CÔNG HIỆU CỦA BẬC ĐẠI NHO (Nho hiệu)
Thế nào là một “Đại nho” và “Công hiệu” của một đại nho ra sao? Đó là đề tài thiên này.
Vì nhu cầu thuyết minh, tác giả lần lượt đưa ra những mẫu người mà ông gọi là tục nhân, tục nho, nhã nho để rồi làm nổi bật chân dung bậc đại nho.
Trong một đoạn, ông cũng phân biệt các các hạng: “dân đức”, “kính sĩ”, “đốc hậu”, “quân tử” và thánh nhân. Cảnh giới thánh nhân là cảnh giới tối cao và công phu tu tập của người ta có thể đạt tới. Thánh nhân, theo tác giả, tức là Đại nho.
Chúng tôi trích dịch những đoạn chính yếu.
*
* *
(………)
Cho việc thuận theo thế tục là điều thiện, coi tiền tài là của báu, lấy sự ăn uống, vấn đề dưỡng sinh là đạo chính, như thế là hạng “dân đức”[492] (tục nhân).
Phẩm hạnh đoan chính, ý chí bền vững, không để tư dục làm rối loạn điều mình được nghe, như thế gọi được là hạng “kính sĩ” (kẻ sĩ cứng cáp).
Phẩm hạnh đoan chính, ý chí bền vững, ưa sửa lại cho chính đáng điều mình được nghe để tự uốn nắn lại tính tình, lời nói phần nhiều đúng nhưng chưa được thật sáng sủa, hành vi phần nhiều đúng, nhưng chưa được tự nhiên mà đúng, suy nghĩ, tính toán phần nhiều đúng, nhưng chưa được thật toàn mĩ, toàn thiện, trên có thể làm cái đạo (lí tưởng) mình thờ thêm lớn lao, sáng tỏ, dưới, có thể dẫn dắt, chỉ bảo không ngừng[493], như thế gọi là bậc “đốc hậu quân tử”.
Sửa sang phép tắc, chế độ Bách vương, một cách dễ dàng mau chóng, như phân biệt trắng với đen, ứng phó với biến cố đương thời, một cách dễ dàng, mau chóng như đếm một hai, hành động đúng lễ một cách thật tự nhiên như thể cử động chân tay, thuận với thời mà xây dựng sự nghiệp, không bỏ lỡ cơ hội, y như bốn mùa tiếp nhau cho vạn vật sinh thành, chỉnh đốn việc chính trị, hoà hợp quần chúng, khiến muôn dân đoàn kết như một người, như thế gọi là đấng thánh nhân.
(………)
Có đất vuông trăm dặm mà không điều khiển thống nhất được thiên hạ, chế tài được quân tàn bạo, thì không phải bậc đại nho. Bậc đại nho thì dù ở một xóm hẻo lánh, bần hàn, trong một cái nhà tồi tàn nát dột, không có lấy một miếng đất cắm dùi, các bậc vương công cũng không thể tranh lại cái danh được, dù ở ngôi đại phu, cũng không phải một ông vua nuôi nổi, một quốc gia dùng nổi, khi đã thành danh rồi, thì không còn ai sánh kịp, cho nên chư hầu đều muốn vời tới giúp nước, nếu được trị lí trăm dặm đất vuông, thì các nước rộng nghìn dặm không một nước nào địch nổi, có thể cho các nước bạo ngược “ăn roi, ăn vọt”, thống nhất nổi thiên hạ mà chẳng một ai khuynh loát được, đó là những đặc trưng của bậc đại nho. Ngôn ngữ có phép tắc, hành vi hợp lễ nghi, sử sự không lầm lẫn, gìn giữ trong cơn nguy, ứng phó trong lúc biến, nhất thiết đều thích đáng, nương theo biến chuyển của thời đại, bắt thuận trào lưu thế giới, muôn lo toan, nghìn công việc, đều qui hướng về mục tiêu trị bình, đó là thành tựu của bậc đại nho. Gặp cảnh khốn cùng thì đám tục nho chê cười, hiển đạt rồi thì bọn anh kiệt hâm mộ mà cảm hoá theo, lũ ngông cuồng kì quặc gờm mà lẫn trốn, những người đề xướng tà thuyết đều lo sợ, lũ tục nhân đều thẹn thùng. Hiển đạt thì “tề nhất” thiên hạ, khốn cùng thì (chững chạc) đứng riêng một mình, nêu cao cái danh đáng quí của nho giả (Danh dự, tinh thần của một đại nho tồn tại mãi), cho nên trời không thể giết chết, đất không thể chôn vùi, đời bạo Kiệt, đạo Chích không thể làm nhơ bẩn, không phải một đại nho thì ai mà kiến lập được cái danh dự, cái tinh thần ấy, Trọng Ni, Tử Cung chính là bậc đại nho ấy.
Có tục nhân, có tục nho, có nhã nho, có đại nho.
Không có học vấn, không hiểu chính nghĩa, chỉ tôn sùng lợi lộc, giàu sang, như thế gọi là tục nhân.
Mặc áo dài, đai rộng, đội mũ đẹp nhọn, ba hoa mấy câu di ngôn của Tiên vương, đủ làm rối loạn thế tục, học những tà thuyết, cử động lăng xăng, không biết theo chính sự của Hậu vương mà lập chế độ, không biết xem trọng lễ nghĩa hơn sách vở[494], áo mũ, hành vi giống thế tục rồi, mà không biết ghét, ngôn ngữ nghị luận giống Mặc Tử rồi, mà chẳng nhận ra, miệng ca tụng Tiên vương để dối bọn người ngu độn mà cầu miếng cơm manh áo, dành dụm được chút đỉnh đủ để khỏi đói rồi, thì vênh vênh, váo váo, bám lấy thế tử mà thờ phụng bọn tả hữu đang được tin dùng, kết giao với các thượng khách của thế tử, hòng xin được cái chức phụ tá, chỉ mưu đồ cơm áo để yên thân trọn đời, không còn dám có chí nguyện nào khác, như thế gọi là hạng tục nho.
Theo chính sự của Hậu vương, tề nhất chế độ, xem trọng lễ nghĩa hơn sách vở, ngôn ngữ hành vi đã hợp với đại thể, nhưng chưa đủ sáng suốt để ngôn hành không còn sai suyễn mảy may, những gì pháp độ chưa đề cập, mắt chưa thấy, tai chưa nghe, thì vẫn chưa biết loại suy mà không hiểu, biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, trong, không dối mình, ngoài, không dối người, tôn kính người hiền, sợ hãi phép tắc, không dám lười biếng, ngạo mạn, như thế gọi là nhã nho.
Lấy pháp Hậu vương làm phép tắc[495], lấy lễ nghĩa làm căn bản, tề nhất được chế độ, thấy cái nông, suy ra mà nắm vững được cái rộng, thấy cái nay mà suy ra mà nắm vững được cái xưa[496], thấy một, suy ra mà nắm vững được muôn. Về điều nhân nghĩa, còn khéo biết loại suy, thì dù ở giữa đám cầm thú, sự biện biệt tất cũng rất rõ ràng như đen với trắng vậy, những vật kì dị, những biến cố quái gở, chưa từng được trông thấy, chưa từng nghe nói, thốt nhiên phát sinh ở một nơi thì biết thống loại nó, cũng có thể ứng phó, không chút ngần ngại nghi ngờ, dùng phép loại suy mà đoán đúng như ghép hai phần con dấu lại với nhau. Đó là bậc đại nho. Cho nên vị nhân chủ dùng bọn tục nhân thì nước muôn cỗ xe đi đến chỗ diệt vong, dùng bọn tục nho thì nước muôn cỗ xe còn bảo tồn được, dùng bậc nhã nho thì nước nghìn cỗ xe có thể trị yên, dùng bậc đại nho, thì dù đất chỉ vuông trăm dặm cũng vẫn tồn tại lâu dài và, chỉ sau ba năm, là thiên hạ thống nhất, chư hầu qui phục. Nếu được nước muôn cổ xe mà trị, thì chỉ dơ tay là đã ổn định, chỉ một sớm là danh tiếng đã vang lừng trong thiên hạ.
*
Trên đây là phần chính của thiên “công hiệu của một đại nho”, chúng tôi xin dịch thêm hai đoạn nhỏ nữa, liên quan đến:
- Quan niệm của Tuân Tử về đạo,
- Ý kiến của ông về vấn đề trị học, tri và hành.
*
(………)
Đạo của thánh vương là cái mà người nhân theo đạo nho đều quí trọng, theo đường chính mà thực hành.
Thế nào gọi là đường trung chính? – Đó là con đường lễ nghĩa. Gọi là đạo, không phải là cái đạo của trời, không phải là cái đạo của đất, mà là cái đạo do người đặt ra, duy người quân tử theo được. Người quân tử gọi là hiền, không phải là làm được tất cả những gì mọi người làm, người quân tử gọi là trí, không phải là biết tất cả những gì mọi người biết, người quân tử gọi là biện luận giỏi, không phải là biện luận được tất cả những gì mọi người biện luận, người quân tử gọi là sáng suốt, rành mạch, không phải là hiểu rõ ràng, rành mạch tất cả những gì mọi người hiểu rõ ràng rành mạch. Người quân tử là người biết chỗ ngừng – ngừng ở điều lễ nghĩa.
(………)
Ta muốn hèn trở nên sang, ngu trở nên trí, nghèo trở nên giàu được chăng?[497]
Đáp: Phải chẳng chỉ nhờ vào học!
Học mà thực hành được gọi là kẻ sĩ. Thực hành mà cố gắng là người quân tử. Học, biết, làm, được hết, là bậc thánh nhân. Giỏi thì thành thánh nhân, kém thì thành bậc sĩ, quân tử. Ai cấm mình, xưa dốt nát, là một người thường như mọi người, chẳng bao lâu ngang hàng với vua Thuấn, vua Vũ, há chẳng phải là hèn trở nên sang đấy ư? Xưa, cái cửa với cái buồng khác nhau chỗ nào, lờ mờ không biết chắc, chẳng bao lâu, hiểu được nhân nghĩa là gốc, phân biệt được phải trái, việc thiên hạ, có thể xoay trên bàn tay, dễ như phân biệt được đen với trắng, há chẳng phải là ngu trở nên trí đấy ư? Xưa, xơ xác trống trơn, chẳng bao lâu, có đủ cái tài bình trị thiên hạ, há chẳng phải nghèo trở nên giàu đấy ư? (………) Cho nên người quân tử không có tước vị mà sang, không có bổng lộc mà giàu, không nói mà người tin, không giận mà uy nghiêm, cùng khốn mà được quí trọng, lẻ loi mà vẫn vui vẻ. Há chẳng phải cái cực sang, cực giàu, cực trọng đại, cực uy nghiêm, ở cả trong sự học tập (nho thuật) đấy ư? Cho nên nói: “Cái danh tốt đẹp của người học tập nho thuật, - cái danh mà người ta quí trọng ấy, chẳng kéo bè mà tranh được, chẳng thể khoe khoang, bịp bợm mà có được, chẳng thể dùng uy thế hiếp bách mà được”. Tất là phải thành thực học tập mà cái danh đó mới đến, mà hễ tranh thì mất, nhường mới được, khiêm cung thì càng tích tụ, khoe khoang, bịp bợm thì thành trống rỗng (chỉ là hư danh). Cho nên người quân tử, trong, chăm sửa mình, ngoài lo khiêm nhường, cốt tích đức nơi thân mà hành xử theo đạo. Như thế thì danh sẽ sánh như mặt trăng, mặt trời, tiếng thiên hạ hoan hô vang dậy như sấm sét.
(………)
[492] Các bản trên mạng chép là: “dân đức” (民德); sách in sai thành “nhân đức”. (Goldfish).
[493] Không ngừng: Nguyên văn chữ Hán: “Hạ bất năng khai đạo bất dĩ, nhược giả như thị…” [下則能開道不已,若者如是…]. Theo Vương Trung Lâm thì là: “Khai đạo bất nhược kì giả…”, (tức cho rằng “kỉ” ([己]) lầm ra dĩ ([已]) và “nhược” in lộn xuống dưới), nghĩa là dưới thì có thể dẫn dắt những kẻ không bằng mình.
[494] Sách vở: Nguyên văn chữ Hán: “Bất tri trọng lễ nghĩa nhi sái thi thư” (不知隆禮義而殺詩書). Các nhà chú giải cho chữ “sái” là do chữ “đôn” (敦: đôn đốc) viết lầm. Riêng Phương Hiếu Bác cho “sái” đúng là “sái”, nghĩa là “ấn xuống” (ức 抑). Chúng tôi theo họ Phương.
[495] Phép tắc: Nguyên văn chữ Hán: “Pháp tiên vương”, nghĩa là “lấy tiên vương làm phép tắc”. Tuân Tử vốn chủ trương “pháp hậu vương” (lấy các hậu vương làm phép tắc) cho nên có thể tin chắc rằng ở đây có sự sai lầm: “hậu” lầm ra “tiên”. Lư Văn Siêu, Tạ Dung, Diệp Ngọc Lân cũng nghĩ như vậy.
[496] Cái xưa: Nguyên văn chữ Hán: “Dĩ cổ trì kim”. Dương Lạng, Lư Văn Siêu, Tạ Dung và Diệp Ngọc Lân đều cho rằng có sự sao lầm: Đúng ra là “Dĩ kim trì cổ”.
[497] Sách in: “Ta muốn hèn trở nên sang, ngu trở nên quí (nghèo trở nên sang được chăng?”, tôi tạm sửa lại như trên. Các bản trên mạng chép: “Ngã dục tiện nhi quí, ngu nhi trí, bần nhi phú, khả hồ? (我欲賤而貴,愚而智,貧而富,可乎?). (Goldfish).