← Quay lại trang sách

PHẦN II PHIÊN DỊCH VÀO PHẦN DỊCH

1. Vì khuôn khổ cuốn sách có hạn, nhất là vì đòi hỏi của nhà xuất bản không muốn cho giá cuốn sách quá cao, chúng tôi rất tiếc đã không in kèm được bản văn chữ Hán. Nếu muốn, bạn đọc có thể kiếm nguyên tác nơi các hiệu sách Trung Hoa ở Chợ Lớn.

2. Đầu bản dịch mỗi thiên, chúng tôi tóm tắt trong mười dòng các ý chính của toàn thiên. Những ý này, cố nhiên, đều đã được trình bày trong phần giới thiệu. Biết rằng nhắc lại có rườm, thừa; nhưng thiết nghĩ như thế dễ nhớ, vẫn phần nào có lợi cho bạn đọc ít thì giờ.[406]

3. Trong ngữ vựng Tuân Tử, có một số chữ dùng với nhiều nghĩa, có nghĩa hơi khác, có nghĩa khác xa, lại có nghĩa khác hẳn nghĩa thông thường. Để tiện cho bạn đọc dùng, trong trường hợp cần đối chiếu bản dịch này với nguyên bản chữ Hán, chúng tôi xin ghi lại dưới đây các nghĩa khác nhau của những chữ đặc biệt “Tuân Tử”.

NHỮNG CHỮ ĐẶC BIỆT TRONG NGỮ VỰNG TUÂN TỬ

BAN TRỊ 班治: Đặt quan, chia chức vụ: “Thiên tử tam công, chư hầu nhất tướng, (…) Thị sở dĩ BAN TRỊ chi dã” (Quân đạo): Thiên tử đặt tam công, chư hầu đặt một tướng (…) ấy là để ĐẶT QUAN, CHIA CHỨC VỊ cho họ.

ĐẠO 道: Chữ ĐẠO trong sách Tuân Tử hầu hết dùng theo nghĩa luân lí, chứ không theo nghĩa siêu hình. Đạo của Tuân Tử là đạo do người làm ra, vì người và cho người, là đạo của người quân tử, là “trị đạo”, tức LỄ NGHĨA: “Đạo giả, phi thiên chi đạo, phi địa chi đạo, nhân chi sở dĩ đạo dã, quân tử chi sở đạo dã” (Nho hiệu): Đạo, không phải là đạo trời, không phải là đạo đất, là ĐẠO NGƯỜI LÀM RA, là ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ.

HIỂN THIẾT 顯設: Sử dụng: “Luận đức nhi định thứ, lương năng nhi thụ quan (…) Thị sở dĩ HIỂN THIẾT chi dã” (Quân đạo): Xét đức mà định thứ vị, lượng tài mà trao quan chức (…). Ấy là để SỬ DỤNG họ.

KẾ SỐ 計數: So đo tính toán: “Tụ liễm KẾ SỐ chi quân” [Vương chế][407]: Ông vua SO ĐO TÍNH TOÁN (Nhặt nhạnh vơ vét).

KHÚC 曲: Vừa, thật là: “Kì dưỡng KHÚC thích” (Thiên luận): Theo cái đạo nuôi người cho THẬT LÀ thích đáng., - “Kì trì hiểm ứng biến KHÚC đáng” (Nho hiệu): Phù trì cái cục thế nguy hiểm, ứng phó với biến cố một cách THỰC LÀ đúng.

LOẠI 類: a) Lí của sự vật; luật tắc tự nhiên: “Thuận kì LOẠI giả vị chi phúc” [Chính luận]: THUẬN VỚI LUẬT TẮC TỰ NHIÊN của sự vật, gọi là phúc.

b) Tinh lí của pháp, tinh thần của lễ, cái phát sinh ra lễ và pháp: “Tru thưởng nhi bất LOẠI” (Phú quốc): Thưởng phạt mà không đúng với TINH LÍ CỦA PHÁP, TINH THẦN CỦA LỄ., “Đa ngôn nhi LOẠI, thánh nhân dã” (Phi thập nhị Tử): Nói nhiều mà hợp với TINH LÍ CỦA PHÁP, TINH THẦN CỦA LỄ là thánh nhân.

c) Cái gì có tích cách phổ biến: “Dĩ LOẠI hành tạp” (Vương chế): Từ cái PHỔ BIẾN suy ra những cái đặc thù.

LUÂN LOẠI 倫類: Lễ nghĩa và những gì đã thành lệ mà không trái với lễ nghĩa: “LUÂN LOẠI bất thông” [Khuyến học]: Không hiểu suốt LỄ NGHĨA và những THÀNH LỆ.

NGUỴ 僞: a) Làm, hành vi (cùng nghĩa như Vi [爲]): “Hành NGUỴ hiểm uế” (Phi thập nhị Tử): HÀNH VI hiểm độc, xấu xa.

b) Cái do người làm ra (trái với cái do tự nhiên sinh ra): “Nhân chi tính ác, kì thiện giả NGUỴ dã” (Tính ác): Tính người vốn ác, cái thiện là cái DO NGƯỜI LÀM RA.

c) Kết quả của việc làm lâu ngày thành thói quen: “Lự tích yên, năng tập yên nhi hậu thành, vị chi NGUỴ” [Chính danh]: Do công phu suy tính nhiều lần và thực hành quen mà thành, gọi là NGUỴ.

d) Do hai nghĩa b) c), NGUỴ thành đồng nghĩa với lễ nghĩa, văn lí.

NHỊ 二 : Ngoài: “Ngôn đạo đức chi cầu, bất NHỊ hậu vương” (Nho hiệu): Tìm đạo đức để mà theo, thì không NGOÀI các hậu vương (các minh vương đời sau, tức đời Chu).

PHÁP 法: Lễ nghĩa: “Cố hữu sư PHÁP giả, nhân chi đại bảo dã, vô sư PHÁP giả, nhân chi đại ương dã”[408] (Nho hiệu): Cho nên có thánh nhân và LỄ NGHĨA thì là cái cao quí của con người, không có thánh nhân và LỄ NGHĨA thì là cái hoạ lớn của con người.

PHIÊN SỨC 藩飾: Làm cho uy nghi, đẹp đẽ: “Tu quan biền y thường, phủ pháp văn chương, điêu trác khắc lũ giai hữu đẳng sai, thị sở dĩ PHIÊN SỨC chi dã” (Quân đạo): Sửa sang áo mũ, đồ thêu, đồ khắc thảy đều có thứ bậc khác nhau, ấy là làm cho họ thêm UY NGHI ĐẸP ĐẼ.

SỐ 數: a) Thuật: “Kì bá dã nghi tai, phi hạnh dã, SỐ dã”[409] [Trọng Ni]: (Tề Hoàn Công) dựng nên nghiệp bá là phải, không vì may mà là có THUẬT.

b) Kinh truyện: “Cố tụng SỐ dĩ quán chi”[410] [Khuyến học]: Cho nên đọc KINH TRUYỆN để suốt lí nhất quán.

c) Chuyên khoa: “Tụng SỐ chi nho”[411] [Chính danh]: Kẻ nho giả CHUYÊN trị một KHOA.

d) Điều khoản, tiết mục: “Bất tri kì nghĩa, cẩn thủ kì SỐ”[412] (Vinh nhục): Không hiểu cái tinh lí, theo từng TIẾT MỤC.

SỞ 所: Khách thể của vật: “Trạng đồng nhi vi dị SỞ giả (Chính danh): (Vật) bề ngoài giống nhau mà KHÁCH THỂ khác nhau (theo giả thích của Phương Hiếu Bác, tác giả Tuân Tử Tuyển Chú).

SƯ 師: Thầy. – Trỏ thánh nhân[413].

TÁI 載: Làm: “Giai sử nhân TÀI kì sự”[414] (Vinh nhục): Điều khiến mọi người LÀM phần việc của mình.

TÍCH 積: Kinh nghiệm do học tập: “Cố thánh nhân giả dã, nhân chi sở TÍCH nhi trí” [Tính ác]: Cho nên thánh nhân là nhờ KINH NGHIỆM DO HỌC TẬP mà thành.

THỂ 體: Thực hành đạo, không rời đạo: “Đốc chí nhi THỂ, quân tử dã”[415] (Tu thân): Dốc lòng THỰC HÀNH ĐẠO là người quân tử.

THIÊN QUAN 天官: Năm giác quan. Có khi còn gồm cả tâm (ý thức): “Nhiên tắc hà duyên nhi đồng dị? – Viết: Duyên THIÊN QUAN” (Chính danh): Thế thì nhờ cái gì mà phân biệt được vật giống nhau, khác nhau? Đáp: Nhờ NĂM GIÁC QUAN (Tai, mắt, mũi, miệng (lưỡi), thân thể) và TÂM (ý thức).

THIÊN QUÂN 天君: Tâm, ý thức: “Tâm cư trung hư dĩ trị ngũ quan, phù thị chi vị THIÊN QUÂN” (Thiên luận): Ở thế trung hư để làm chủ ngũ quan, cho nên THIÊN QUÂN, là TÂM[416].

THỐNG 統: a) Mối, mục: “Tứ THỐNG giả câu nhi thiên hạ qui chi” [Quân đạo]: Bốn MỤC của đạo (“năng quần”) (khéo hợp quần) ấy mà đều đủ thì thiên hạ qui phụ.

b) Nguyên tắc, nguyên lí, tinh thần, đầu mối của lễ nghĩa: “Lược pháp tiên vương nhi bất tri kì THỐNG” (Phi thập nhị Tử): Theo phép tắc của tiên vương mà không biết ĐẦU MỐI (TINH THẦN) của lễ nghĩa.

THỐNG LOẠI 統類: a) Cái nguyên lí chung, theo đó mà lễ nghĩa, pháp chế phát triển: “Dĩ thánh nhân chi chế vi pháp, pháp kì pháp dĩ cầu kì THỐNG LOẠI”[417] (Giải tế): Lấy chế độ của thánh vương làm qui tắc, theo qui tắc đó để tìm cái NGUYÊN LÍ phát triển của lễ nghĩa, pháp chế.

Có khi dùng theo nghĩa của chữ THỐNG, hoặc chữ LOẠI, đi một mình.

b) Biệt danh của đạo, tức lễ, nghĩa (Theo Trần Đại Tề: Tuân Tử Học Thuyết).

TRÌ 持: Được: “Dĩ cổ TRÌ kim, dĩ nhất TRÌ vạn” (Nho hiệu): Suy xưa (biết) ĐƯỢC nay, suy một (biết) ĐƯỢC mười.

TRƯNG TRI 徵知: Tác dụng nhận thức do sự phản tỉnh của kinh nghiệm: “Tâm hữu TRƯNG TRI. Trưng tri tắc duyên nhĩ nhi tri thanh, khả dã” (Chính danh): Tâm có TÁC DỤNG NHẬN THỨC DO SỰ PHẢN TỈNH CỦA KINH NGHIỆM. Nhận thức do sự phản tỉnh của kinh nghiệm thì do tai mà biết được tiếng.

[406] Sách Tuân Tử gồm có 32 thiên nhưng trong phần II này chỉ có 31 thiên. Thiên bị thiếu là thiên Vinh nhục 榮辱, mặc dầu thiên này có nhiều đoạn được trích dẫn trong phần I. (Goldfish).

[407] Trong thiên Vương chế có câu: “Thành hầu, Tự công là những ông vua bòn rút, bo siết, chưa đủ để trị (tức dùng được) dân”. Nguyên văn: “Thành hầu, Tự công, tụ liễm kế sổ chi quân dã, vị cập thủ dân dã”. (成侯,嗣公,聚歛計數之君也,未及取民也). Tên các thiên đặt trong dấu ngoặc đứng là do tôi chép thêm (chữ 爲 đặt trong dấu ngoặc đứng ở dưới cũng vậy). (Goldfish).

[408]故有師法者,人之大寶也;無師法者,人之大殃也。(Goldfish).

[409]其霸也宜哉!非幸也,數也。(Goldfish).

[410]故誦數以貫之。(Goldfish).

[411]誦數之儒。(Goldfish).

[412]不知其義, 謹守其數。(Goldfish).

[413] Xem chữ “sư” trong mục từ PHÁP ở trên. (Goldfish).

[414]皆使人載其事。(Goldfish).

[415]篤志而體,君子也。(Goldfish).

[416] Trong phần dịch thiên Thiên luận, câu đó được dịch là: “Tâm ở giữa, hư tĩnh, để trị (làm chủ) ngũ quan, thế gọi là “thiên quân”. (Goldfish).

[417]以聖人之製爲法,法其法以求其統類。(Goldfish).