CHÊ MƯỜI HAI NHÀ (Phi thập nhị Tử)
Trong thiên này, tác giả phê bình các học phái Đạo, Mặc, Danh, Pháp, Nho cùng các học phái khác, thời Tiên Tần. Lời phê bình, nói chung, khá sắc sảo.
Chúng tôi dịch hết phần phê bình này, còn phần, không quan trọng bằng – nói về bậc sĩ, quân tử và các “xử sĩ” (kẻ sĩ ở ẩn), “sĩ sĩ” (kẻ sĩ làm quan) đời xưa và thời bấy giờ xin lược.
*
* *
Ở đời nay mà xướng những tà thuyết, cổ xuý những lời nhảm nhí để quấy rối thiên hạ, nguỵ biện, dối trá, làm những việc bậy bạ, kỳ quặc, dung tục, nhỏ nhặt, khiến cho thiên hạ thành rối bời, chẳng còn biết trị, loạn ra sao, trái, phải, ở đâu, ở đời nay có những kẻ làm như vậy.
Buông tuồng, bậy bạ, cư xử như cầm thú, đề ra những thuyết không thể hợp với văn nghĩa xưa, với đạo trị bình, ấy thế mà biện hộ vẫn có cớ, bàn luận vẫn mạch lạc, đủ để gạt gẫm bọn người ngu, đó là trường hợp ông Đà Hiêu[475] và ông Nguỵ Mâu[476] vậy.
Uốn nắn, kiểu cách, cố ý khác đời, để làm ra vẻ cao siêu, không hợp với đại chúng, không hiểu cái đại nghĩa là trung hiếu, ấy thế mà biện hộ vẫn có cớ, bàn luận vẫn có mạch lạc, đủ để gạt gẫm bọn người ngu, đó là trường hợp ông Trần Trọng, ông Sử Thu[477] vậy.
Không biết thống nhất thiên hạ, kiến thiết quốc gia, thích nói công và lợi, ưa chuộng nết kiệm ước, coi khinh sự sai đẳng, không phân biệt trên dưới, vua tôi, vậy mà biện hộ vẫn có cớ, bàn luận vẫn có mạch lạc, đủ để gạt gẫm bọn người ngu. Đó là trường hợp ông Mặc Địch[478], ông Tống Kiên[479] vậy.
Nói rằng trọng pháp – pháp là tối thượng – mà chính mình lại không tuân thủ pháp luật, không chuộng sự tu trị mà ưa bày đặt, sinh sự, trên khiến được vua nghe theo, dưới khiến được đám lưu tục vừa lòng, suốt ngày nói, cũng dẫn văn, trưng điển, nhưng nếu kiểm soát kĩ lại, thì thấy bông lông, xa vời, không có chỗ qui túc, không thể kiến thiết được quốc gia, chuẩn định được chế độ, vậy mà biện hộ vẫn có cớ, bàn luận vẫn có mạch lạc, đủ để gạt gẫm bọn người ngu, đó là trường hợp ông Thận Đáo[480], ông Điền Biền[481] vậy.
Không lấy các Tiên vương làm phép tắc, không cho lễ nghĩa là phải, cổ xuý những thuyết kì quái, sử dụng một ngôn ngữ tinh vi lắt léo, nhưng không thiết thực, bày việc mà không có công hiệu, không chỉnh đốn được giường mối quốc gia, vậy mà biện hộ vẫn có cớ, bàn luận vẫn có mạch lạc, đủ để gạt gẫm bọn người ngu, đó là trường hợp ông Huệ Thi[482], ông Đặng Tích vậy.
Xét về đại cương thì có lấy các Tiên vương làm phép tắc đấy, nhưng không biết các giường mối chính (của đạo Tiên vương), có tài lớn, có chí lớn, kiến văn rộng, kê cứu học cổ, lập nên thuyết mới, gọi là thuyết Ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) rất ngang trái mà không thống loại, tối mù, khép kín, không tự giải thích được học thuyết của mình, trau chuốt lời nói, tự mình phục học thuyết của mình, nói rằng: “Đó thật là lời của bậc quân tử đời xưa, ông Tử Tư[483] đề xướng, ông Mạnh Kha (Mạnh Tử) phụ hoạ”. Một lũ tục nho ngu dốt, ồn ào, không biết là nhảm, lại chấp nhận mà truyền lại, bảo: “Chính là Trọng Ni (Khổng Tử), Tử Du[484] đấy, rất ích cho đời sau”. Đó là cái tội của ông Tử Tư và ông Mạnh Kha vậy.
[475] Đà Hiêu: Không rõ là người thời nào, không biết có họ hàng với cháu Sở Bình vương là Điền công Đà Thành không.
[476] Nguỵ Mâu tức Công tử Mâu nước Nguỵ, được phong ở Trung Sơn. Hán Thư, Nghệ Văn Chí chép: Đạo gia có bốn thiên “Công Tử Mâu”. Một thuyết nói Công tử Mâu tức Tử Mạc trong sách Mạnh Tử.
[477] Trần Trọng, Sử Thu: Xem chú thích ở đầu thiên “Chẳng Cẩu Thả”. [Ba chữ “Chẳng Cẩu thả”, sách in là “Chẳng Tạm Bợ” (!). (Goldfish)].
[478] Mặc Địch (-480 -397). Thường được gọi là Mặc Tử, người nước Lỗ, nổi tiếng về thuyết “Kiêm ái” (Kiêm tương ái, giao tương lợi: yêu gồm, lợi lẫn), chủ trương “Phi công” (chống chiến tranh), “Tiết dụng” (tinh giảm chi tiêu). Học thuyết của ông xây dựng trên cơ sở Công Lợi.
[479] Tống Kiên: Cũng gọi là Tống Khanh (trong sách Mạnh Tử), hoặc Tống Vinh Tử (trong sách Trang Tử), người nước Tống, đời Chiến Quốc (-383 -290). Hán Thư, Nghệ Văn Chí xếp vào phải Tiểu thuyết và nói ông có sách Tống Tử, gồn 18 thiên.
[480] Thận Đáo: Người nước Triệu, sinh khoảng -370, mất khoảng -290, học đạo Lão Tử, viết 42 thiên sách, nay thất truyền. Hán Thư, Nghệ Văn Chí xếp ông vào phái Pháp gia. Được Thân Bất Hại và Hàn Phi khen là giỏi.
[481] Điền Biền: Người nước Tề (khoảng -370 -290) đồng thời với Trang Tử, theo đạo Lão.
[482] Huệ Thi, Đặng Tích: Xem chú thích ở thiên Chẳng Cẩu Thả.
[483] Tử Tư: Tên là Khổng Cấp, tự là Tư, cháu đích tôn Khổng Tử, học trò Tăng Sâm, sinh khoảng -493, mất khoảng -406. Sách Hán Thư, Nghệ Văn Chí chép: “Nho gia có sách Tử Tư Tử gồm 23 thiên. Tương truyền Tử Tư là tác giả sách Trung Dung nhưng thuyết này nay đã bị bác.