CHỐNG LẠI TƯỚNG THUẬT (Phi tướng)
Thiên này nội dung hỗn tạp, có thể chia làm ba phần mà hai phần sau không liên quan gì đến tướng thuật cả.
Phần thứ nhát phê bình thuật xem tướng, đưa ra các chứng cứ chứng minh rằng thuật này là một mê tín.
Phần thứ hai nói về ý nghĩa thuyết “Pháp Hậu vương” (theo phép tắc của các Hậu vương) do họ Tuân đề xướng.
Phần thứ ba nói rõ cái tất-yếu-tính của sự biện luận và phương pháp của thuật biện luận.
Chúng tôi xin lược phần thứ nhất và chỉ dịch những đoạn chính yếu của hai phần sau.
*
* *
(………)
Người ta sở dĩ thành người là tại sao?
Đáp rằng: tại biết biện biệt. Đói mà muốn ăn, rét mà muốn mặc, mệt mà muốn nghỉ, thích lợi mà ghét hại, những điều đó, người ta sinh ra là tự nhiên biết, không đợi phải học rồi sau mới biết, đó là những điều mà vua Vũ và vua Kiệt giống nhau. Thế thì người ta sở dĩ thành người (khác cầm thú), không phải chỉ vì có hai chân và má không có lông, mà vì biết biện biệt. Kìa như hình mạo con đười ươi, nó cũng chỉ có hai chân và mặt nó cũng không có lông[473], thế mà người ta uống nước sáo (canh nấu bằng thịt) nó, ăn thịt nó. Cho nên người ta sở dĩ thành người, không phải chỉ vì có hai chân và má không có lông mà là vì biết biện biệt. Cầm thú có cha mà không có tình thân phụ tử, có giống đực, giống cái mà không có nghĩa lứa đôi. Cho nên đạo làm người phải biết biện biệt. Sự biện biệt quan hệ nhất là PHÂN (chia ra đẳng cấp trên dưới, thân sơ). Muốn phân thì không gì cần hơn biết lễ, mà sửa điều lễ nghĩa thì không ai hơn các thánh vương.
Thánh vương đời xưa có nhiều, chúng ta lấy thánh vương nào làm phép tắc? Lời rằng: “Lễ văn, chế độ, lâu ngày thì tắt”, các quan hữu tư giữ lễ phép lâu (chính tích) thì bỏ bê. Cho nên nói rằng: Muốn xem dấu vết (chính tích) của thánh vương thì xem những dấu vết của thánh vương còn rõ ràng, nghĩa là của các hậu vương[474]. Các hậu vương tức là các vua của thiên hạ (ngay nay tức đời Chu). Bỏ các hậu vương mà theo các vua thượng cổ thì cũng ví như bỏ vua mình mà thờ vua người. Cho nên nói rằng: “Muốn xem việc nghìn năm thì xem việc ngày nay, muốn hiểu ức vạn thì xét một hai, muốn rõ đời xưa, thì xét đạo nhà Chu, muốn rõ đạo nhà Chu, thì xem xét vua của mình bây giờ, tức bậc quân tử mà mọi người quí trọng”. Nói: “Do gần biết xa, do một biết muôn, do cái vi tế, biết cái minh hiển” là nghĩa như vậy.
Có những kẻ ngu nói: “Tình trạng xưa khác nay thì phép trị loạn cũng khác”, khiến cho hạng người thường tin họ mà lầm. Những người thường, dốt nát, bỉ lậu, không biết biện luận, suy xét thì những điều sờ sờ trước mắt còn bị lừa dối (mà không thấy rõ) huống hồ những việc từ nghìn đời truyền lại ư? Người ngu tối, trong khoảng từ cửa ra sân, còn bị lừa dối (không thấy rõ), huống hồ những việc từ nghìn đời (thì thấy rõ làm sao?). Nhưng tại sao thánh nhân không bị lừa dối? Đáp: “Thánh nhân lấy ý mình suy ra ý người”, cho nên lấy người “đo” (suy) người, lấy tình đo tình, lấy loại đo loại, lấy ngôn thuyết đo công nghiệp, lấy đại đạo suy ra muôn lẽ, xưa hay nay thì cũng vậy, chỉ là suy ra. Chủng loại của vật không biến thì dù lâu ngày, cái lí của nó vẫn thế, không khác. Cho nên đường hướng có chệch, đạo vẫn không lầm ấy là nhờ biết loại suy.
Trước đời Ngũ đế, không có ai để lại sự tích, không phải thời đó không có người hiền, mà vì quá lâu ngày, nên không còn ai biết rõ. Đời Ngũ đế không để lại chính tích, không phải là thời đó không có nền chính trị tốt, mà là vì quá lâu ngày nên thất truyền. Nền chính trị của vua Vũ, vua Thang có truyền, nhưng không rõ ràng bằng nền chính trị của nhà Chu, không phải là vua Vũ, vua Thang không có nền chính trị tốt đáng truyền, mà là vì lâu ngày, nền chính trị đó không còn rõ ràng bằng nền chính trị của nhà Chu. Lâu đời thì thoát lược, mới thì rõ ràng. Thoát lược thì chỉ còn đại cương, rõ ràng thì đủ cả chi tiết. Người ngu độn nghe đại cương thì không suy biết được chi tiết, nghe chi tiết thì không suy biết được đại cương. Cho nên nói: “Lễ văn chế độ lâu ngày thì tắt” (…)
(………)
Người quân tử tất phải biện thuyết cho lẽ phải trái được rõ ràng. Phàm người ta, chẳng ai là không thích nói điều mình cho là phải, mà người quân tử lại càng thích thế lắm. Cho nên kẻ tiểu nhân biện luận những điều hiểm trá, người quân tử biện luận những điều nhân ái. Lời nói không hợp điều nhân ái thì thà im còn hơn nói, vụng mồm còn hơn hùng biện. Lời nói mà hợp điều nhân ái thì hay nói là cao thượng, không hay nói là ti hạ. Cho nên lời nói nhân ái thật là vĩ đại thay. Người trên nói những lời đó mà dẫn dắt người dưới thì có chính lệnh tốt, người dưới dùng những lời đó để tỏ lòng trung mà can ngăn điều lầm lỗi thì cứu được người trên. Người quân tử làm điều nhân không chán, tâm chí yêu điều nhân, hành vi theo điều nhân, miệng nói điều nhân, cho nên người quân tử tất phải biện luận (…)
Có sự biện luận của kẻ thánh nhân, có sự biện luận của bậc sĩ, quân tử, có sự biện luận của đấng thánh nhân.
Không suy nghĩ trước, không trù hoạch sớm, mà nói năng vẫn đúng mức, lời lẽ văn vẻ mà có thống loại, cử động đi lại (chuyển thừa), ứng biến không lúng túng, vụng về, đó là sự biện luận của đấng thánh nhân.
Suy nghĩ trước, trù hoạch sớm, cất lời là nghe được, văn vẻ mà sát sự thực, sâu rộng mà ngay thẳng, đó là sự biện luận của bậc sĩ, quân tử.
Lời nói nghe hoạt bát, nhưng không có căn bản, cho hành sự thì nhiều dối trá mà không có công hiệu, trên không thờ nổi ông vua hiền minh, dưới không trị an được trăm họ, thế mà miệng lưỡi vẫn leo lẻo, nói hay ngừng không vừa độ, hợm hĩnh, huênh hoang. Đó chính là đứa gian hùng, có thánh vương dấy lên, tất phải giết nó trước đã, rồi mới đến bọn giặc cướp: giặc cướp còn giáo hoá được, chứ nó thì không!
[473] Có lông: Nguyên văn chữ Hán: “Diệc nhị túc nhi mao dã” (亦二足而毛也). Có học giả cho rằng chữ “nhi” (而) là do chữ “vô” (無) viết lộn, “nhi mao” chính là “vô mao”: không có lông. Có học giả cho chữ “mao” (毛) cũng do chữ “vĩ” (尾) viết lộn và “nhi mao” là “vô vĩ”: không có đuôi.
[474] Hậu vương: Tuân Tử dùng hai chữ “Hậu vương” ở đây để trỏ các vị vua hiền đời Chu, tức Văn vương, Vũ vương, để phân biệt với các vua đời trước (Tiên vương) như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang. Khi không có ý so sánh thì Tuân Tử cũng xưng Văn vương, Vũ vương nhà Chu bằng hai tiếng Tiên vương.