VƯƠNG VÀ BÁ (Vương bá)
Cũng như các Nho gia trước, Tuân Tử trọng vương hơn bá. Nhưng ông khác họ ở điểm không chê bai bá, mặc dù hết lời đề cao vương.
Trong thiên này, tác giả đưa ra nguyên tắc chính yếu của vương đạo và bá đạo, đồng thời, cho thấy cái nhãn quan phê bình lịch sử rất đặc biệt nói trên của ông.
Chúng tôi chỉ trích dịch những đoạn chính.
*
* *
Ông vua là người có lợi thế nhất trong thiên hạ, vậy mà tự mình vẫn không thể giữ yên được thiên hạ. Muốn giữ yên được thiên hạ, tất phải thi hành cái đạo trị bình.
Người trị nước dùng lễ nghĩa thì thành nghiệp vương, biết thủ tín thì thành nghiệp bá, nếu dùng quyền mưu, cơ trá thì tất bại vong. Ba điều đó, ông vua sáng suốt cần lựa chọn cẩn thận.
Việc mà người nhân phải tỏ ra là[521]: đem cả nước mà hô hào làm việc nghĩa và không làm gì hại đến lễ nghĩa. Làm một điều bất nghĩa, giết một người không có tội mà được thiên hạ thì kẻ nhân giả không làm. Cứ vững giữ lòng mình mà giữ nước. Được như thế thì thực là vững vàng. Những người cùng với mình làm việc ấy đều là nghĩa sĩ, những hình pháp bày ra cho quốc gia đều là nghĩa pháp (phép chính đáng), những điều mà nhân chủ đã thật tin và đem quần thần qui hướng cả về đó là nghĩa chí (chí hợp với lễ nghĩa). Nhưng thế thì kẻ dưới lấy nghĩa mà trông cậy vào người trên, mà cơ bản đã định. Cơ bản đã định thì nước định, nước định thì thiên hạ định (………) Cho nên nói rằng: “Cả nước nhất tâm hướng nghĩa, một sớm hiển dương trong thiên hạ, đó là (trường hợp của) vua Thang, vua Vũ”. Đất Hào của vua Thang, đất Cảo của vua Vũ, đều chỉ rộng có trăm dặm vuông mà thống nhất được thiên hạ, các nước chư hầu đều thần phục, dân bốn phương đều về theo. Chẳng vì duyên cớ nào khác, chỉ vì đã thi hành điều nghĩa. Cho nên mới nói: Thi hành điều nghĩa thì thành được nghiệp vương.
Đức tuy chưa tới mức cao nhất, điều nghĩa tuy chưa thi hành rộng khắp, song mọi sắp xếp trong nước đã tạm chỉnh đốn, thưởng phạt đã gây được niềm tin trong thiên hạ, thần dân đã biết rằng có thể trông cậy vào (người trên) được, chính lệnh ban bố rồi, dù lợi, dù hại cũng không thay đổi mà lừa dối dân, minh ước đã định rồi thì dù thiệt, dù hơn cũng không thay đổi mà lừa dối nước bạn. Như vậy thì binh sẽ mạnh, thành sẽ vững, nước địch sẽ sợ. Trong nước, mọi người đoàn kết và trông cậy vào nhau, nước bạn tín nhiệm, thì chỉ là một nước ở nơi hẻo lánh, uy danh cũng chấn động được thiên hạ. Đó là (trường hợp các nước của) Ngũ Bá[522].
Chưa sửa được trọn vẹn cái gốc của chính giáo (tức lễ nghĩa), đức tốt chưa tới được cái mức cao nhất, mọi sắp đặt trong nước chưa thật hoàn chỉnh, chưa thu phục được nhân tâm, chỉ toàn hướng về sách lược, dùng thuật “dĩ dật đãi lao” (lấy thông thả mà đợi địch mệt mỏi), chăm lo việc dành dụm tích trữ mà chuẩn bị việc chiến thủ, trên dưới một lòng thành thực tin nhau, thì không một nước nào trong thiên hạ dám đương đầu với. Cho nên Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Sở Trang vương, Ngô vương Hạp Lư, Việt Câu Tiễn đều chỉ là vua những nước hẻo lánh mà uy danh chấn động được thiên hạ, giàu mạnh có thể làm cho Trung Quốc (tức vùng trung nguyên) ngửa nghiêng. Chẳng vì duyên cớ nào khác, chỉ vì đã thủ tín. Cho nên nói: Thủ tín thì thành nghiệp bá (………)
Tiết công trị nước Tề giàu mạnh, chẳng lo sửa sang lễ nghĩa, chẳng lấy chính giáo làm gốc, chẳng tính thống nhất thiên hạ, chỉ kết giao với các nước xa, chỉ lấy quyền mưu, biến trá làm việc gấp. Tuy phía Nam có thể diệt được nước Sở, phía Tây, đủ sức chống Tần, phía Bắc, đủ đánh bại Yên, Triệu, giữa, lại có thể diệt Tống, nhưng quân hai nước Yên, Triệu, một sớm dậy lên tiến công (Tề) thì thắng (Tề) dễ như rung lá của cành khô (………) Chẳng vì duyên cớ nào khác, chì vì không theo lễ nghĩa mà dùng quyền mưu cơ trá. Ba đường lối trị nước đó, bậc nhân chủ sáng suốt phải cẩn thận lựa chọn, bậc nhân giả phải rõ đó là việc gấp: khéo léo chọn lấy cái đạo lớn thì trị người, không khéo chọn lấy đạo lớn ấy thì bị người trị.
Một quốc gia là một “Đại khí”[523] của thiên hạ, là một gánh vác nặng nề, không thể không “lựa chọn” trước khi “thi thố”. Thi thố vào chỗ hiểm nghèo thì nguy, không thể không lựa chọn con đường tốt (trỏ vương đạo) mà tiến vào, theo con đường xấu thì tắt nghẽn. Nguy và nghẽn thì bại vong. Thi thố chính sự không phải chỉ là vạch cương giới là xong, (còn phải xét xem nên) lựa chọn phép tắc lãnh đạo nào? tìm ai giao phó? Lựa chọn phép tắc lãnh đạo của vương giả, tìm người của vương giả mà giao phó thì cũng thành nghiệp vương, lựa chọn phép tắc của bá giả, tìm người của bá giả mà giao phó, thì cũng thành nghiệp bá (…), giao phó cho người quân tử trọng lễ nghĩa thì có thể thành nghiệp vương, dùng kẻ sĩ thành tín thì có thể thành nghiệp bá (………)
Nhân chủ, lấy việc dùng người làm sở năng (…) lựa chọn người có đức hạnh, tài năng mà cho họ quan tước, đó là đạo lớn của thánh vương.
Một nước đất vuông trăm dặm, lấy nổi cả thiên hạ, đó không phải là việc khó, chỉ sợ vì nhân chủ không biết cái đạo lớn lấy thiên hạ thôi. Lấy thiên hạ không phải là khiêng đất đai của người ta về, bắt người ta theo mình mà là cái đạo khả dĩ thống nhất nhân dân của người ta, giả sử mình đã thống nhất được nhân tâm của người ta, thì đất đai của người ta không về mình thì còn về đâu được nữa? Tước vị của một nước vuông trăm dặm đủ để dung nạp các hiền sĩ trong thiên hạ, việc công của một nước đất vuông trăm dặm đủ để thu dụng các người có tài trong thiên hạ, theo phép cũ, lựa chọn những người tốt mà dùng, thì có thể thu phục tất cả những người hiếu lợi trong thiên hạ[524]. Những người hiền đức, tài năng đến làm quan với ta, những người hiếu lợi đều qui phục ta, như thế thì thiên hạ còn ai là người không theo ta nhỉ? (………) Dùng được một người xứng đáng thì có thể lấy được thiên hạ, dùng phải một người không xứng đáng thì quốc gia có thể nguy vong (…), cho nên vua Thang dùng ông Y Doãn, vua Vũ vương dùng ông Thiệu công, vua Thành vương dùng ông Chu công. Thấp hơn một bậc là Ngũ bá (thì có Tề Hoàn công). Tề Hoàn công trong chốn khuê môn thì hoang dâm, kiêu xa đấy (…), nhưng đã củ hợp[525] chư hầu, cứu vớt thiên hạ, đứng đầu Ngũ bá, chẳng vì lí do nào khác, vì đã giao quyền chính cho Quản Trọng.
[521] Rõ là: Nguyên văn chữ Hán là Bạch (白). Có sách cắt nghĩa: “Bạch” ngờ là “Bách” (迫) viết lộn. Và “Bách” nghĩa là gấp rút.
[522] Ngũ Bá: Năm nước lần lượt lãnh đạo chư hầu thời Xuân Thu: Tề Hoàn công, Tấn Văn công v.v… (Xem chú thích ở trên). Ngũ Bá mà Tuân Tử nói ở đây là: Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Sở Trang vương, Ngô Hạp Lư và Việt Câu Tiễn.
[523] “Đại khí”: Nghĩa đen là một đồ vật trong thiên hạ, ý nói: một cái gì rất quí hoá, rất quan trọng.
[524] Thiên hạ: “Hiếu lợi” ở đây, không có nghĩa xấu là tham lam mà trỏ tính tự nhiên của người dân là mong được đủ ăn đủ mặc.
[525] Củ hợp: Nguyên văn là “Cửu hợp” (九合): chín lần hợp (chư hầu). Thực tế Tề Hoàn công hợp chư hầu đến mười một lần, cho nên Chu Hi đoán rằng chữ “cửu” đó là do chữ “củ” ([糾]) nghĩa là “hội họp”.