← Quay lại trang sách

CHẾ ĐỘ CỦA THÁNH VƯƠNG (Vương chế)

Trong sách Tuân Tử, có đến bảy, tám thiên chuyên bàn về chính trị. “Vương chế” có thể coi là đại biểu cho các thiên thuộc loại “chính trị” này.

Chúng tôi chỉ trích dịch những đoạn chính yếu, liên quan đến:

- Chế độ chính trị của vương giả,

- Cái gốc lớn của “vương chính”, lễ, nghĩa.

- Những dị đồng giữa vương và bá, và

- Những cơ hưng vong, đắc thất của chính sách trị dân.

*

* *

Xin hỏi về đạo trị nước.

Đáp: Người hiền tài thì được cất nhắc, chẳng cần theo thứ tự quan trật, người kém cỏi, bất lực thì sa thải ngay, những quân đại gian, đại ác thì giết phứt, chẳng cần giáo hoá, với những người dân bình thường dễ dạy thì dùng giáo hoá, chẳng cần hình phạt. Khi danh phận chưa phân định thì lấy vai vế và khả năng làm tiêu chuẩn phân định. (Ngôn hành mà) không hợp với lễ nghĩa thì dù là con cháu vương công, đại phu cũng gạt xuống hàng thứ nhân, con cháu hạng thứ nhân mà chính trực, có văn học, tài năng và hợp với lễ nghĩa thì cũng được liệt vào hàng khanh tướng, đại phu, sĩ, những kẻ nói xằng, làm bậy, đào vong, phản trắc, không yên phận thì cho họ phụ trách mỗi người một chức nghiệp nhất định, giáo dục cho họ theo chức nghiệp riêng của từng người, trừng giới họ bằng hình phạt, nếu họ không yên phận làm tròn nhiệm vụ thì nuôi, bằng không thì đuổi. Có năm hạng người tật nguyền là câm, điếc, què, cụt, lùn nhỏ quá, nhà nước phải tu dưỡng và sử dụng họ tuỳ từng khả năng, cho họ cơm ăn, áo mặc, - làm sao cho dân chúng, ai cũng được mang ơn, không một ai bỏ sót. Tài năng và hành vi nghịch thường thì giết không tha. Như thế thì hợp với cái đức che chở, nuôi nấng của trời. Đó là chính sự của đấng vương giả.

Điều tối trọng đại trong chính trị là xét đoán cho minh: người đến với mình thiện thì lấy lễ tiếp đãi, không thiện thì dùng hình mà đối xử. Như vậy, tốt xấu sẽ không lẫn lộn, phải trái sẽ không rối loạn. Tốt xấu không lẫn lộn thì người anh kiệt sẽ đến với mình, phải trái không rối loạn thì quốc gia trị bình, như vậy thanh danh sẽ sáng tỏ trong thiên hạ, người trong thiên hạ sẽ đều ái mộ, hoan nghênh, chính lệnh ban ra sẽ được thi hành, những hành vi gian tà sẽ bị cấm tuyệt, và như vậy, là chính sự của đấng vương giả cũng được hoàn tất. Phàm người trên oai nghiêm, cứng rắn, chẳng tỏ thái độ khoan hoà mà dẫn dụ, thì kẻ dưới sẽ sợ sệt, chẳng dám gần gũi, khép kín mà chẳng chịu cởi mở, phát biểu, kẻ dưới đã sợ sệt nín thinh chẳng dám nói ra, thì việc lớn sẽ bỏ bê, việc nhỏ làm bừa. Một mực khoan hoà mà không biết cự tuyệt, chỉ ưa dẫn dụ mà không định cái lằn mức phải ngừng, thì những người sai ngoa, dò ướm ùa tới như ong vỡ tổ, việc phải xét sẽ nhiều và càng thêm rối chuyện, chỉ sinh hại cho chính sự mà thôi. Cho nên có pháp độ mà không thảo luận thêm thì pháp độ không bao quát hết, sẽ còn kẻ hở, pháp độ mà bỏ sót, không tới khắp thì hỏng. Chỉ lo làm hết chức vụ là yên tâm, chứ không thấy rõ những việc tuy ngoài phận sự nhưng đồng loại với việc mình phụ trách, thì những việc này tất bị bỏ bê. Có pháp độ rồi, lại thảo luận thêm, làm chức vụ rồi, còn phải thấy rõ mà quán xuyến cả những việc đồng loại với việc mình phụ trách, không một mưu mô nào bị giấu nhẹm, không một việc thiện nào bị bỏ quên, trăm việc đều đúng, đều phải, không phải người quân tử không làm sao làm được vậy. Vì vậy, công bằng là cái cần cho chức vụ, trung hoà là dây mực cho chính sự. Pháp độ có dự liệu thì theo pháp độ mà làm, pháp độ không dự liệu thì căn cứ vào pháp độ, suy rộng ra mà làm, đó là chấp hành chính sự hay nhất. Thiên tư, không công bằng mà bất chấp phép thường, đó là cách chấp hành chính sự cong queo, tồi tệ nhất. Pháp độ hay mà vẫn loạn, điều đó vẫn có, có người quân tử cầm quyền chính mà lại loạn thì chuyện đó xưa nay chưa từng nghe nói bao giờ. Sách xưa có câu:

“Trị an là nhờ người quân tử, rối loạn là tại kẻ tiểu nhân”

là nghĩa như vậy.

Sang hèn mà cho hưởng bằng nhau thì không có đủ mà chia khắp được, thế vị ngang nhau thì không thống nhất, mọi người đều “cá mè một lứa” thì không điều khiển, chế tài được. Có trời, có đất thì có trên dưới, đấng minh vương mới dựng nghiệp, trị nước, tất phải phân đẳng cấp. Hai người quí hiển ngang nhau thì không thờ nhau, hai người thấp hèn ngang nhau thì không sai bảo được nhau, đó là “định số” của thiên đạo tự nhiên. (Là bởi) vị thế ngang cho cả hai người thì tất sinh ra tranh giành, tranh giành thì loạn, loạn thì vật dụng hết mà lâm cảnh khốn cùng. Đấng Tiên vương ghét loạn, cho nên mới chế ra lễ để phân định danh phận, cho có thứ bậc giữa kẻ giàu, người nghèo, giữa kẻ sang, người hèn, nơi nơi trật tự được thiết lập, người người vật dụng được đủ dùng, đó là phép tắc căn bản nuôi dân, trị dân vậy. Kinh Thư nói:

“Có sai đẳng thì mới có tề nhất (trật tự)”[498]

chính là nghĩa thế.

Ngựa sợ xe thì người quân tử[499] (ngồi xe) không yên chỗ, dân sợ chính sự thì người quân tử (trị dân) không yên ngôi. Ngựa sợ xe thì không gì bằng trấn tĩnh lòng ngựa, dân sợ chính sự thì tốt hơn hết là thuận lòng dân[500], chọn người hiền lương, cất nhắc người chăm chỉ, cẩn thận, có lễ độ, chấn hưng nết hiếu đễ, thu dùng những con côi, vợ goá, bù đắp cho những kẻ cùng bần, như vậy thì người dân sẽ yên tâm, không sợ chính sự. Dân yên tâm với chính sự thì người quân tử mới yên ngôi. Sách cũ:

“Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền, mà nước cũng lật thuyền”

là ý nói như vậy. Cho nên, vua muốn trị yên thì tốt hơn hết là chính sự phải cho công bằng, phải yêu dân, vua muốn vẻ vang, thì tốt hơn hết là tôn trọng lễ nghi, kính chuộng kẻ sĩ, vua muốn lập công, thành danh, thì tốt hơn hết là đề cao người hiền, tin dùng người tài. Đó là ba cái đại tiết của đấng nhân chủ. Ba đại tiết đó, giữ được đúng thì kì dư đều đúng hết, ba cái đại tiết đó không giữ được đúng thì kì dư, dù có đúng mấy cũng bằng vô ích. Ông Khổng Tử nói: “Đại tiết giữ đúng, tiểu tiết giữ đúng, là bậc thượng quân (nhân chủ bậc trên), đại tiết giữ đúng, tiểu tiết có cái giữ đúng, có cái không, là bậc trung quân (nhân chủ bậc giữa), đại tiết không giữ đúng, thì tiểu tiết dù có giữ đúng, ta cũng không cần xét đến những hành vi khác”. Thành hầu và Tử công[501] là những ông vua bòn rút, bo siết, chưa đủ để trị (tức dùng được) dân, Tử Sản[502] là người trị dân được mà chưa đủ để dùng chính trị trị nước, Quản Trọng[503] là người dùng chính trị trị nước mà chưa đủ sửa sang lễ mà giáo hoá dân. Sửa sang lễ mà giáo hoá dân thì có thể thành nghiệp vương, dùng chính trị mà trị nước thì có thể phú cường, trị được dân thì có thể trị an, bo siết, bòn rút của dân thì diệt vong. Nước của vương giả, dân chúng giàu, nước của bá giả, quân đội giàu, nước ngắc ngoải nhưng còn tồn tại được, các đại phu giàu, nước diệt vong, rương, tủ, kho, đụn “giàu”. Rương, tủ giàu, kho, đụn đầy mà trăm họ nghèo thì khác nào (một vật chứa nước) trên đầy dưới thủng, (mấy lúc mà cạn khô)! Trong, không hay phòng thủ, ngoài, không chống nổi địch, thì cái cảnh sụp đổ, diệt vong, có thể đứng đó mà chờ. Thế là bòn rút để ta diệt vong, cho nên địch chiếm lấy để địch giàu thịnh. Bòn rút của dân là cái đạo mời mọc kẻ thù, nuôi béo quân địch, mất nước mà nguy thân, cái đạo ấy, người nhân chủ sáng suốt chẳng bao giờ theo.

Bậc vương giả tranh thủ nhân tâm, bậc bá giả tranh thủ cảm tình nước bạn, bậc cường giả tranh đất đai. Tranh thủ nhân tâm thì được chư hầu thờ, tranh thủ cảm tình nước bạn thì được chư hầu thân mến, tranh đất đai thì bị chư hầu coi là thù địch. Được chư hầu thờ mà thành nghiệp vương, được chư hầu thân mến thì thành nghiệp bá, bị chư hầu coi thù địch thì nguy. Thành địch, địch giữ, quân địch chống đánh, vậy mà ta thủ thắng bằng sức mạnh thì tất làm cho dân chúng nước địch thương vong nhiều. Làm cho dân chúng nước địch thương vong nhiều, thì dân chúng nước địch tất oán ghét ta lắm, dân chúng nước địch oán ghét ta lắm thì nhất định muốn “sống mái” với ta. Thành địch, địch giữ, quân địch chống đánh, vậy mà ta thủ thắng bằng sức mạnh thì tất làm cho dân chúng ta thương vong nhiều, làm cho dân chúng ta thương vong nhiều, thì dân chúng ta oán ghét ta lắm, dân chúng ta oán ghét ta lắm thì nhất định không muốn vì ta mà đấu tranh. Dân chúng địch muốn “sống mái” với ta, dân chúng ta không muốn vì ta tranh đấu, thế là mạnh trở thành yếu, đất “lại” mà dân đi, luỵ nhiều mà công ít, tuy đất tăng mà dân giữ đất giảm, thế là lớn trở thành nhỏ. Chư hầu chẳng nước nào là chẳng nghĩ củng cố những tình hữu nghị sẵn có, giao tiếp cả với những nước họ vốn không ưa, để đối phó với ta, - kẻ thù lớn mà họ không quên được, (chư hầu) rình rập những kẻ hở của nước lớn mạnh, thừa chỗ yếu kém, hỏng nát của nước lớn mạnh mà gây hấn, đó là lúc nguy nan của nước lớn mạnh đấy. Hiểu đạo phú cường thì không chăm thủ thắng bằng sức mạnh. Đạo đó, đại để, là vâng mệnh lệnh của thiên tử, bảo toàn thực lực cho mạnh và sửa đức cho vững, thực lực bảo toàn, thì chư hầu không làm cho yếu được. Chỉ cần thiên hạ không có vương giả, bá giả là cường giả thường thắng, vì cường giả hiểu cái đạo phú cường. Bá giả thì không thế: khai khẩn ruộng nương, tích trữ đầy kho đụn, chuẩn bị đầy đủ khí giới, dụng cụ, chiêu mộ, lựa chọn một cách nghiêm cẩn những sĩ tốt tinh thông võ nghệ, rồi tưởng lệ để khuyến miễn, trừng phạt để sửa sai, giữ gìn những nước đang suy vong, bảo tồn những dòng họ sắp tuyệt diệt, hộ vệ kẻ yếu kém, ngăn cấm kẻ bạo tàn, mà không rắp tâm kiêm tính họ, thì chư hầu sẽ thân yêu và qui phụ. Sửa sang cái đạo hoà thuận, thương mến đối với các nước láng giềng, kính cẩn giao tiếp với các nước chư hầu, thì các nước chư hầu đẹp lòng. Sở dĩ chư hầu thân với ta là vì ta không có lòng kiêm tính họ. Hễ ta có lòng kiêm tính thì chư hầu xa ta hết. Sở dĩ chư hầu đẹp lòng, vì ta hoà thuận, có lòng thương mến đối với các nước láng giềng. Đãi ngộ chư hầu như bầy tôi thì chư hầu rời bỏ ta. Cho nên nếu ta tỏ rõ bằng hành động cái lòng không kiêm tính, khiến cho chư hầu tin tưởng vào thành tâm hoà thuận, thương mến của ta đối với họ, thì hễ thiên hạ không có vương giả là ta thắng, - vì ta hiểu cái đạo của bá giả. Mân vương nước Tề bị quân năm nước diệt[504], Hoàn công nước Tề bị Trang công nước Lỗ uy hiếp[505], nguyên do có khác gì đâu, chỉ tại tính làm vương giả mà không biết cái đạo của vương giả. Bậc vương giả thì không thế. Nhân hơn thiên hạ, nghĩa hơn thiên hạ, uy hơn thiên hạ, nhân hơn thiên hạ, cho nên thiên hạ ai cũng thân yêu, nghĩa hơn thiên hạ, cho nên thiên hạ ai cũng quí trọng, uy hơn thiên hạ, cho nên thiên hạ không ai dám đối địch. Có cái oai vô địch lại có thêm nhân nghĩa cảm phục lòng người, cho nên chả phải đánh mới thắng, chả cần tiến công mà vẫn được đất đai, chả làm nhọc sức binh mà thiên hạ vẫn tòng phục. Là vì hiểu vương đạo.

Biết ba đạo ấy thì muốn làm vương giả được thành vương giả, muốn thành bá giả được thành bá giả, muốn thành cường giả được thành cường giả.

Bậc vương giả, cử động tất hợp lễ nghĩa, xét đoán tất theo pháp độ, việc dù nhỏ nhặt, cũng thấy rõ ràng, tuỳ cơ ứng biến mà chẳng bao giờ để bị hãm vào thế cùng. Thế là nắm được cái gốc, đáng gọi là bậc vương giả.

Luận về vương đạo thì chế độ của vương giả không dựa theo cái đạo đã có từ trước đời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) mà chỉ theo phép tắc của các Hậu vương. Dựa theo đạo đã có từ đời Tam đại, gọi là “đãng” (bấp bênh không chắc), không theo phép tắc của Hậu vương, gọi là “không nhã”. Áo quần, theo định chế, nhà cửa, theo định qui, binh lính, có định số, đồ dùng vào việc tang chế, đều theo đẳng cấp. Âm thanh, hễ không thanh nhã, chính đáng, thì trừ bỏ hết, màu sắc, hễ xưa chưa từng có phải cấm chỉ, đồ dùng, hễ xưa chưa từng có, thì đều huỷ bỏ hết. Thế gọi là phục cổ, thế là chế độ của đấng vương giả.

Về phép luận người, xếp việc của đấng vương giả thì người không có đức không được tôn quí, người không có tài không được dùng làm quan, người không có công không được ban thưởng, người không có tội không được trừng trị, chốn triều đình, không có người vì được may mà được chức vị, nơi dân gian, không có người vì may mà được tạm sống, quí người có đức, dùng người có tài, chức vị mọi người đều xứng với khả năng. Giết bỏ quân bạo ngược, ngăn ngừa kẻ hung hãn mà hình phạt không nghiêm khắc thái quá. Trăm họ đều biết rằng làm điều thiện ở nhà thì được thưởng ở triều, làm điều bất lương trong vòng lén lút, thì cũng bị trừng phạt một cách minh bạch, công khai. Đó là phép dùng người, xếp bậc bất di bất dịch, đó là phép luận người của đấng vương giả.

Phép tắc của đấng vương giả chỉnh đốn dân sự, thuế khoá chia thành đẳng cấp, chế hoá muôn vật mà nuôi nấng dân. Thuế ruộng thì sản lượng thu một phần mười, nơi thị tứ, cửa quan thì tra xét kẻ gian phi, chớ không đánh thuế, nơi núi rừng, đầm lầy, đập cá thì ấn định thời kì, cấm chỉ hoặc cho phép đốn cây, đánh cá mà không đánh thuế, xem xét đất tốt xấu mà đánh thuế ngạch, tuỳ đường đất xa gần mà bắt tiến cống, của cải phải lưu thông, thóc gạo không được để ứ động, phải chuyển vận, bán ra cho người trong bốn bể như chung một nhà, đều có mà dùng. Thế cho nên người ở gần chẳng giấu tài năng, người ở xa chẳng phải vất vả, chạy vạy. Dù là những nước ở nơi xa xôi, hẻo lánh, chẳng nước nào là chẳng vui lòng để cho đấng vương giả sai sử và yên vui với nền chính giáo theo vương đạo. Thế gọi là “nhân sư” – bậc trưởng thượng của nhân dân, - thế gọi là phép tắc của bậc vương giả.

Biển Bắc có ngựa hay, chó tốt, mà Trung Quốc (nước của bậc vương giả) được chăn nuôi, sử dụng, biển Nam có lông chim, ngà voi, da tê, da bò rừng mà Trung Quốc được thu làm vật liệu, biển Đông có “sợi tì”, “sợi cát”[506], có cá, có muối mà Trung Quốc được lấy làm quần áo, thức ăn, biển Tây có da gấu, da chồn, có đuôi bò tót đen, mà Trung Quốc được đem về làm đồ dùng. Thế cho nên dân miền sông nước có đủ gỗ, dân miền núi rừng có đủ cá, người làm ruộng chẳng đẽo đục, nặn nung mà có đủ bàn ghế, bát đĩa, người làm thợ, kẻ đi buôn chẳng cày cuốc mà đủ ngô (bắp), gạo. Hổ beo tuy dữ, người quân tử vẫn lột được da mà dùng, muôn loài đất chở, trời che, loài nào cũng nảy nở tốt đẹp để cung phụng loài người: trên, trang sức cho các bậc hiền lương, dưới, nuôi nấng muôn dân, trăm họ; nhờ đó, mọi người đều được yên vui. Thế gọi là cực trị. Kinh Thi nói:

Trời sinh ngọn núi cao này,

Thái vương khai khẩn mà rầy Văn vương,

Làm nhà, dựng cửa khang trang.[507]

là ý như vậy.

Nắm được thống loại, cương lãng thì hết lo tạp đa. Một chạy thì mười lọt. Từ đầu đến cuối[508], cuối trở lại đầu, trước sau chẳng rời, vương đạo như chiếc vòng không đầu, không cuối, trái với cái đạo ấy thì thiên hạ loạn. Trời đất là gốc sinh vật, lễ nghĩa là gốc trị đạo, quân tử là gốc lễ nghĩa. Một người quân tử phải học tập (lễ nghĩa), học tập kì cùng, học thêm hoài chẳng chán thì mới thành người quân tử. Trời đất sinh ra người quân tử, người quân tử sửa trị trời đất. Người quân tử là người tham hợp trời đất (để hoá dục mọi người), thống lãnh vạn vật, là cha mẹ của dân. Không có người quân tử thì trời đất không được sửa trị, lễ nghĩa không có đầu mối, trên không còn nghĩa quân sư, dưới không có tình phụ tử. Như thế là cực loạn. Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, từ đầu đến cuối, cuối trở lại đầu, vốn cùng với cái lí “trời đất hoá dục” là một, cùng trường cửu với muôn đời, đó là cái gốc lớn nhất[509]. Cho nên đặt ra lễ tang tế, triều sính, là để tề nhất mọi người trong việc đảm đương chức vụ, phân tôn ti, quí tiện, hoặc giết chết, hoặc để sống, hoặc tước đoạt, hoặc ban tặng là để tề nhất khuyến khích mọi người làm điều thiện, tránh điều ác, cổ xuý nghĩa vua tôi, cha con, anh em, để ai hết đạo ấy, là để tề nhất giữ gìn ân tình[510].

Nước lửa có khí mà không có sinh (không phải là sinh vật), cây cỏ có sinh mà không có tri giác, cầm thú có tri giác mà không có nghĩa, con người thì có đủ bốn cái đó: khí, sinh, tri giác, nghĩa, cho nên quí hơn vạn vật nhiều. Người ta, sức không bằng con trâu, chạy, không bằng con ngựa, thế mà con trâu, con ngựa đều bị người ta dùng là tại đâu? – Tại sao người ta giỏi hợp quần mà trâu ngựa không giỏi hợp quần? Đáp: Lấy sự phân biệt trên dưới. Sự phân biệt trên dưới làm sao mà thi hành được? Đáp: Là nhờ có nghĩa. Cho nên lấy nghĩa mà phân biệt trên dưới thì hoà, hoà thì hợp làm một, hợp làm một thì có nhiều sức, có nhiều sức thì mạnh, mạnh thì thắng được vật, cho nên có cung thất mà được ở yên. Thuận theo bốn mùa, thành tựu vạn vật, làm lợi cho cả thiên hạ, được như vậy, không nhờ chi cả mà chỉ là nhờ sự phân biệt trên dưới có nghĩa. Con người ta sống, không thể không hợp quần, hợp quần mà không phân biệt trên dưới thì sinh ra tranh giành, tranh giành thì rối loạn, rối loạn thì li tán, li tán thì yếu, yếu thì không thắng được vật, cho nên có cung thất mà chẳng được yên. Thế là con người ta chẳng thể một lúc bỏ lễ nghĩa được. Biết lấy lễ nghĩa mà thờ cha mẹ là hiếu, biết lấy lễ nghĩa mà thờ anh là đễ, biết lấy lễ nghĩa mà thờ người trên là thuận, biết lấy lễ nghĩa sai người dưới là vua. Vua là người khéo hợp quần. Đạo hợp quần giữ đúng, thì vạn vật đều đắc nghi (được thoả mãn, nhã ý), lục súc đều được nuôi nấng mà sinh sôi nẩy nở, mọi sinh vật đều được yên ổn mà sống cái đời của mình. Nuôi nấng đúng mùa thì lục súc nẩy nở, đẵn chặt đúng mùa thì cây cỏ tốt tươi, chính lệnh hợp thời thì trăm họ thống nhất, những người hiền lương phục tùng. Đó là phép của bậc thánh vương. Lúc cỏ cây đương lớn tốt, thì cấm rìu búa không được vào rừng, làm cho nó thui chột, ba ba, cá, ếch, lươn, chạch đang thời chửa đẻ, thì vó lưới, thuốc độc không được vào vùng đồng nước, làm hại việc sinh nở, đời sống và sự trưởng thành trưởng của chúng, mùa xuân, cày, mùa hè, làm cỏ, mùa thu, gặt, mùa đông, tích trữ, bốn việc ấy không làm trái mùa, cho nên năm giống thóc không khan mà trăm họ dư ăn. Chuôm, ao, hồ, vực, sông, chằm, ra nghiêm lệnh chỉ cho khai thác có mùa, cho nên cá, ba ba nhiều mà trăm họ dư dùng, còn bán ra, trồng trọt, đẵn chặt không trái mùa, cho nên rừng núi không trụi trọc mà trăm họ có dư gỗ. Thánh vương thuận theo thiên thời mà làm tăng trưởng địa sản, trong khoảng trời đất, vạn vật nhờ vậy đều được an sở. Ý nghĩa của lễ nghĩa tuy nhiệm nhặt mà công dụng của lễ nghĩa thật rõ ràng, phạm vi áp dụng của lễ nghĩa, trong không gian, thời gian, tuy hẹp, ngắn, mà ảnh hưởng của lễ nghĩa thật rộng rãi, sâu xa. Công dụng, ảnh hưởng của lễ nghĩa trong việc trị nước thật là lớn lao thần hiệu, mà căn bản của lễ nghĩa lại rất giản ước. Cho nên nói rằng: “Hành động tề nhất, chẳng rời lễ nghĩa, con người cứ thế mà làm thì gọi là thánh nhân”.

*

(……..)

Có cái đạo của vương giả thì dựng nên vương nghiệp, có cái đạo của bá giả thì dựng nên nghiệp bá, có cái đạo để tồn tại an toàn, có cái đạo đưa đến diệt vong. Một nước muôn cổ xe, uy lực sở dĩ củng cố, danh tiếng sở dĩ tốt đẹp, quân dịch sở dĩ khuất phục, quốc thể sở dĩ yên hoặc nguy, hay hoặc dở, đều là tại cái đạo mà nước ấy có, chứ không tại (nước) người. Vương hay bá, tồn tại an toàn hay nguy khốn hoặc diệt vong, tất cả đều tại nơi ta, chứ không phải tại nơi người. Uy lực chưa đủ để làm cho nước láng giềng nguy khốn, danh tiếng chưa đủ để cầm cân nẩy mực cho thiên hạ thì chưa đủ để độc lập, đâu dám vội nói là khỏi lo hoạ luỵ. Đợi đến lúc thiên hạ bị nước bạo ngược bách hiếp rồi mới biết rằng không nên hành sự như cái ông vua Kiệt xằng bậy, mà nên theo đạo của những bậc thánh vương như vua Nghiêu thì e quá muộn mất. Lúc đó không còn là lúc để thành tựu công nghiệp và thanh danh, tồn vong, an nguy chẳng tuỳ thuộc lúc đó. Cái lúc để thành tựu công nghiệp, thành danh, cái lúc mà sự tồn vong, an nguy tuỳ thuộc, tất là lúc quốc gia đang thịnh, đang vui. Ngay từ những ngày thịnh trị, nếu thành tâm theo đạo vương giả mà trị nước thì cũng thành vương nghiệp, nếu theo cái đạo nguy khốn, diệt vong thì cũng nguy khốn, diệt vong. Lúc quốc gia đang thịnh, hãy trung lập, không thiên theo chủ trương tung hoành mà án binh bất động, ngồi xem các nước cường bạo tranh giành nhau. Ung dung sửa sang nền chính giáo cho hẳn hoi, giữ cho phong tục lành mạnh, chừng mực, giùi mài trăm họ, lúc đó binh lực của mình sẽ mạnh hơn thiên hạ, ung dung sửa sang và hết sức sùng thượng điều nhân nghĩa, định phép tắc cho công bằng, chọn dùng người hiền lương, chăm nuôi trăm họ, lúc đó danh tiếng của mình sẽ tốt đẹp hơn thiên hạ. Quyền thế cho lớn[511], binh lực cho mạnh, danh tiếng cho tốt, như thế thì dù là cái đạo tề nhất thiên hạ của vua Nghiêu, vua Thuấn đi nữa, cũng chẳng tốt đẹp hơn.

Những kẻ quyền mưu lật lọng rút lui thì những người hiền lương, bậc thánh trí tự nhiên lại với, hành chính công bằng, trăm họ hoà hợp, phong tục lành mạnh chừng mực, binh lực hùng cường, thành quách kiên cố thì nước địch tự nhiên khuất phục. Chăm lo những công việc căn bản, dành dụm, tích trữ của cải, vật dụng, mà đừng trễ tràng, buông vung bỏ vãi,, khiến thần dân ai nấy đều hành xử đúng phép, thì của cải vật dụng có thể súc tích, quốc gia tự nhiên phú cường. Làm được ba điều đó[512] mà thiên hạ phục tòng rồi thì tự nhiên ông vua kia, dù có cường bạo, cũng không thể động binh. Tại sao vậy? – Tại không ai giúp họ. Người giúp họ tất phải là dân của họ, mà dân của họ đều thân với ta, hoan nghênh, yêu mến ta như hoan nghênh, yêu mến cha mẹ, thích thú ta như thích thú cỏ chi, cỏ lan. Ngoái nhìn lại vua quan của họ, họ thấy chúng tàn khốc như lửa đốt, dao rạch, dữ dằn chẳng khác kẻ thù. Con người ta dù hư hỏng như vua Kiệt, đạo Chích, cũng chẳng ai lại giúp đứa mình ghét hờn mà làm hại người mình yêu mến, thích thú. Thế, chẳng phải là dân của họ bị ta cướp đoạt rồi sao? Cho nên, xưa, có người chỉ có một nước mà rồi lấy được cả thiên hạ. Chẳng phải tranh đoạt mà được đâu: Sửa sang nền chính giáo, hợp với ý nguyện mọi người là có thể giết quân bạo ngược, cấm quân hung hãn. Cho nên ông Chu công xuống Nam chinh thảo, thì dân các nước phương Bắc oán thán: “Sao không đến đây trước tiên!” Sang Đông chinh thảo, thì dân các nước phương Tây oán thán: “Sao đến đây sau cùng!” Người được thiên hạ cảm phục như vậy, ai mà địch nổi? Ai còn dám chống? Trị nước như thế thì thành vương nghiệp. Những ngày thịnh trị, để quân yên, cho dân nghỉ, thương yêu trăm họ, khai khẩn ruộng nương, chất chứa kho đụn cho đầy, để khi cần đến sẵn có, chiêu mộ kẻ sĩ tài giỏi, rồi dùng trọng thưởng để khuyến miễn, dùng nghiêm hình mà phòng ngừa, lựa chọn những người thấu hiểu sự lí, cho họ lãnh đạo, vì thế mà được yên ổn (………)

Quân trang, khí giới, người ta hằng ngày bỏ vung vãi, mục nát ngoài đồng, ta thì sửa chữa giữ gìn, tập trung vào kho đụn, của cải, thóc gạo, người ta hằng ngày, bỏ bừa bãi ngoài đồng, ta thì gom góp, chất chứa vào kho đụn, trong khi người ta đưa ra mặt trận tiêu hao hết những sĩ tốt dũng mãnh tài giỏi thì ta tuyển mộ những người khoẻ mạnh, lựa chọn cho tập luyện để dùng trong chính phủ. Như thế thì người ngày một suy nhược mà ta ngày một vững mạnh, người ngày một bần cùng mà ta ngày một phong túc, người ngày một mệt mỏi, ta ngày một an nhàn, vua tôi họ trên dưới ngày một lục đục, hục hặc, oán hờn, phản bội nhau, mà ta thì trên dưới ngày thêm thuận hoà, yêu mến nhau, cứ thế đợi người nguy khốn, trong khi mình tự lo trị bình, thì sẽ thành bá nghiệp. Lập thân theo thế tục, hành sự theo đạo thường, lúc tiến, lúc lui, khi thăng, khi giáng, đều cất nhắc tin dùng kẻ sĩ, tiếp đãi người dưới, với dân chúng tỏ lòng khoan dung, cưu mang, như thế thì được an toàn, tồn tại. Lập thân thì phù bạc, nhu nhược, hành sự thì đa nghi, lúc tiến lúc lui, khi thăng khi giáng thì ưa gần gụi lũ tiểu nhân, bọn phỉnh nịnh, tiếp đãi người dưới, dân chúng thì vơ vét, bóc lột, trị nước mà như thế thì nước tất nguy khốn. Lập thân thì kêu ngạo, bạo ngược, hành sự thì hay phản phúc, lúc tiến, lúc lui, khi thăng khi giáng thì cất nhắc những quân hiểm độc, gian trá, tiếp đãi người dưới và dân chúng thì bạc bẽo, bắt làm ốm xác mà không biết công lao, ưa dùng những đứa giỏi đục khoét làm tiền cho mình mà quên những công việc căn bản (làm ruộng, nuôi tằm), trị nước mà như thế thì nước tất diệt vong. Năm điều vừa nói đó, không thể không lựa chọn kĩ càng. Đó là những điều kiện đầy đủ để thành vương nghiệp, bá nghiệp, để an toàn tồn tại hay nguy khốn hoặc tiêu vong. Lựa khéo thì tài chế được người, không khéo thì bị người tài chế, lựa chọn khéo thì nên vương nghiệp, không khéo thì bị diệt vong. Dựng nên vương nghiệp và bị diệt vong, chế tài người và bị người tài chế, những cái đó khác nhau thật xa.

[498] Tề nhất (trật tự): thiên Lữ hình. Nguyên văn chữ Hán: “Duy tề phi tề” 惟齊非齊. [Chữ “duy”, các bản trên mạng chép là: 維. (Goldfish)].

[499] Quân tử: ở đây trỏ vua, người cầm quyền trị dân.

[500] Thuận lòng dân: Nguyên văn là “Huệ chi” ([惠之]). Có lẽ nên hiểu là: “tỏ lòng nhân với dân”, vỗ về dân.

[501] Thành hầu, Tử công: hai ông vua nước Vệ (Trung Quốc). Sách Hàn Phi Tử, thiên Nội trừ thuyết thượng: “Tử công nước Vệ trọng Như Nghĩ, yêu Tiết Cơ, nhưng sợ họ được trọng, yêu thì sẽ lấn mình, nên lại quí Bạc Nghi để chọi lại Như Nghĩ, tôn Nguỵ phi để chọi lại Tiết Cơ”, và: “Tự công nước Vệ sai người đem hàng qua cửa quan bán và bảo người ấy, nhân cơ hội, đút tiền cho người coi cửa quan. Người coi cửa quan cho qua. Tự công đòi người coi cửa lại hỏi tội. Người coi cửa quan sợ quá, cho Tự công là sáng suốt”.

[502] Tử Sản: Tên tự của Công Tôn Kiều, đại phu nước Trịnh, đời Xuân Thu, học rộng, nghe nhiều, trị dân vừa khoan vừa dữ. Sách Lễ Kí nói: “Tư Sản như mẹ dân chúng, biết nuôi mà không biết dạy”.

[503] Quản Trọng: Tức Quản Di Ngô, tướng quốc nước Tề, đời Xuân Thu, giúp Tề Hoàn Công “củ hợp chư hầu”, dựng nên nghiệp bá.

[504] Diệt: Sách Sử Kí chép: Năm thứ 40 đời Tề Mân vương, Nhạc Nghị cầm quân năm nước Yên, Triệu, Sở, Nguỵ, Tấn phá nước Tề. Mân vương phải chạy sang nước Cử.

[505] Lỗ uy hiếp: Xuân Thu (Công Dương truyện): Tề Hoàn công bị bầy tôi của Lỗ Trang công là Tào Mạt uy hiếp trong một cuộc hội minh ở đất Kha.

[506] Sợi cát: Tì: một thứ cỏ sợi, không rõ tiếng Việt là gì, cát: trỏ chung sợi sắn.

[507] Khang trang: Thi: Chu tụng, thiên Thiên tác: “Thiên tác cao sơn, Thái vương hoang chi, bi tác hĩ, Văn vương khang chi”. [Nguyên văn: 天作高山,太王荒之,彼作矣,文王康之. Thái vương: (có bản chép là Đại vương 大王), tức Đản Phụ, ông tổ nhà Chu, cha của Vương Quí, ông nội của Văn vương. (Goldfish)].

[508] Đến cuối: “Đầu” là đầu mối, là “một”, “cuối” là “tạp đa”, là “muôn”.

[509] Lớn nhất: Ý nói Lễ nghĩa minh định phận vị của mọi người và tương quan giữa mọi người cũng cần thiết hệ trọng cho cuộc sống miên trường của loài người không kém công hoá dục của trời đất.

[510] Ân tình: Nguyên văn chữ Hán: “Nhất dã” (一也) (lập lại bốn lần). Bốn chữ “nhất” ứng lên “nhất” là một: “Một chạy thì mười lọt” ở trên. Có sách giảng là: “Cũng cùng một đạo lí đó”. [Bốn chữ “nhất”: ý tác giả muốn nói bốn chữ “nhất” trong câu: “Cố tang tế, triều sính, sư lữ nhất dã; quý tiện, sát sanh, dữ đoạt nhất dã; quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, huynh huynh, đệ đệ nhất dã; nông nông, sĩ sĩ, công công, thương thương nhất dã”. (故喪祭,朝聘,師旅一也;貴賤,殺生,與奪一也;君君,臣臣,父父,子子,兄兄,弟弟一也;農農,士士,工工,商商一也). (Goldfish)].

[511] Cho lớn: Ngờ nguyên văn chữ Hán, ở trên có sót chữ chăng?

[512] Ba điều đó: tức a) Người hiền lương, bậc thánh trí đến với, b) Nước địch khuất phục, c) Quốc gia phú cường.