← Quay lại trang sách

KHUYẾN HỌC

Đại ý toàn thiên: Nói lên tính cách trọng yếu của việc cầu học và phân tích mục tiêu cùng phương pháp trị học.

Về hình thực thì thiên này được coi là có giá trị nghệ thuật nhất trong ba mươi hai thiên sách của Tuân Tử: câu cân đối, văn giản luyện, âm điệu êm êm, chứng cứ viện dẫn cụ thể và phong phú. Phong cách điển hình của ngòi bút Tuân Tử được biểu hiện trọn vẹn ở đây[418].

*

* *

Người quân tử nói: đạo học vấn là chẳng nên lùi bước. Màu xanh lấy từ chàm ra mà xanh hơn chàm, băng do nước sinh ra mà lạnh hơn nước. Cây gỗ thẳng tắp, nẩy dây mực được, nếu uốn cho thành bánh xe, thì có tròn y hệt như cái thước qui, dù gỗ có khô ngót cũng không thẳng trở lại được, đó là nhờ công phu uốn nắn. Cho nên gỗ đã nẩy qua dây mực thì thẳng, kim thuộc đã mài qua đá ráp thì bén. Người quân tử học cho rộng mà ngày ngày xét nét ba (nhiều) lần động tác của nhân tâm thì trí tuệ sáng suốt mà hành vi không lỗi lầm. Chẳng lên núi cao thì chẳng biết trời cao, chẳng xuống khe sâu thì chẳng biết đất là dầy, chẳng nghe lời tiên vương để lại thì chẳng biết sự học vấn là có ích lợi. Trẻ nít mấy nước Ngô[419], Việt, Di, Mạch[420], mới lọt lòng, giống nhau tiếng khóc mà khi khôn lớn, khác nhau thói lề, đó là do học vấn, giáo hoá xui nên. Kinh Thi có câu:

Ôi! người quân tử, thật đáng khen thay

Nặng lòng trách nhiệm,

Lo đêm lo ngày!

Thần minh chứng giám

Người ưa thẳng ngay

Ơn trên phước lớn,

Xin dành cho ai![421]

Cầu thần cách linh nghiệm nhất là (chịu học hỏi để) đồng hoá với đạo và xin phúc thì phúc lành nhất là (lo sửa sang mình để) chẳng gặp tai hoạ.

Ta từng suy nghĩ một ngày không bằng học trong chốc lát., ta từng kiễng gót mà nhìn, không bằng lên cao có tầm mắt rộng. Lên cao mà vẫy, tay chẳng dài hơn, người đứng xa vẫn thấy., xuôi gió mà gọi, tiếng chẳng nhanh hơn, người nghe xa vẫn rõ.

Mượn sức xe ngựa mà đi, chân không cần lẹ mà vẫn tới được nghìn dặm; mượn sức thuyền chèo mà vượt, lội không cần giỏi mà vẫn qua được sông nước. Người quân tử sinh ra, chẳng phải khác người, giỏi là ở chỗ biết mượn sức vật.

Phương Nam có loài chim, tên là Mông cưu[422], biết lấy tóc, bện lông làm tổ, kết vào nhánh lau. Gió nổi, lau gẫy, trứng bể, con chết, đâu phải tổ không tốt, chỉ vì kết không nhằm chỗ, nhánh lau không bền. Phương Tây có giống cỏ, tên gọi dạ can, cọng dài bốn tấc, mọc trên núi cao, bên mép khe sâu trăm “nhận”[423]. Cọng cỏ đâu có dài? Nhờ chỗ đứng mà như cao chót vót. Cỏ bồng sinh ở đám gai, không chống đỡ mà ngay[424]. Bạch chỉ là rễ cỏ lan hoè, nếu ngăm nước tiểu thì người quân tử chẳng gần, bọn người thường cũng chẳng giắt, bản chất nó đâu phải xấu, không thơm, không tốt, chỉ vì sự tiêm nhiễm xui nên. Thế cho nên người quân tử ở tất chọn làng, chơi tất chọn kẻ sĩ, để phòng sự tà bậy mà gần sự trung chính.

Bất luận một việc gì phát khởi, tất cũng phải có đầu mối. Cái vinh, cái nhục đến với ta, tất đều biểu tượng những hành vi hằng ngày của ta. Thịt rữa sinh giòi, cá khô sinh mọt: Biếng lười, ngạo mạn, tự khí, cho nên tai hoạ mới vướng vào thân. Cứng cáp thì dùng để chống, mềm dẻo thì dùng để buộc: Mình có gian tà, bẩn thỉu thì người ta mới hờn oán. Củi xếp bằng hàng, (nhưng) lửa (chỉ) bắt cháy những thanh khô, đất liền bằng mặt, (nhưng) nước (chỉ) chảy xuống chỗ trũng. Cây cỏ mọc thành bụi, chim muông hợp thành bầy, mọi vật đều phân loại mà sinh tụ. Cho nên mặt bia trưng ra thì cung tên tới, cây rừng tốt thì búa rìu thăm, lùm cây bóng rợp thì nhiều chim về nghỉ, nước thịt thiu chua thì ruồi nhặng bu quanh. Cho nên lời nói có thể mang vạ, việc làm có thể mang nhục và người quân tử không thể không thận trọng trong việc lập thân.

Đắp đất thành núi, núi cao thì có mưa to gió lớn; tích nước thành vực, vực sâu thì sinh thuồng luồng cá sấu; chất chứa việc thiện, thì thành công đức mà hội thông được thần minh, đạt con tâm bậc thánh. Cho nên không góp từng nửa bước thì không tới được nghìn dặm, không tích tụ các dòng nước nhỏ thì không thành được sông biển. Kì kí là giống ngựa hay, tuy ngày đi nghìn dặm, cũng không thể nhảy một bước quá mười “bộ”, thứ ngựa dở nhất, nhưng cứ đi luôn mười ngày không nghỉ thì cũng tới được nghìn dặm xa. Đang cắt mà bỏ dở thì gỗ mục cũng chẳng đứt, rạch cứa mãi không ngừng thì vàng đá cũng chạm trổ được. Con giun không có răng, móng sắc, không có gân, xương mạnh, thế mà nhoi lên ăn được đất bụi, chui xuống uống được nước mạch là vì nó chuyên tâm; con cua tám cẳng hai càng thế mà không có được cái hang để nương náo như con lươn con rắn, là vì nó nôn nóng. Cho nên không nuôi chí chuyên thành thì không có vinh danh xán lạn, không làm việc bền bỉ thì không có công tích rỡ ràng. Cùng một lúc theo hai con đường thì chẳng tới đâu hết, cùng một lúc thờ hai vua thì chẳng vua nào dùng, cùng một lúc nhìn hai vật thì mắt nào thấy rõ? Cùng một lúc nghe hai tiếng thì tai nào nghe được rành? Con đằng xà[425] chẳng có chân mà giỏi bay, con ngô thử[426] có năm tài mà vẫn bị nguy khốn. Kinh thi có câu:

Con chim thi cưu[427]

Ở trên cây dâu,

Nuôi bầy con nhỏ,

Sớm chực tối chầu,

Dìu lên, đỡ xuống,

Chẳng hề xa nhau.

Những con người thiện,

Những bậc quân tử,

Có khác chi đâu:

Một lòng giữ nghĩa,

Trước cũng như sau.

Bởi chưng chuyên nhất,

Nên tâm bền lâu[428]

Cho nên người quân tử dụng tâm bền bỉ.

Xưa ông Bào Ba[429] gảy đàn sắt mà cá từ dưới nước ngoi lên nghe, ông Bá Nha[430] gảy đàn cầm mà sáu con ngựa (kéo xe vua)[431] vừa nhai cỏ vừa ngẩng đầu chú ý. Âm thanh dù nhỏ cũng vẫn nghe thấy, hành vi dù kín cũng vẫn nhận ra. Núi có ngọc mà cây cỏ tươi mướt, vực sinh hạt trai mà ven núi không khô. Phải chăng vì chẳng biết tích luỹ việc thiện, chứ biết tích luỹ thì lẽ nào hạnh thiện chẳng tích luỹ?

Học bắt đầu từ đâu? Chấm dứt ở đâu? Đáp rằng: Về tiết mục (môn học) thì trước hết, học kinh Thi, kinh Thư, sau cùng học kinh Lễ. Về chí cầu học thì trước hết để thành kẻ sĩ, sau cùng để thành thánh nhân. Thành tâm, nổ lực mà tiến tới, lâu ngày, sẽ vào được cảnh học. Học cho đến hết đời mới thôi. Cho nên về môn học thì có chỗ cùng tận, về chí cầu học thì không được trong giây phút nào rời bỏ, lãng quên. Cầu học thì nên người, không, thì thành loài cầm thú. Kinh Thư[432] ghi chép chính trị, kinh Thi (Nhạc chương)[433] điều chế thanh âm cho thích trung trúng tiết, kinh Lễ[434] phân định chế độ và là mối giường của điển pháp[435], cho nên học đến kinh Lễ là đến chỗ cùng tận. Đó là điểm cao nhất của đạo đức. Kinh Lễ dạy khiêm cung, văn nhã, kinh Nhạc khiến người ta thuần hoà, vui vẻ, kinh Thi, kinh Thư quảng bác[436], kinh Xuân Thu ẩn vi[437]. Mọi hình thái trong khoảng trời đất đều đầy đủ trong năm kinh đó.

Cái học của người quân tử lọt vào tai, ghi vào tâm, truyền ra chân tay, biểu hiện ra hành động (lúc làm, lúc nghỉ). Cho nên những lời nói đoan chính, những động tác tế vi của người quân tử đều đủ làm khuôn mẫu cho người đời. Cái học của kẻ tiểu nhân vào lỗ tai ra lỗ miệng, mà tai, miệng cách nhau chỉ bốn tấc thì làm sao bổ ích được cho cái thân bẩy thước? Đời xưa, người ta học để tu dưỡng thân tâm, đời nay, người ta học cốt để khoe khoang. Cái học của người quân tử dùng để làm đẹp thân tâm, cái học của kẻ tiểu nhân dùng làm món quà cầu đẹp lòng người mà mưu danh lợi.

Không hỏi mà thưa là hấp tấp, hỏi một thưa hai là rườm thừa; hấp tấp là không phải, rườm thừa cũng không phải. Người quân tử có hỏi mới thưa, hỏi đâu thưa đấy, lời thưa tương ứng với lời hỏi như tiếng hồi âm[438].

Học thì không gì tiện bằng ở gần người hiền. Kinh Lễ, kinh Nhạc tuy nói những phép tắc lớn nhưng không giải thích rõ ràng về nguyên lí. Kinh Thi, kinh Thư chỉ nói những việc xa xưa, khó áp dụng vào thời nay. Văn nghĩa kinh Xuân Thu ẩn ước (kín đáo, vắn tắt), không hiểu ngay được. Còn tập luyện, theo sát học thuyết của bậc quân tử, gần gũi có thể biết tôn trọng[439] và rộng hiểu đạo lí xưa nay., đối với việc đời, cũng có thể thông suốt hết. Vì thế, học, không gì tiện bằng ở gần người hiền, con đường học mau tới nhất không gì bằng ưa người hiền, thứ đến là tôn trọng lễ, nghĩa. Nếu không theo con đường thứ nhất, lại cũng không biết theo con đường thứ hai, chỉ “học sách vở”, đọc Thi, Thư, nhớ lung tung những thuyết tạp nhạp thì già đời bất quá cũng chỉ là một anh hủ nho mà thôi. Nếu suy nguyên từ phép tắc của tiên vương mà lấy nhân, nghĩa làm gốc thì Lễ chính là đầu dây, mối rợ. Theo Lễ mà suy tư, theo Lễ mà thực hành, thì chả khác nào đỡ lấy cổ áo cừu (áo da lông) mà sóc lên, chỉ cần cong năm ngón tay mà rũ là bao nhiêu lông áo thuận chiều rũ xuống hết… Làm việc không theo lễ pháp, chỉ bằng vào Thi, Thư thì cũng ví như lấy ngón tay mà đo nước sông sâu, dùng mũi mác mà đâm gạo, dùng dùi làm đũa và cơm, quyết không thể được. Cho nên biết chuộng lễ thì dù chưa được mười phần sáng suốt, cũng vẫn được xem là kẻ sĩ ưa Lễ. Không thì dù sáng suốt cũng chỉ là một “tản nho”[440]. Người ta hỏi mà không đúng lễ thì chớ trả lời., người ta trả lời mà không đúng lễ thì chớ hỏi nữa. Người hiếu thắng (ưa cãi lấy được) thì chớ cùng biện luận. Cho nên người nào theo đạo lí mà đến thì hãy tiếp, không theo đạo lí mà đến thì hãy tránh đi. Cho nên người có diện mạo cung kính thì mới cùng họ nói đến phương pháp học đạo., người có lời lẽ cẩn thiện thì mới cùng họ nói tới lí do học đạo, người có sắc mặt sẵn sàng nghe theo thì mới cùng họ nói tới chỗ cực sâu của đạo. Chưa nên nói mà nói là hấp tấp, nên nói mà không nói là khép kín, không xem khí sắc (người đối thoại) mà nói là nói như người mù. Người quân tử không hấp tấp, không khép kín, không nói như người mù, cẩn thận giữ mình mà làm theo đạo lí. Kinh Thi nói:

Chẳng vội vàng,

Chẳng trễ tràng,

Đáng nhận ân huệ,

Của đấng quân vương.[441]

là nghĩa như vậy.

Bắn trăm mũi tên, hụt một mũi, không đủ gọi là tay thiện xạ. Đi nghìn dặm đường, bỏ dở nửa bước, không đủ gọi là tay thiện ngự (đánh xe giỏi)., không loại suy biết những gì ở ngoài lễ, không chuyên nhất – giây phút chẳng xa rời đạo nhân nghĩa – không đủ gọi là người thiện học (học giỏi). Học là phải chuyên nhất[442], giữ mình luôn luôn hợp đạo. Lúc thiện, lúc không là bọn dung tục., thiện ít, bất thiện nhiều là bọn Kiệt, Trụ, đạo Chích. Học đến toàn thiện mới gọi là học. Người quân tử biết rằng không hoàn toàn, không thuần tuý thì không đủ gọi được là đẹp, cho nên đọc kinh Thi, kinh Thư cho quán xuyến, suy nghĩ, tìm tòi cho thông suốt ý tứ, đặt mình vào địa vị người hiền đời xưa, mà làm theo những lời hay, hạnh tốt của họ[443], bỏ hết những nết xấu của mình mà tự tu dưỡng thêm, khiến cho mắt không muốn nhìn những gì không hợp với chính đạo, tai không muốn nghe những gì không hợp với chính đạo, miệng không muốn nói những gì không hợp với chính đạo, tâm không muốn nghĩ những gì không hợp với chính đạo. Đến cả những cái người đời tất ưa thích: mắt ưa thích ngũ sắc, tai ưa thích ngũ thanh, miệng ưa thích ngũ vị, tâm ưa thích cả thiên hạ, cũng chẳng làm cho mình động lòng. Đến độ đó thì quyền lợi chẳng thể làm cho mình ngửa nghiêng, quần chúng chẳng đủ làm cho mình thay đổi, cả thiên hạ cũng chẳng đủ làm cho mình nao núng. Sống chết (theo chính đạo đã học), đó mới là đức tháo của người cầu học. Có đức tháo đó mới định được tâm bên trong, mới ứng phó được với (sự) vật bên ngoài. Định được tâm, ứng được vật, thế gọi là con người “thành tựu”.

Trời có ánh sáng mặt trăng, mặt trời, đất có ánh sáng của ngọc, vàng, nước, lửa. Người quân tử quí vì có đạo đức thuần tuý, hoàn toàn.

[418] Có học giả, như Hồ Thích cho rằng thiên này thấy chép ở trong sách Lễ Kí (cũng như các thiên Lễ luận, Nhạc luận), không biết sách nào chép của sách nào, nên tồn nghi (Coi: Trung Quốc Cổ Đại Triết Học Sử, thiên 2, chương 1).

Một số học giả khác, trong đó có Phùng Hữu Lan, thì cho rằng sách Lễ Kí là tổng tập những trứ tác của các Nho gia cuối thời Chiến Quốc, hoặc thời Hán. Những thiên (…) giống sách Tuân Tử, nếu không phải chép sách này, thì đại khái cũng là do phái Tuân học đời sau viết ra. (Coi: Trung Quốc Triết Học Sử, trang 309 và 409).

[419] Nguyên văn là Can ([干]). Can là tên một nước xưa. Sau khi Can bị Ngô diệt, người ta gọi nước Ngô là Can (y như trường hợp gọi nước Hàn là Trịnh, sau khi Hàn diệt Trịnh).

[420] Di: một rợ ở phương Đông., Mạch: một rợ ở phương Bắc.

[421] Nguyên văn: 嗟爾君子,無恆安息。靖共爾位,好是正直。神之聽之,介爾景福。(Tạm phiên âm: Ta nhĩ quân tử, Vô hằng an tức. Tĩnh cộng nhĩ vị, Hảo thị chính trực. Thần chi thính chi, Giới nhĩ cảnh phúc). (Goldfish).

[422] Một tên là Tiêu liêu, cũng gọi là Tang phi hay Miệt tước. Ta thường gọi là chim Sâu.

[423] Nhận: Một nhận bằng 8 thước (Tàu).

[424] Theo Vương Niệm Tôn thì sau câu này, còn câu: “Bạch sa tại nát, dữ chi câu hắc”, nghĩa là: cát trắng trong bùn, cũng bùn cũng đen.

[425] Đằng xà: Một con vật thuộc loài rồng.

[426] Ngô thử: Một giống chuột. Năm tài của giống chuột này là: 1- Biết bay mà không tới được mái nhà; 2- Biết leo mà không tới được ngọn cây; 3- Biết lội mà không qua được khe nước; 4- Biết làm hang mà không che kín được thân; 5- Biết chạy mà chậm hơn người.

[427] Thi cưu: Còn tên nữa là Cát cúc, cũng gọi là Bố cốc. Chim này nuôi bầy con nhỏ, sáng dìu con xuống đất, chiều dìu con về tổ, ngày nào cũng như ngày nào.

[428] Bền lâu: Thơ Tào phong, thiên Thi cưu. [Nguyên văn: 屍鳩在桑,其子七兮。淑人君子,其儀一兮。 其儀一兮,心如結兮。(Tạm phiên âm: Thi cưu tại tang, Kì tử thất hề. Thục nhân quân tử, Kì nghi nhất hề. Kì nghi nhất hề, Tâm như kết hề). (Goldfish)].

[429] Bào Ba: Người Sở, nổi tiếng gảy đàn sắt hay. [Bào Ba: 瓠巴. Chữ 瓠, Thiều Chửu đọc là “Hồ” hoặc “Hoạch”. (Goldfish)].

[430] Bá Nha: Người Sở, nổi tiếng gảy đàn cầm hay.

[431] Xe vua: Xưa, thiên tử đi xe 6 ngựa.

[432] Thư: Tức kinh thượng Thư, bao gồm Ngu thư, Hạ thư, Thương thư và Chu thư, chép chính sử bốn triều đại đầu tiên của Trung Quốc: Ngu, Hạ, Thương, Chu. Ngu thư, Hạ thư có nhiều thiên có tính cách truyền thuyết, nhiều thiên khác do người Đông Tấn nguỵ tạo.

[433] Thi: Gồm 300 thiên, chia ra: Quốc phong, Đại nhã, Tiểu nhã và Tụng. Đó là những bài nhạc ca dùng vào việc tế tự nơi tôn miếu dưới đời Thương, Chu, những bài thơ do các sĩ, đại phu sáng tác và những bài ca dao của các nước do bọn ca công gom góp chế thành “nhạc chương”.