← Quay lại trang sách

CHẲNG CẨU THẢ (Bất cẩu)

Theo nghĩa trong toàn thiên, “Bất cẩu” có nghĩa là: chẳng chuộng một cách cẩu thả những gì không thuộc với lễ nghĩa.

Trong thiên, tác giả bàn rành mạch về những điểm dị biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân mà điểm chính là: “Người quân tử, làm, chẳng chuộng những việc khó mà không hợp với lễ nghĩa, nói, chẳng chọn cái lối lí luận quá tinh vi lắt léo mà không hợp với lễ nghĩa, danh, chẳng chuộng được truyền lại đời sau mà không hợp với lễ nghĩa”. Cuối thiên, tác giả chê Điền Trọng, Sử Thu[456], bảo họ là bọn “ăn trộm danh”, không bằng bọn ăn trộm của”, vì cái danh của họ tuy có truyền lại đời sau, nhưng nó không xứng đáng, vì không hợp lễ nghĩa. – Xen vào giữa thiên, là lời bàn về phép dưỡng tâm của người quân tử: “Dưỡng tâm không cách nào hay bằng giữ ý cho thành” và về phép phương pháp học vấn suy tư, phương pháp thao ước, rất đặc biệt của Tuân Tử.

*

* *

Người quân tử, làm, chẳng chuộng những việc khó mà không hợp với lễ nghĩa, nói, chẳng chọn cái lối lí luận quá tinh vi lắt léo mà không hợp với lễ nghĩa, danh, chẳng chuộng được truyền lại đời sau mà không hợp với lễ nghĩa. Cái gì chính đáng (hợp lễ nghĩa) mới chuộng. Đeo đá, gieo mình xuống sông mà tự trầm là việc khó, Thân Đồ Địch[457] làm được, nhưng người quân tử chẳng chuộng vì việc làm đó không hợp với lễ nghĩa. “Núi và vực bằng nhau, trời với đất gần nhau”, “Nước Tần, nước Tề hợp thành một nước”[458], vào lỗ tai, ra lỗ miệng[459], “Ếch có đuôi, trứng có lông”[460] là đều những lí luận khó đứng vững. Huệ Thi[461], Đặng Tích[462] biện minh được, nhưng người quân tử thì chẳng làm, vì lí luận đó không hợp với lễ nghĩa, tên đạo Chích ngọng, lắp mà thanh danh sáng tỏ khắp nơi, như mặt trăng, mặt trời, lưu truyền không dứt, chẳng thua gì vua Thuấn, vua Vũ, nhưng người quân tử thì chẳng chuộng, vì cái danh đó không hợp với lễ nghĩa. Cho nên nói: Người quân tử, làm, chẳng chuộng những việc khó mà không hợp với lễ nghĩa, nói, chẳng chọn cái lối lí luận quá tinh vi lắt léo mà không hợp với lễ nghĩa, danh, chẳng chuộng được truyền lại đời sau mà không hợp với lễ nghĩa: Chỉ cái gì chính đáng mới chuộng. Kinh Thi có câu:

Sự vật vẫn có đấy,

Đắc thời mới quí.[463]

là nghĩa như vậy.

Người quân tử dễ gần nhưng khó nhờn, dễ làm cho sợ, nhưng khó uy hiếp: ngăn hoạn nạn nhưng không tránh cái chết hợp lễ nghĩa, muốn phúc lợi, nhưng không làm điều mình cho là trái, thân tình nhưng không sàm sỡ, biện bạch cho ra lẽ chứ không tức khí, cố hơn lời, đạo đức rộng lớn thật có khác với tục nhân.

Người quân tử có tài năng cũng hay, không có tài năng cũng hay, kẻ tiểu nhân có tài năng cũng dở, không có tài năng cũng dở: Người quân tử có tài năng thì khoan dung, dễ dãi, thẳng thắn mà dìu dắt người, không có tài năng thì cung kính, khiêm tốn mà thờ người, kẻ tiểu nhân có tài năng thì vênh váo, kêu ngạo với người, không có tài năng thì đố kị, oán trách, chê bai để khuynh phúc người. Cho nên nói: Người quân tử có tài năng thì người ta lấy làm vinh hạnh mà theo học, không có tài năng thì người ta vui vẻ mà mách bảo, kẻ tiểu nhân có tài năng thì người ta lấy việc theo học (hắn) làm xấu hổ, không có tài năng thì người ta không chịu mách bảo cho. Quân tử và tiểu nhân khác nhau ở đó.

Người quân tử khoan thai không biếng nhác[464], vuông vức mà không sắc sảo, biện bạch mà không tranh lời, sáng suốt mà không tranh thắng, lãng mạn, kiên cường mà không thô bạo, mềm mỏng, xuề xoà mà không a dua thế tục, cung kính, cẩn thận mà rộng lượng bao dung. Đức tốt đến thế là hoàn toàn (đúng lễ). Kinh Thi có câu:

Người ôn hoà khiêm kính,

Là nền tảng đức hạnh,[465]

là nghĩa vậy.

Người quân tử sùng đạo đức của người, đề cao thói hay, nết tốt của người, chẳng phải là để phỉnh nịnh, vì chính nghĩa mà chỉ trích điều lầm lỗi của người, chẳng phải là có ý chê bai, bêu xấu. Nói mình tốt đẹp như vua Thuấn, vua Vũ, ngang với đất trời chẳng phải là huênh hoang tự đại, tuỳ thời thế mà co duỗi, mềm mại như cây cói, cây lau, chẳng phải là hèn yếu, cương trực không a dua, dũng cảm không khuất tất, chẳng phải là kiêu ngạo, ngang ngược. Ấy chỉ là dùng thái độ thích nghi, hợp nghĩa mà ứng phó với mọi trường hợp đó thôi. Kinh Thi có câu:

Hướng sang phía trái đi,

Người quân tử biết thích nghi,

Hướng sang phía phải bước,

Người quân tử vẫn theo được.[466]

ấy là nói người quân tử dùng thái độ thích nghi hợp nghĩa mà ứng phó với mọi trường hợp.

Chỗ tương phản giữ người quân tử và tiểu nhân là: Người quân tử mở rộng con tâm thì kính trời mà hợp với đạo, ước thúc con tâm thì cẩn thủ lễ nghĩa mà hợp với lí, minh mẫn thì theo thống loại mà rộng suy, đần độn thì kính cẩn, đoan chính mà giữ phép tắc, được dùng thì khiêm cung mà không phóng túng, không được dùng thì vẫn trang trọng, chỉnh tề, vui thì hiền hoà mà có qui củ, lo thì bình tĩnh mà không quá buồn phiền, được thông đạt thì hành đạo cho đạo sáng tỏ, gặp khốn cùng thì giữ mình cho đạo rõ ràng. Kẻ tiểu nhân không thể: mở rộng con tâm thì ngạo mạn, bạo ngược, ước thúc con tâm thì vẫn không khỏi hoang dâm, nghiêng lệch, khôn lanh thì chỉ giỏi dối trá, trộm cấp, ngu đần thì làm càn không biết e dè, đắc dụng thì hợm hĩnh, ngạo nghễ, không đắc dụng thì oán trách mà phá ngầm, khi vui thì lanh tranh, hí hửng, khi buồn thì ủ rũ, rụt rè, được thông đạt thì tự kiêu, tự đại, gặp khốn cùng thì thất chí, tự khí. Sách xưa nói:

Người quân tử đắc chí cũng hay, thất chí cũng hay,

Kẻ tiểu nhân đắc chí cũng dở, thất chí cũng dở.

là nghĩa như vậy.

Người quân tử “trị trị chứ không trị loạn”. Câu ấy nghĩa là thế nào? Thưa: Đời có lễ nghĩa, gọi là trị, đời phi lễ nghĩa, gọi là loạn. Người quân tử vì lễ nghĩa chứ không vì cái phi lễ nghĩa.

- Thưa: Nước loạn mà lo đem lại bình trị không phải chỉ là nhân loạn mà đổi ra trị, mà là từ bỏ cái nguyên nhân tạo thành thế loạn. (Ví dụ) người nhơ bẩn mà tắm rửa cho sạch sẽ, không phải chỉ là nhân nhơ bẩn mà tắm rửa cho sạch sẽ mà là trừ bỏ cá nguyên nhân làm thành nhơ bẩn, cho nên trừ loạn không phải chỉ là chỉnh đốn cái thế loạn, trừ nhơ bẩn, không phải chỉ là gột rửa cái nhơ bẩn. Nói trị có nghĩa là người quân tử sửa sang mối trị, chứ không phải là chỉnh đốn mối loạn (khác nào như) là chu toàn sự sạch sẽ, chứ không phải là “lau chùi” sự nhơ bẩn.

Người quân tử giữ mình trong sạch mà người có phẩm hạnh, tìm đến làm quen, nói ra những điều đạo đức mà người đồng thanh, đồng khí hưởng ứng. Cho nên loài ngựa hí thì có ngựa hí theo, không phải là loài ngựa khôn ngoan mà cái thế khiến như vậy. Mới tắm thì rũ áo rồi mới mặc, mới gội thì phủi mũ rồi mới đội, thường tình người ta là như thế. Có ai trong trắng mà chịu để cho người ta làm cho đen bẩn?

Người quân tử dưỡng tâm thì không gì tốt bằng luyện đức thành. Hễ thành rồi thì còn việc gì làm hại tâm nữa. Chỉ thành tâm giữ lấy điều nhân, chỉ thành tâm làm theo điều nghĩa. Hễ thành tâm giữ điều nhân thì niềm thành tâm tất hiện ra ngoài mà tất có hiệu lực thần diệu, thần diệu thì cảm hoá được người. Hễ thành tâm làm điều nghĩa thì tất thấu lí, thấu lí thì sáng, sáng thì tất biến đổi được lòng người, biến hoá được khí chất, biến hoá được khí chất thì đức sánh được với trời. Trời không nói trời cao mà ai cũng biết trời cao, đất không nói dầy mà ai cũng biết đất dầy, bốn mùa không nói xuân, hạ, thu, đông, mà ai cũng biết thời tiết – biết trước khi nào nóng, khi nào lạnh. Đó là do trí (- chí: rất) thành[467] nên mới thường hằng, bất biến, “bất nhị” như vậy. Người quân tử có đức tốt, chẳng cần nói mà ai cũng biết, chưa thi ân mà ai cũng gần, chẳng tác sắc mà tự có uy, thuận đạo trời được là vì “thận độc”[468], chuyên thành. Cái đạo làm thiện, hễ không chuyên thành thì không thể thận độc, không thận độc thì đức tốt không thể biểu lộ ra ngoài, đức tốt không biểu lộ ra ngoài thì dù nghĩ trong lòng, tỏ ra vẻ, nói ra miệng, người ta cũng chẳng theo, có theo cũng ngần ngại. Trời đất lớn thật, nhưng nếu không thành thì không thể hoá dục được vạn vật, thánh nhân sáng suốt thật, nhưng nếu không thành thì cũng không cảm hoá được vạn dân, tình cha con thân mật, nhưng nếu không thành thì hoá sơ, bậc vua chúa và bậc bề trên là đáng tôn thật, nhưng nếu không thành thì hoá thấp (hết tôn nghiêm). Thành là cái người quân tử phải quí và là cái gốc của chính trị. Muốn biết đồng loại qui phụ thế nào, chỉ cần biết cái mức cảm hoá của lòng thành tới đâu. Lòng thành, chăm chú nắm giữ thì còn, buông lơi thì mất, nắm giữ được thì nhẹ nhõm, ung dung, nhẹ nhõm ung dung thì dễ thận độc, thận độc hoà thì sẽ trí (chí: rất) thành, trí thành thì tài trí phát triển được hết mức, cứ thế mà tiến tới, không trở lại cái bản tính nguyên sơ[469] thì hoá thiện được.

Người quân tử ở ngôi cao mà thái độ khiêm cung, dụng tâm tế cẩn (cẩn thận, tỉ mỉ) mà đạo đức vẫn lớn, nghe nhìn những điều gần gũi mà sở kiến, sở văn (điều thấy được, nghe được) vẫn xa rộng. Ấy là tại sao? Ấy là nhờ thuật “thao ước” (nắm được cái chính yếu). Nhân tình, muôn nghìn người như một, suy một người biết được muôn người, trời đất buổi sơ khai là trời đất hôm nay, đạo của Bách vương[470] là đạo của Hậu vương[471] đấy. Người quân tử xét đạo Hậu vương mà ung dung bàn được đạo trước Bách vương. Suy rộng từ giường mối lễ nghĩa, phân định đều phải trái, nên, chăng, tóm gồm cái đạo chính yếu trong thiên hạ, vỗ về dân chúng trong bốn bể, như thể sử dụng một người. Cho nên nói rằng: nắm (thao) được sự lí càng gọn (ước) thì thành tựu càng lớn. Cái thước nách năm tấc thâu tóm hết góc vuông dưới gầm trời. Vì thế người quân tử chẳng cần ra khỏi nhà mà hiểu hết tình thế trong bốn bể, ấy là nhờ vào thuật thao ước đó thôi.

Có bậc sĩ thông đạt, có bậc sĩ công chính, có bậc sĩ cương trực, có bậc sĩ cẩn tín, có kẻ tiểu nhân. Trên thì trung với vua, dưới thì thương yêu dân, tiếp vật thì biết ứng phó, xử sự thì biết biện biệt, như thế gọi là bậc sĩ thông đạt, không kéo bè với người dưới để giấu vua, dối vua, không phỉnh nịnh vua để ghét dân, hại dân, gặp việc tranh chấp, không lấy tư ý mà võ đoán, như thế gọi là bậc sĩ công chính, vua không xét biết cái hay của mình, mình không oán giận, vua không thấy rõ cái kém của mình, lại còn khen thưởng, mình không dám nhận: không khoe hay, không giấu dở, như thế gọi là bậc sĩ cương trực, một lời nói bình thường cũng cần tín thực, tuy không đua đòi thế tục, nhưng không lập dị tự cao, như thế gọi là bậc sĩ cẩn tín. Nói không giữ lời, làm bất chấp lễ nghĩa, chỉ cần việc có lợi cho riêng mình là cố sức mà làm, như thế gọi là kẻ tiểu nhân.

Công chính thì sinh minh mẫn, thiên tà thì sinh u mê, cẩn tín thì sinh thông đạt, dối trá thì sinh cùng quẫn, chí thành thì sinh thần thông, khoe khoang hoang đường thì sinh mê hoặc. Về sáu sự sinh đó, người quân tử phải cẩn thận lưu tâm mà vua Vũ, vua Kiệt sở dĩ khác nhau cũng là ở chỗ đó.

Cân nhắc cái ưa, cái ghét, cái lấy, cái bỏ: Thấy cái mình ưa, tất phải suy trước, tính sau, nghĩ đến chỗ đáng ghét của nó, thấy cái lợi thì tất phải suy trước, tính sau, nghĩ đến chỗ hại của nó. Cân nhắc đủ cả hay, dở, lợi, hại., suy trước tính sau cho kĩ, rồi mới quyết định đáng ưa hay đáng ghét, đáng lấy hay đáng bỏ. Như thế thì thường không thất thố. Đại phàn mối lo của người ta là ở chỗ vì xét sự vật một phía mà bị tổn thương: thấy cái mình ưa thì không xét đến cái chỗ đáng ghét của nó, thấy cái lợi thì không xét đến chỗ hại của nó, cho nên cử động thường thất thố, hành vi thường bị nhục, khiến người ta chê cười. Đó là mối lo vì xét sự vật một phía mà bị tổn thương.

Cái mọi người ghét ta thì cũng ghét (nhân tâm là thế). Bất luận phải trái cứ thấy người giàu sang là khinh khi, cứ thấy người ta nghèo hèn thì thương xót vỗ về, người quân tử không cho cách xử sự như vậy là đúng. Những người xử sự như vậy là hạng bịp đời, đánh cắp cái danh, thật là nguy hiểm vô cùng! Cho nên nói rằng: “Kẻ đánh cắp danh còn tệ hơn kẻ đánh cắp của”. Điền Trọng, Sử Thu còn tệ hơn bọn ăn trộm vậy[472].

[456] Điền Trọng: Tức Trần Trọng Tử, nói trong sách Mạnh Tử. Người đất Ô Lăng, nước Tề, nên cũng gọi là Ô Lăng Trọng Tử. Trần Trọng không chịu hưỡng lộc của anh, khước từ phú quí, đi ở tưới vườn cho người. Sử Thu: Đại phu nước Vệ, thời Vệ Linh công. Hiệu là Tử Ngư, cũng gọi là Sử Ngư, có tiếng là người trực.

[457] Thân Đồ Địch: Vì không hành được đạo, phát phẫn đeo đá nhảy xuống sông tự trầm. Sách Trang Tử Âm Nghĩa nói ông là người đời Ân. Sách Hàn Thi Ngoại Truyện nói: Thân Đồ Địch sắp gieo mình xuống sông, Thôi Gia hay tin đến can nhưng không kịp.

[458] Một nước: Nguyên văn: “Sơn uyên bình, thiên địa tị” và “Tề Tần tập”. Diễn cùng một ý, sách Trang Tử, thiên Thiên hạ viết: “”Thiên dữ địa tị, sơn dữ trạch bình” và “Ngã tri thiên hạ chi trung ương, Yên chi bắc, Việt chi nam thị dã”: Ta biết điểm chính giữa của thiên hạ, là phía bắc nước Yên và phía nam nước Việt”. Hai lập luận này, theo Trang Tử, là của Huệ Thi. Xin xem thêm chuyết tác: Đại Cương Triết Học Trung Quốc, phần nói về triết gia này.

[459] Lỗ miệng: Sáu chữ này vốn ở thiên Khuyến học in lộn vào thiên này.

[460] Một lập luận của danh gia Công Tôn Long.

[461] Huệ Thi: Một triết gia đời Tiên Tần, từng làm tể tướng nước Nguỵ, đồng thời và chơi thân với Trang Tử, lập nên các học thuyết “Khử tôn”, “Vạn vật” – đều thất truyền, - “Đại nhất, Tiểu nhất”, “Phiếm ái vạn vật, thiên địa nhất thể”.

[462] Đặng Tích: Đại phu nước Trịnh, đời Xuân Thu, nổi danh có tài nguỵ (quị) biện, vì tội xuyên tạc, bị tướng quốc nước Trịnh là Tử Sản giết.

[463] Là quí: Thơ Tiểu Nhã, thiên Ngư lệ. [Nguyên văn: “Vật kì hữu hĩ, duy kì thời hĩ” (物其有矣,惟其時矣). (Goldfish)].

[464] Biếng nhác: Nguyên văn chữ Hán: Quân tử khoan nhi bất mạn (君子寬而不僈). Tạ Dung và Lư Văn Siêu, Phương Hiếu Bác, Diệp Ngọc Lân đều chú thích 僈 cùng nghĩa như 慢 là “lười biếng”. Nhưng khi dịch ra bạch thoại, họ Diệp dịch câu này là: “Quân tử khoan hậu mà không ngạo mạn”.

[465] Đức hạnh: Thi, Đại Nhã, thiên Ức. [Nguyên văn: “Ôn ôn cung nhân, duy đức chi cơ” (溫溫恭人,惟德之基). (Goldfish)].

[466] Thi, Tiểu Nhã, thiên “Đương giả hoa”. Chu Tử cắt nghĩa hai chữ “tả, hữu” là giúp đỡ (thiên tử). Chúng tôi dịch theo lời chú thích của Diệp Ngọc Lân và Vương Trung Lâm. [Nguyên văn: “Tả chi tả chi, Quân tử nghi chi; Hữu chi hữu chi, Quân tử hữu chi” (左之左之,君子宜之;右之右之,君子有之). Goldfish)].

[467] Nguyên văn: “Dĩ chí kì thành giả dã” (以至其誠者也). (Goldfish).

[468] Thận độc: Nghĩa là tự giữ gìn cả lúc chỉ có một mình, không ai hay biết hành vi tư tưởng của mình, ngoại trừ mình ra.

[469] Bản tính nguyên sơ: Xin nhớ theo Tuân Tử, bản tính con người vốn ác.

[470] Bách vương: trỏ các vua giởi đời trước, như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ v.v…

[471] Hậu vương: Thánh vương đời sau, tương đối gần ta nhất. Đây trỏ Văn vương, Vũ vương đời Chu.

[472] Điền Trọng, Sử Thu: Tuân Tử có ý chê hai nhà ấy có hành vi kì quái để cầu được người khen (xem chú thích ở trên đầu thiên này).