LÀM CHO NƯỚC GIÀU (Phú quốc)
Tư tưởng nồng cốt của toàn thiên là:
Định phận cho rõ, dùng dân cho đúng (Minh phận, sử quần).
Tiết dụng cho dân dư dật dành dụm phần còn thừa (tiết dụng dụ dân nhi thiện tàng kì dư).
Đạo trí trị của ông chú trọng vào những điều căn bản (trọng hiền, dụng tài, dạy lễ nghĩa, trung tín) chứ không tán thành cái lối “chăm ngọn bỏ gốc”. Ông vừa phản đối thái độ mị chúng – ban bố tiểu ân, tiểu huệ, - vừa đả kích chính sách “đốt giai đoạn”, ép dân lao tác quá sức để mau thu kết quả.
Ý toàn thiên sâu. Văn sáng, dồi dào mà không rườm.
Chúng tôi chỉ trích dịch những đoạn chính.
*
* *
Muôn vật cùng sinh trong trời đất mà khác hình thể, mỗi vật thích nghi cho một việc, nhưng vẫn hữu dụng cho người. Đó là điều tự nhiên. Loài người sinh tụ cùng một nơi, cùng theo đuổi nhu cầu mà dùng phương pháp khác nhau, giống nhau về dục vọng mà không giống nhau về trí lự, có kẻ kém, người hơn. Đó là nhân tính. Bất luận trí, ngu, ai cũng có ưa, có thích, nhưng cái ưa, cái thích thì thay đổi tuỳ người[513]: có cái người trí ghét, kẻ ngu lại ưa và ngược lại. Tuy ở cùng vị thế mà cái biết của kẻ trí có khác cái biết của người ngu. Tiến hành việc tư lợi mà không bị hoạ hoạn, buông thả lòng ham muốn mà không gặp giới hạn, thì lòng dân xung động, nổi lên tranh giành, không thể thuyết phục (làm cho vui lòng) được. Đến nước ấy, thì dù là kẻ trí giả cũng vị tất trị (cho yên) được. Kẻ trí giả trị còn chưa xong, thì làm sao kiến công, lập danh? Công danh không kiến lập thì vì thiếu tiêu chuẩn định phận, quần chúng không có đẳng cấp, quần chúng không có đẳng cấp thì không thiết lập được tương quan vua tôi, trên dưới, không có vua để chế tài tôi, không có trên để chế tài dưới, sự túng dục sẽ làm hại thiên hạ. Tình người là cùng chung ham muốn, cùng chung ngán ghét. Lòng ham muốn không có chứng mà vật ham muốn thì có hạn, trạng huống đó đưa tới cảnh tranh giành. Vật dụng do bách công làm là để cho mỗi người có đủ mà dùng. Nhưng khéo léo cũng không thể làm giỏi đủ nghề, tài năng cũng không thể kiêm nhiệm đủ việc. Như vậy là sống lẻ loi, không đỡ nhau thì khốn đốn, quần tụ mà không định phận thì tương tranh, khốn đốn là mối lo, tương tranh là mối hoạ. Muốn cứu mối lo, muốn trừ mối hoạ, không gì bằng định phận rõ ràng để hợp quần, khoẻ hiếp yếu, khôn nạt ngu, dưới chống đối trên, nhỏ lăng loàn lớn, như vậy mà không giáo hoá bằng đức chính thì sẽ có mối lo kẻ già yếu không được nuôi nấng và mối hoạ kẻ trai tráng tranh giành lẫn nhau. Lao tác là cái người ta ghét, lộc vị là cái người ta ưa, không phân định chức nghiệp thì ai nấy sẽ ngán làm lụng mà lo giành lấy công lao của người. Trai gái phối hợp, vợ chồng kết đôi, nếu cưới xin, đưa rước không theo lễ, thì sẽ có mối lo lẻ đôi, mối hoạ tranh sắc. Thế cho nên người biết đạo trị nước mới chế lễ để phân định.
Đạo làm cho nước giàu là biết dụng cho dân dư dật, rồi khéo tích trữ chỗ còn thừa. Tiết dụng bằng lễ (ấn định mức chi tiêu cho vừa phải) cho dân dư dật bằng chính sách (sáng suốt ấn định phần đóng góp cho phải chẳng). Tiết dụng thì sẽ thừa nhiều, cho dân dư dật, thì dân sẽ giàu có. Dân giàu có thì đất hoang sẽ được khai khẩn, đất hoang được khai khẩn thì thóc gạo sẽ sản xuất được gấp bội. Người trên thu của dân đúng phép, người dưới tiêu xài đúng mức, của thừa chất thành đống, như gò như núi, khiến người ta có cảm giác không thỉnh thoảng đốt đi thì sẽ không biết chứa vào đâu. Như vậy thì người quân tử (người trị dân) làm sao còn lo rằng không đủ? Cho nên biết tiết dụng và để cho dân dư dật thì tất cả sẽ được cái danh là nhân, nghĩa, thánh, lương và sẽ có cái thực là của cải dư dùng, súc tích thành gò núi. Lí do có gì khác đâu, chỉ là tại biết tiết dụng và để cho dân dư dật. Chẳng biết tiết dụng và để cho dân dư dật thì dân nghèo, dân nghèo thì ruộng đất bỏ hoang, ruộng đất bỏ hoang thì sản lượng kém, không được phân nửa, người trên dù có đánh thuế gắt gao, cũng chẳng thu được bộn, mà nếu tiêu xài lại không có chừng mực thì tất sẽ chuốc lấy cái danh là tham lợi, bóc lột và chỉ có cái thực là xơ xác, khốn cùng. Lí do có gì khác đâu, chỉ là tại không biết tiết dụng và để cho dân dư dật. Thiên Kháng Cáo[514] có câu:
“Che chở rộng khắp như trời, đức nhân ấy của nhà ngươi làm cho thân nhà ngươi vinh quang dư dật”.
Nguyên tắc của lễ là: sang hèn có cấp đẳng, già trẻ có sai biệt, khinh trọng, đều tương xứng. Cho nên thiên tử thì mặc long cổn đỏ, đội mũ miên, vua chư hầu thì mặc áo long cổn đen, đầu đội mũ miện (………). Đức ắt tương xứng với vị, vị ắt tương xứng với lộc, lộc ắt tương xứng với công. Từ hàng sĩ trở lên, phải dùng lễ nhạc mà tiết chế, đối với thứ dân, phải dùng luật pháp mà chế tài. Ước lượng sự rộng hẹp của đất mà dựng nước, tính sản lượng mà nuôi dân, lượng sức người mà trao việc, sao cho dân làm nổi việc, việc làm sinh lợi, lợi nuôi sống dân: cái ăn, cái mặc, những món tiêu vặt, thu phải đủ chi, đôi khi thừa, thì dành dụm. Thế gọi là “xứng số hợp độ”. Từ thiên tử đến thứ dân, người nào việc ấy, bất luận sự tình to nhỏ, nhiều ít, cứ theo qui tắc đó mà suy ra. Cho nên nói: “Triều đình không có lợi lộc may rủi, dân gian không có đời sống may rủi” nghĩa là vậy. Giảm nhẹ thuế ruộng đất, bỏ thuế chợ, thuế quan, giảm số người đi buôn, bắt dân làm xâu ít đi, đừng làm lỡ thời tiết canh tác của dân, như thế thì nước giàu, như thế là dùng lương chính (chính sách tốt) làm cho dân dư dật.
Loài người không thể sống mà không hợp quần. Sống hợp quần mà không định phận bằng lễ thì tất tương tranh, tương tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng, cho nên không định phận là mối hại lớn của loài người, định phận là mối lợi lớn của thiên hạ. Đấng nhân chủ là then chốt trong việc định phận. Cho nên làm cho đấng nhân chủ tốt đẹp là làm cho cái gốc thiên hạ tốt đẹp, làm cho đấng nhân chủ yên vững, tôn quí đấng nhân chủ là tôn quí cái gốc của thiên hạ. Các đấng tiên vương đời xưa chia cắt (đất) mà định phận, cho có đẳng cấp sai biệt: người ở vị cao đẹp, kẻ ở vị thấp kém, người hưởng lộc nhiều, kẻ hưởng lộc ít, người được nhàn nhã vui vẻ, kẻ phải làm lụng vất vả. Đó chẳng phải là cốt để cho họ hoang dâm, xa xỉ hay khoe mẻ, mà là làm cho sáng tỏ cái lẽ: người có đức nhân thì được tôn sùng, danh dương mà chí toại (………). Kinh Thi có câu:
Chạm trổ cho thêm vẻ,
Chất đẹp như ngọc vàng,
Khuyến miễn đấng quân vương,
Làm mối giường bốn phương.[515]
Đem áo đẹp cho người nhân mặc, dâng miếng ngon cho người nhân ăn, giao cả tài sản cho người nhân quản lí, họp cả thiên hạ mà tôn người nhân lên làm vua, chẳng phải là cốt để cho họ hoang dâm, xa xỉ mà là để thống nhất thiên hạ. Chỉnh lí sự biến, tài chế muôn vật, nuôi nấng muôn dân, cai trị thiên hạ, không ai giỏi hơn người nhân (………)
Cái đạo làm cho dân no đủ là định phận rõ rang, Vạch ranh đất ruộng, nhổ cỏ trồng lúa, bón phân lấy mầu, đó là việc của nông phu, dân chúng. Trọng thời tiết, khiến dân làm việc được mau, việc tiến mau mà lợi được nhiều, trăm họ thuận hoà mà không ai biếng nhác, đó là việc của người đốc suất. Nơi cao không hạn hán, nơi thấp không ngập lụt, nóng lạnh điều hoà, năm giống thóc chín đúng mùa, đó là việc của trời. Đến như che chở hết thảy, thương yêu hết thảy, dù gặp năm mất mùa, hạn hán, ngập lụt cũng vẫn làm cho dân không bị cái hoạ đói rét, thì đó là việc của thánh vương, hiền tướng.
Mặc Tử lo rằng thiên hạ không đủ ăn, đủ mặc. Không đủ ăn, đủ mặc, đâu phải là mối lo chung của thiên hạ. Mặc Tử quá lo đó thôi. Ruộng đất kia trồng được ngũ cốc, nếu người khéo làm, thì một mẫu mấy bồn[516], mỗi năm lại thu hoạch hai vụ. Rồi thì dưa, đào, táo, mận, mỗi cây ra hàng bồn quả, rau cỏ có thể mọc đầy chằm, chim muông lục súc có thể sinh sản chất đầy xe, cá, ba ba, lươn, chạch mùa nào giống ấy, mỗi giống có thể sinh sản thành đàn, chim, cò, vịt giời nhiều vô kể[517], các loài côn trùng đầy ra đấy, tất cả đều có thể dùng làm thức ăn. Trời đất sinh muôn vật, vốn thừa đủ để nuôi người mà! Gai, dây sắn, tơ tằm, lông chim, lông muông, da loài vật, vốn thừa để đủ làm đồ mặc cho người mà! Thừa hay thiếu, đâu phải là mối lo chung của thiên hạ. Mặc Tử quá lo đó thôi!
Mối lo của thiên hạ là loạn lạc kia! Sao không thử tìm, xem nguyên nhân của loạn lạc là gì. Tôi cho rằng Mặc Tử tiết dụng là làm cho thiên hạ bần cùng. Mặc Tử đâu có muốn huỷ hoại thiên hạ, mà sự thực là vậy. Mặc Tử giá có thiên hạ, hay chỉ một nước, thì cũng đều mặc áo xấu, ăn cơm hẩm, lo buồn mà chống lại nhạc[518], chẳng còn biết lạc thú là gì, như vậy sự cung phụng quá ư bỏn xẻn, quá ư bỏn xẻn thì không được thoả mãn được ước muốn, đã không thoả mãn được ước muốn thì việc tưởng lệ thi hành làm sao? Mặc Tử giá mà, lớn, có cả thiên hạ, nhỏ, chỉ có một nước thì cũng đều giảm bớt quan tước, và người trên cùng trăm họ sẽ làm lụng vất vả như nhau, như thế thì không có uy, đã không có uy thì việc trừng phạt thi hành làm sao? Việc tưởng lệ không thể thi hành thì người hiền không thể tiến lên được, việc trừng phạt không thể thi hành thì kẻ hư không chịu rút lui. Người hiền không tiến lên, kẻ hư không rút lui, thì người tài năng và người kém tài năng đều không được đặc vào đúng chỗ cho ta dùng. Như vậy thì vạn vật đều thất nghi, sự biến đều thất ứng, trên, mất thiên thời, dưới, mất địa lợi, giữa, mất nhân hoà, thiên hạ sôi sục như bị đốt, bị nướng. Mặc Tử dù vì họ mà mặc áo ngắn, đeo dây, ăn rau đậu, uống nước lã, cũng chẳng thể làm cho họ no đủ (………)
Cho nên các đấng tiên vương, các thánh nhân không làm như vậy, các ngài biết rằng làm đứng nhân chủ mà không đẹp đẽ, không trang sức, thì không thống nhất được dân chúng, không giàu, không hậu thì không cai trị được người dưới, không oai, không mạnh thì không ngăn cấm được quân bạo ngược hung hãn, cho nên tất phải khua chuông to, đánh trống lớn, thổi ống sinh, ống vu, gảy đàn cầm, đàn sắt cho họ vui tai, tất phải dùng đồ gọt trổ, chạm cẩn, đồ lễ phục thêu hoa đẹp đẽ, cho họ sướng mắt, tất phải dùng thịt loài ăn cỏ, ăn thóc, lúa kê, cùng năm vị thơm tho, cho họ ngon miệng, rồi thì người nào dùng vào việc ấy, thưởng cho hậu, phạt cho nghiêm, để khuyến khích, đe răn họ, khiến cho mọi người trong thiên hạ đều thấy rõ ràng tất cả những điều họ ước muốn là ở đó, cho nên việc tưởng lệ mới có thể thi hành, lại làm cho mọi người trong thiên hạ đều thấy rõ ràng tất cả những điều họ sợ hãi là ở đó, cho nên hình phạt mới có hiệu lực. Việc tưởng lệ thi hành có hiệu quả, việc trừng phạt thi hành có hiệu lực thì người hiền tài tự tiến, kẻ hư hỏng tự lui, mà người hiền tài, kẻ hư hỏng đều được đặt vào đúng chỗ ta dùng. Như vậy thì vạn vật đều đắc nghi, sự biến đều đắc ứng, trên được thiên thời, dưới được địa lợi, giữa được nhân hoà, của cải tuôn về như suối, mênh mang như sông biển, chất ngất như núi non (………) Thiên hạ đâu còn sợ thiếu thốn! Cho nên đạo nho mà thật được thi hành thì thiên hạ sẽ tốt đẹp mà giàu đủ, nhàn nhã được việc[519] (………) Đạo Mặc mà thật được thi hành, thì thiên hạ chuộng nết kiệm ước mà càng ngày càng nghèo khổ, chống chiến tranh mà ngày càng giành giựt nhau hơn, và, tiều tuỵ mà vô công hiệu, buồn rầu lo lắng, hết lạc thú mà hằng ngày bất hoà (…)
Ban phát những ân huệ vụn vặt mà nuôi nấng dân, vỗ về, nâng niu họ, mùa đông nấu cháo gạo cho, mùa hè nấu chè dưa cho, để cầu chút ít tiếng thơm thảo, đó là lối ăn cắp, có thể được lũ gian manh khen ngợi ít lâu, nhưng không phải là cái kế trường cửu, sự nghiệp tất không thể thành tựu, công huân tất không thể kiến lập. Đó là thuật trị dân của phường gian giảo.
Hùng hục, vội vàng, thúc giục dân làm việc, dựng nghiệp lập công, bất chấp lời chê bai, thản nhiên làm mất lòng dân, sự nghiệp gây dựng được, nhưng trăm họ oán hờn, đó cũng là cách ăn cắp sức lao tác của dân: mục tiêu công lợi có thể đạt được, nhưng thành quả không bền, rồi cũng “nước lã ra sông”. Cho nên ban phát những ân huệ vụn vặt mà nuôi nấng dân, để cầu được ít tiếng tăm thơm thảo cố nhiên là điều không nên, mà hùng hục làm kì xong việc, chẳng đoái hoài đến lòng dân, cũng là điều không nên nữa. Người xưa không làm như vậy. (………)
Không dạy dỗ trước mà trừng trị, giết chóc, thì hình phạt tuy nhiều, dân vẫn không bỏ được thói tà, nhưng chỉ dạy dỗ mà không trừng trị, giết chóc, thì kẻ gian không sợ. Giết chóc mà không tưởng thưởng thì người dân cần mẫn không hứng khỏi, giết chóc, tưởng thưởng mà không đúng, thì người dưới sẽ sinh nghi, phong tục sẽ trở nên nham hiểm, dối trá mà trăm họ thành khảng tảng, rã rời. Cho nên đấng tiên vương làm sáng tỏ điều lễ nghĩa mà tề nhất dân, lấy hạnh trung tín mà thương yêu họ, chuộng người hiền, dùng người tài mà định ngôi thứ họ, dùng tước lộc, ân sủng mà trọng đãi, tưởng lệ họ, việc làm đúng thời, người dùng vừa sức để nương nhẹ họ (………) như vậy cho nên gian trá không nẩy nở, trộm cướp không nổi dậy. – giáo hoá đã cải thiện họ và khiến họ biết cố gắng. Thế là tại sao? – Là tại đạo luật của tiên vương giản dị, dễ thi hành, có ảnh hưởng bền vững trong lòng người và nêu rõ những điều cấm kị cần phòng bị. Nói: “Trên một đạo thì dưới theo một đường, trên nhiều khoé thì dưới sinh nhiều “dạ” là nghĩa như vậy. Chẳng khác gì cỏ cây, gốc rễ sao thì cành lá vậy.
Không làm lợi cho dân mà lấy lợi, không bằng làm lợi cho dân đã, rồi lấy lợi sau thì lợi hơn, không thương yêu dân mà dùng sức dân, không bằng thương yêu dân đã, rồi dùng sức dân sau thì sẽ có kết quả hơn. Làm lợi mà sau lấy lợi, không bằng làm lợi mà sau không lấy lợi thì hơn, thương yêu mà dùng, không bằng thương yêu mà sau không dùng, thì có kết quả hơn. Làm lợi mà sau không lấy lợi, thương yêu mà sau không dùng thì lấy cả thiên hạ, làm lợi mà sau lấy lợi, thương yêu mà sau dùng thì giữ được xả tắc, không làm lợi mà lấy lợi, không thương yêu mà dùng thì nguy hại đến quốc gia (………).
Thờ một nước cường bạo là việc khó, khiến một nước cường bao thờ ta là một việc dễ. Lấy của cải, châu báo mà thờ người thì của cải, châu báu cạn là giao tình cũng hết, có liên minh, kết ước thì cũng chưa được mấy ngày là phản bội rồi. Nay xén miền này, mai cắt vùng nọ để đút lót người, thì đất đai tuy xén cắt mà dục vọng của người không chán. Thờ người mà càng tỏ ra dễ bảo thì người ta lấn át ta càng ghê gớm, tất là của cải, châu báu phải dâng kì hết, đất đai phải cắt nộp kì hết mà sau mới thôi. Thờ người cách ấy thì dù bên tả có vua Nghiêu, bên hữu có vua Thuấn, cũng không thoát nạn được. Khác nào một cô gái nhà lành, giắt châu đeo ngọc, mang vàng mà trong rừng gặp cướp, thì dù có cái nhìn của Bồng Mông[520] cũng chẳng dám ngó thẳng, dù cong lưng uốn gối như một con đòi, cũng chẳng làm sao cho quân gian không cướp của mà để cho mình thoát thân. Cho nên không có cái đạo lớn mà thống nhất lòng dân mà chỉ biết hèn hạ, lạy lục thờ người thì không sao giữ cho nước còn, thân yên được.
[513] Tuỳ người: Nguyên văn chữ Hán: “Sinh dã, giai hữu khả dã, trí ngu đồng, sở khả dị dã, trí ngu phân” (生也,皆有可也,智愚同,所可異也,智愚分). Trần Đại Tề cắt nghĩa: “Khả” là “trở thành”, là “ưa thích”, “Sở khả” là “cái mình suy nghĩ rồi mà ưa thích, cái mình lựa cho để trở thành”.
[514] Kháng Cáo: Kinh Thư. [Nguyên văn: “Hoằng phúc hồ thiên, nhược đức dụ nãi thân” (弘覆乎天,若德裕乃身). (Goldfish)].
[515] Bốn phương: Thi, Đại nhã. [Nguyên văn: “Điêu trác kì chương, Kim ngọc kì tương, Vỉ vỉ ngã vương, cương kỉ tứ phương” (雕琢其章,金玉其相,亹亹我王,綱紀四方). (Goldfish)].
[516] Mấy bồn: Thời xưa, người Trung Hoa dùng bồn để lường nông sản.
[517] “Chạch”: nguyên văn là “thu” (鰌), “cò, vịt giời”: nguyên văn là “phù” (鳧); hai chữ đó, trong phần I, chương X, dịch là: “trạch” và “le le, vịt giời”. (Goldfish).
[518] Chống lại nhạc: Mặc Tử chống âm nhạc (Phi nhạc). Chữ “nhạc” trong thiên Phi Nhạc của ông, phải hiểu theo hiểu theo nghĩa: âm nhạc và các môn nghệ thuật khác nữa, như: vũ, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ v.v… Không phải Mặc Tử không trọng nghệ thuật, nhưng ông cho rằng nghệ thuật chưa cần kíp.
[519] Được việc: Nguyên văn chữ Hán: “Tắc thiên hạ đại nhi phú, sử nhi công” (則天下大而富,使而功). Mỗi nhà chú thích cắt nghĩa lại khác. Chúng tôi dựa ý Phương Hiếu Bác và Vương Trung Lâm dịch thoát.
[520] Bồng Mông: Cũng đọc là Bàng Mông. Sách Tuân Tử, thiên Vương Bá, còn chép là 蠭門 và đọc là Phùng Môn. Sách Lữ Thị Xuân Thu và sách Sử Kí cũng chép như vậy. Bồng Mông (hay Phùng Môn) là một tay thiện xạ đời xưa, có cặp mắt rất sáng, cái nhìn rất mạnh. Bồng Mông học phép bắn với Hậu Nghệ, nghĩ rằng trong thiên hạ chỉ có mỗi Hậu Nghệ là bắn tài hơn mình, bèn giết Hậu Nghệ. [Bồng Mông: các bản trên mạng chép là: 逢蒙. Phùng Môn: trong thiên Vương bá và cả trong thiên Chính luận nữa, các bản trên mạng chép là: 蜂門. (Goldfish)].