vậy, Hobbes cũng cho tính người là ác, sở dĩ trở thành người thiện là nhờ người ta có lí trí biện biệt được điều thiệt hơn. - Nên hiểu “người ta” ở đây là trỏ vị thủ lãnh, tức là “quân” trong câu: “quân giả thiện quần dã” của Tuân Tử. Will Durant cho rằng quốc gia không do dân chúng tổ chức như J.J. Rousseau nói trong Contrat Social mà do kẻ mạnh (thủ lãnh) thành lập. [Câu “quân giả thiện quần dã” 君者善羣也 là ở trong thiên Vương chế. (Goldfish)].
[112] “塗之人可以爲禹”曷謂也?曰:凡禹之所以爲禹者,以其爲仁義,法正也。
然則仁義,法正有可知,可能之理,然而塗之人也皆有可以知仁義,法正之質,皆有可以能仁義,法正之具,然則其可以爲禹明矣。
[113] 生也,皆有可也,智愚同,所可異也,智愚分。
[114] 聖人也者,人之所積而致。
[115]故小人可以爲君子,而不肯爲君子(…)小人,君子者未嘗不可以相爲也。然而不相爲者,可以而不可使也。故”塗之人”可以爲禹則然,”塗之人”能爲禹未必然也(…)然則能,不能之與可,不可,其不同遠矣。
[116] Mấy chữ “Chú thác tạp tục, sở dĩ hoá tính (…)” sách in thiếu, nhưng phần chữ Hán thì có. (Goldfish).
[117] 註錯習俗,所以化性也(…)習俗移志,安久移質(…)居楚而楚,居越而越(…)
[118] 無性則無僞所加,無僞則性不能自美(…) 性僞合然後聖人之名一(…) 性僞合而天下治(…)
[119]人之所惡者,何也?曰:污漫,爭奪,貪利是也。人之所好者,何也?曰:禮義,辭讓,忠信是也。
[120] Hợp nhất: Tận kì tâm giả, tri kì tính dã, tri kì tính giả, tắc tri thiên hĩ (Mạnh Tử, Tận tâm, thượng): Ai biết cái tâm mình (tâm trắc ẩn…) thì biết cái tính mình (tính có bốn đầu mối), biết tính mình thì biết trời (nguyên tắc tâm linh của vũ trụ bên ngoài).
[121] Duy nghiệm luận gia: “Phàm luận giả, quí kì hữu biện hợp, hữu phù nghiệm (Tuân Tử - Tính ác).
[122] Tình trạng xã hội hủ hoá ở nước Anh vào thế kỉ 18 cũng đưa Hobbes đến nhận định tính người ta ác: “Người là chó sói đối với người”.
[123] Lễ nghĩa, lễ nhạc: Lễ nghĩa giả, trị chi thuỷ dã (Tuân Tử - Vương chế).
[124] 積善而全盡,謂之聖人…彼求之而後得,爲之而後成,積之而後高,盡之而後聖。故聖人也者, 人之所積也…
[125] Đái Chấn (1723-1777) tự Đông Nguyên, tác giả bộ Mạnh Tử tự nghĩa sở chứng và nhiều tác phẩm khác. (Goldfish).
[126] Dương Hùng (53 tr.T.L-18 tr.T.L) tự Tử Vân, tác giả cuốn Thái Huyền và cuốn Pháp Ngôn. (Goldfish).