BÀN VỀ TRỜI (Thiên luận)
Thiên này bàn về mối quan hệ giữa trời và người, diễn tả một cách khá cụ thể và đầy đủ quan niệm vũ trụ và nhân sinh của tác giả.
Tư tưởng nồng cốt của toàn thiên là:
“Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị”
- Với văn trị, người tham tán được trời đất trong việc hoá dục.
- Chẳng những tham tán trời đất mà thôi, người còn có chức vụ “vận dụng trời đất và sai khiến muôn vật.
Giữa thiên, tác giả bài bác những mê tín nhảm nhí, những sợ sệt không đâu. Tư tưởng mới mẻ của tác giả phản ánh một tinh thần khoa học hiếm thấy ở thời ông.
Rất tiếc, ở phần cuối thiên, nhận xét của ông về đạo “bách vương” có tính cách duy tâm thái quá (Ông cho đạo thanh vương vốn nhất quán và bất biến), và do đó, có vẻ lạc lõng đối với những trác kiến trong hai phần đầu.
*
* *
Việc trời diễn tiến, có qui luật thường, không có ý làm cho vua Nghiêu còn, không có ý làm cho vua Kiệt mất[532]. Nhân sự ứng với luật đó mà an trị thì lành, ứng với luật đó mà hỗn loạn thì dữ. Làm cho mạnh cái gốc (tức việc canh nông), chi dùng có tiết độ thì trời không thể làm cho nghèo được, lo cho sự dinh dưỡng và hành động thuận trời thì trời không thể gieo bệnh tật được, sửa sang đạo mà không trái với đạo thì trời không gây hoạ cho người được. Cho nên thuỷ hạn không thể làm cho người đói khát được, lạnh nóng không thể làm cho người ốm đau được, yêu quái không thể làm hại người được. Cái gốc bỏ bê mà chi dùng xa xỉ thì trời không thể làm cho người giàu được, sự dinh dưỡng sơ lược mà hành động ít thì trời không thể làm cho trọn vẹn (tức mạnh khoẻ) được, trái với đạo mà làm càn thì trời cũng không thể làm cho tốt lành được, cho nên thuỷ hạn chưa đến mà đói khát, rét nóng chưa gắt mà đã đau yếu, yêu quái chưa tới mà đã bị hại.
Ngày tháng thì (đời loạn) cũng như đời trị thôi, mà tai ương (đời loạn) khác đời trị. Không nên oán trời. Lẽ tự nhiên như vậy. Rõ được đâu là phần trời và đâu là phần người (mọi sự tại người chứ không phải tại trời) thì có thể gọi được là bậc chí nhân.
Không làm mà nên, không cầu mà được, gọi là chức vụ của trời. Như vậy, sự suy nghĩ của người có sâu, tài năng của người có lớn, sự xét đoán của người có tinh cũng không thêm được gì cho đạo trời. Cho nên đạo trời dù thâm viễn, bậc chí nhân cũng không lo nghĩ tới: Thế gọi là không tranh cái chức vụ của trời. Trời có thời của trời, đất có sản vật của đất, người có văn trị của người (dùng lễ nghĩa mà giáo hoá, trị bình), như vậy người với trời đất là ba (người ngang với trời đất, tham tán được trời đất). Bỏ cái nó khiến cho con người có thể ngang với (tức việc làm, việc hoá dục của người) mà chỉ muốn biết trời đất thì lầm. Các sao đi vòng, mặt trời, mặt trăng soi sáng, bốn mùa chuyển vần, âm dương biến hoá lớn, gió mưa ban phát nhiều, vạn vật đều được cái động lực hoà hợp huyền diệu nó nuôi nấng mà trưởng thành. Việc làm của cái động lực huyền diệu ấy không thấy được, nhưng cái công hiệu của nó thì rõ ràng. Cái động lực huyền diệu ấy là thần, ai cũng biết cái đã thành, chẳng ai biết cái vô hình, thế gọi là thiên công (việc trời). Duy chỉ có thánh nhân là không cần biết trời[533]. Chức vụ của trời đã dựng, công việc của trời đã thành, hình đủ thì thần sinh[534]. Ưa, ghét, mừng, giận, thương, vui chứa ở trong, thế gọi là “thiên tình” (tình tự nhiên, sinh ra đã có). Tai, mắt, miệng, mũi, hình thể[535], đều có khả năng tiếp xúc với bên ngoài, nhưng không có khả năng thay thế nhau, như thế gọi là “thiên quan”. Tâm ở giữa, hư tĩnh, để trị (làm chủ) ngũ quan, thế gọi là “thiên quân”. Tài chế những vật không cùng loài với mình (người) để dinh dưỡng loài mình (loài người), thế gọi là “thiên dưỡng”. Thuận theo tính cố hữu của vật loại mà tài chế nó là phúc, nghịch lại tính cố hữu của vật loại mà tài chế nó là hoạ, (thuận theo tính cố hữu của vật loại, chứ không nghịch lại), gọi là “thiên chính”. Làm mờ tối “thiên quân”, làm rối loạn “thiên quan”, bỏ phép “thiên dưỡng”, ngược lại với “thiên chính”, trái với “thiên tình”, để mất “thiên công”, thế gọi là đại hung. Bậc thánh nhân làm cho “thiên quân” trong sáng, cho “thiên quan” bình chính, cho “thiên dưỡng” đầy đủ, cho “thiên chính” thuận chiều, cho “thiên tình” trúng tiết, để thành toàn cái “thiên công”. Như thế là biết cái nên làm, biết cái không nên làm[536] mà có thể vận dụng trời đất và sai khiến vạn vật. Cứ sửa sang chính sự cho hết trị đạo, cứ theo cái thuật nuôi người cho thật thích đáng; sinh dưỡng vạn vật, chớ làm cho chúng tổn thương, thế là “biết trời” rồi… Cho nên đại xảo là ở chỗ không làm việc trời, đại trí là ở chỗ không lo việc trời. Ghi nhận ở nơi trời những thiên tượng để tiên đoán thời tiết, ghi nhận ở nơi đất những thổ nghi để làm tăng gia sản vật, ghi nhận ở bốn mùa cái trình tự biến chuyển để thuận lợi mà làm ăn, ghi nhận ở nơi hai khí âm dương cái lẽ sinh sát (hoà hợp, xung khắc) để áp dụng vào việc thưởng phạt, trị lí, dùng quan chức để biết sự biến hoá của trời đất (như dùng quan “hi hồn” để xem thiên tượng, “nông tắc” để xem thổ nghi), còn thường dân thì cứ giữ đạo trời.
- Trị loạn có phải là tại trời không? - Đáp: Mặt trời, mặt trăng, các ngôi tinh tú cùng cách làm lịch thì trời của vua Vũ và trời của vua Kiệt giống nhau, thế mà mà đời vua Vũ thì trị, đời vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại trời.
- Trị loạn có phải là tại thời không? - Đáp: Sự sinh sôi nẩy nở ở mùa xuân, mùa hạ, sự súc tích, thu tàng ở mùa thu, mùa đông thì thời của vua Vũ và thời của vua Kiệt cũng giống nhau, thế mà đời vua Vũ thì trị, đời vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại thời.
- Trị loạn có phải là tại đất không? - Đáp: Đất được thì sống, đất mất thì chết, vậy đất của vua Vũ và đất của vua Kiệt cũng giống nhau, thế mà đời vua Vũ thì trị, đời vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại đất. Kinh Thi có câu:
Trời sinh ra núi Kì,
Vua Thái vương khai hoang,
Đã khai hoang núi Kì,
Vua Văn vương chỉnh trang[537]
là nghĩa như vậy.
Trời chẳng vì người ghét lạnh mà ngừng mùa đông, đất chẳng vì người ngại xa mà rút chiều rộng, người quân tử chẳng vì kẻ tiểu nhân (bàn tán) om xòm mà bỏ cái hạnh. Trời có đạo thường (bất biến), đất có “số” (cái lẽ) thường, người có “thể” (qui tắc) thường. Người quân tử theo đạo thường, kẻ tiểu nhân chỉ nói công và lợi. Kinh Thi có câu:
Giữ lấy đạo chừ,
Sá chi miệng thế![538]
là nghĩa như vậy.
Vua Sở đi, xe theo ngàn cỗ, không phải là vua Sở trí, người quân tử ăn cháo đậu, uống nước lã, không phải là người quân tử ngu. Đó là do thời mệnh. Còn như việc tu dưỡng ý chí, trau giồi đức hạnh, giữ cho trí lự sáng suốt, sinh đời nay mà chí ở đời xưa, thì cái đó do nơi ta. Cho nên người quân tử trọng nhờ sức mình mà thành, chứ không trọng nhờ sức trời, kẻ tiểu nhân bỏ sự nhờ sức mình mà trọng sự nhờ sức trời. Người quân tử trọng nhờ sức mình, chứ không trọng nhờ sức trời, cho nên mỗi ngày một tiến, kẻ tiểu nhân bỏ sự nhờ sức mình mà trọng sự nhờ sức trời, cho nên mỗi ngày một lùi. Người quân tử và kẻ tiểu nhân cách xa nhau là vậy.
- Sao sa, cây kêu, người trong nước đều sợ, hỏi rằng: Tại sao vậy? - Đáp: Không tại sao cả. (Sao mà sa, cây mà kêu), đó là cái biến hoá của trời đất, âm dương, là sự ít xảy ra của vạn vật, cho là quái lạ thì nên, mà lo sợ thì không nên. Mặt trời, mặt trăng có khi “ăn” lẫn nhau, mưa gió có khi không hợp thời, những ngôi sao lạ có khi xuất hiện, những cái đó, không thời nào không thấy. Người trên sáng suốt mà chính trị phải lẽ, thì dù tất cả những cái quái lạ đều xuất hiện cũng không sao. Người trên mờ ám, mà chính trị hiểm ác, thì dù không có quái lạ nào xuất hiện, cũng không hay gì. Sự xảy ra mà là tai hoạ do người gây nên thì nên sợ. Cày dối, làm chột lúa, rãy cỏ không đúng lúc, chính trị hiểm ác, mất dân, ruộng bỏ cỏ, lúa xấu, gạo mắc, dân đói, đường xá có người chết, đó là những điều tai hoạ do người gây nên, chính lệnh không rõ ràng, hành động xếp đặt không đúng lúc[539], việc gốc (tức việc nông tang) bỏ bê, đó là những tai hoạ do người gây nên, lễ nghĩa không sửa sang, trong ngoài không phân biệt, trai gái dâm loạn, cha con ngờ nhau, trên dưới hục hặc, chia rẽ, cướp trộm, tại nạn cùng lúc phát sinh, đó là những điều tai hoạ do người gây nên. Tai hoạ sinh ra từ sự hỗn loạn. Có ba điều tai hoạ đó xảy ra thì không nước nào an trị. Thuyết này thiển cận thôi[540], nhưng cái hại của ba điều tai hoạ do người gây nên kia thì thật là thảm khốc. Cố gắng không đúng thời thì trâu đẻ ra ngựa, ngựa đẻ ra trâu, lục súc sinh ra yêu dị, cho là quái lạ thì nên, mà lo sợ thì không nên[541]. Kinh truyện nói: “Những cái quái lạ của vạn vật, sách không chép”. Những lời biện luận vô dụng, những cái tinh vi lắt léo không cần kíp, thì bỏ đi, không cần xét đến. Còn như nghĩa vua tôi, tình cha con, đạo vợ chồng thì là những điều hằng ngày phải trau giồi, không bỏ được.
- Cầu đảo mà mưa thì sao? – Đáp: Chẳng sao cả, cũng như không cầu đảo mà mưa vậy thôi. Mặt trăng, mặt trời “ăn” nhau mà cứu, hạn hán mà cầu đảo, bói toán rồi mới quyết định việc lớn, không phải vì cho rằng cầu thì được đâu, làm như vậy chỉ là để văn sức chính sự cho thêm đẹp đẽ, long trọng đấy thôi. Người quân tử coi (lễ) là việc văn sức mà trăm họ coi (lễ) là việc quỉ thần. Coi là việc văn sức thì lành, coi là việc quỉ thần thì dữ.
Ở trời, không gì sáng tỏ hơn mặt trời, mặt trăng, ở đất, không gì sáng tỏ hơn nước lửa, ở vật, không gì sáng tỏ hơn lễ nghĩa. Mặt trời, mặt trăng không ở nơi cao xa thì ánh sáng không rực rỡ, nước lửa không chất chứa thì ánh sáng và sức thấm nhuần không rộng, châu ngọc không toả hào quang ra ngoài thì các vương công không cho là báu, lễ nghĩa không thi hành trong nước, thì công danh không tỏ rõ. Cho nên sinh mệnh của con người là ở trời, sinh mệnh quốc gia là ở lễ. Đấng nhân quân trọng lễ nghĩa mà tôn người hiền thì làm nên nghiệp vương, trọng pháp mà yêu dân thì làm nên nghiệp bá, hám lợi mà dối trá thì nguy, dùng quyền mưu khuynh loát mà thâm hiểm âm ác thì diệt vong.
Tôn trọng trời mà mến trời thì sao bằng để cho vật súc tích nhiều, ta tài chế nó mà dùng? Theo trời mà ngợi khen trời thì sao bằng tài chế cái mệnh trời mà dùng? Trông mong thời mà đợi thời đến, thì sao bằng ứng thời mà điều khiển thời? Nhân những vật có sẵn mà mong cho nó nhiều ra sao bằng dùng tài trí mình mà biến hoá cho ra nhiều? Nghĩ đến những vật sẵn có mà dùng nó thì sao bằng trị vạn vật cho hợp lí, không để mất những vật ấy? Mong ngóng cho vật sinh ra, sao bằng thành tựu các vật ấy? Bỏ người (không trọng nhân sự) mà nghĩ đến trời (tôn sùng thiên mệnh) thì sai mất “tình thật” của vạn vật.
Cái mà bách vương không đổi thay (tức lễ chế) đủ làm mối nhất quán của đạo, cái đó, tuy có lúc hung, lúc phế, nhưng cứ tuỳ thời mà tương ứng với cái nhất quán đó thì không rối loạn. Không biết lấy lễ làm mối nhất quán của đạo thì không biết ứng biến. Cái đại thể của mối nhất quán đó không bao giờ diệt vong. Đại phàm hỗn loạn là đều do sự sai lầm, an trị đều do sự tinh tường (biết rõ mà nắm vững mối nhất quán của đạo). Cái hay của đạo là thích trung, thiên lệch là điều không nên, sai lệch thì lầm lớn. Người đi sông nước, coi cây nêu trỏ chỗ sâu nông, cây nêu không rõ thì chết đuối. Người trị dân thì lấy đạo làm nêu, nêu không rõ thì rối loạn. Lễ chính là cây nêu. Phỉ báng lễ là đời tối tăm, đời tối tăm là rối loạn lớn. Đạo luôn luôn sáng tỏ: trong (việc quan hôn), ngoài (việc triều sính) đều “nêu” rõ, kín, tỏ có phép thường, (như thế) cho nên cái hoạ dân chúng bị chết chìm mới mong trừ khử.
Bị vạn vật làm thiên lệch thì không thấy rõ đạo[542], bị một vật làm thiên lệch thì không thấy rõ muôn vật. Thiên lệch mà tự cho là biết đạo thì đâu phải là người trí. Thận Tử[543] thấy cái lẽ lùi lại, không thấy cái lẽ tiến lên[544], Lão Tử[545] thấy cái lẽ co, không thấy cái lẽ duỗi, Mặc Tử[546] thấy cái lẽ bằng đều, không thấy cái sai biệt, Tống Tử[547] thấy “Tình người là muốn ít”, không thấy “Tình người là muốn nhiều”. Lùi mà không tiến thì dân không có lối lên[548], co mà không duỗi thì sang hèn không phân biệt, bằng đều mà không sai biệt thì chính lệnh không thể thi hành, “tình người muốn ít chứ không muốn nhiều” thì quần chúng không thể cảm hoá. Kinh Thư có câu:
Chớ ưa một cách thiên lệch,
Cứ theo đạo của Tiên vương,
Chớ ghét một cách thiên lệch,
Cứ theo đạo của Tiên vương[549].
là nghĩa như vậy.
[532] Vua Kiệt mất: Câu này có thể dịch là: “Việc trời diễn tiến, có qui luật thường, chẳng vì thời Nghiêu trị mà qui luật ấy còn, chẳng vì thời Kiệt loạn mà qui luật ấy mất”.
[533] Biết trời: vì đạo trời khó lường mà thánh nhân chỉ quan tâm đến nhân sự.
[534] Thần sinh: ý nói: con người cũng do sự hoà hợp của khí và sự nuôi dưỡng của trời đất mà thành, hình hài đã đủ thì tinh thần phát sinh và tình cảm hoạt hiện.
[535] Hình thể: Nguyên văn chữ Hán: “Nhĩ, mục, tị, khẩu, hình năng các hữu tiếp nhi bất tương năng dã”. Các bản đều ngắt câu dưới chữ “năng” (hình năng). Vũ Đồng cho rằng chữ “năng” (能) là do chữ “thái” (態) viết lầm và cắt nghĩa là: “theo hình thái mà nói”. Trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc (in lần thứ nhất, trang 488, quyển I), chúng tôi dựa theo ý Vũ Đồng mà dịch: “Tai, mắt, miệng, mũi theo hình thái mà nói thì đều tiếp xúc với v.v…”. Chúng tôi nghĩ lại thấy không ổn nên, ở đây, dịch lại là: “hình thể” (quan năng của xúc giác). [Nguyên văn cả câu trong ĐCTHTQ (bản của Nxb Thanh Niên, năm 2004, trang 623, 624 và 942): “Nhĩ, mục, tị, khẩu, hình năng các hữu tiếp nhi bất tương năng dã, phù thị chi vị thiên quan” (耳目鼻口形能,各有接而不相能也,夫是之謂天官), và được dịch là: “Tai, mắt, mũi, miệng, theo hình thái mà nói, thì đều có thể tiếp xúc với bên ngoài nhưng không có “quyền năng” đối với nhau (nghĩa là không có cái nào làm chủ, sai khiến cái nào) cho nên gọi là thiên quan” (Quan là giữ một nhiệm vụ, quân là chủ tể). (Goldfish)].
[536] Không nên làm: thành toàn thiên công mà không ỷ lại vào trời.
[537] Chỉnh trang: Kinh Thi, Chu tụng, thiên Thiên tác. Ý nói: việc trị, loạn, lành, dữ là tại người, cũng như núi Kì hiểm trở, nhờ có hai vua Thái vương, Văn vương khai khẩn mới có những đường khang trang. “Bì thư hĩ Kì, Hữu di chi hành” (彼咀矣歧,有夷之行). [Nguyên văn đoạn trên đã dẫn trong thiên Vương chế (tuy lời dịch có hơi khác): Thiên tác cao sơn, Thái vương hoang chi, bi tác hĩ, Văn vương khang chi” (天作高山,太王荒之,彼作矣,文王康之). (Goldfish)]
[538] Nguyên văn: “Lễ nghĩa chi bất khiên, Hà tuất nhân chi ngôn hề” (禮義之不愆,何恤人之言兮). (Goldfish).
[539] Đúng lúc: Nguyên văn chữ Hán: “Cử thố bất thời” (舉措不時). Có nhà chú giải cắt nghĩa chữ “cử thố” là “khởi binh động chúng” nghĩa là dấy binh huy động dân chúng. [Chữ “thố”, có bản chép là: 錯, nghĩa là “sai, lầm”. (Goldfish).
[540] Thiển cận thôi: Ý nói: không xa vời như thuyết cho rằng tai hoạ là do những điềm không lành như sao sa, cây kêu.
[541] Không nên: Câu này có lẽ ở liền dưới câu “việc gốc bỏ bê” ở trên kia mới đúng.
[542] Rõ đạo: Nguyên văn chữ Hán: “Vạn vật vi đạo nhất thiên, nhất vật vi vạn vật nhất thiên, ngu vi vật nhất thiên (萬物爲道一偏…). Phương Hiếu Bác cắt nghĩa câu đầu là: “Muôn vật là thể của đạo”. Còn Vương Trung Lâm thì giảng là: Vạn vật là một bộ phận của đạo, mỗi vật là một bộ phận của vạn vật, kẻ ngu lại là một bộ phận của vật mà lại tự cho là biết đạo…
[543] Thận Tử: Thận Đáo (-370-290): Người nước Triệu. Học thuyết của ông bắt ngườn từ tư tưởng Đạo gia, viết 42 thiên sách, thất truyền. Hán Thư, Nghệ Văn Chí sắp ông vào phái Pháp gia. Được Thân Bất Hại và Hàn Phi khen là giỏi. Thận Tử chủ trương không chuộng người hiền, không dùng người tài năng, chỉ việc thi hành pháp luật, không có ý tranh tiên, cho nên Tuân Tử chê là không biết cái lẽ tiến lên.
[544] Xem thêm chú thích ở thiên “Sửa mình” và chú thích ở thiên “Chê mười hai nhà”.
[545] Lão Tử họ Lí, tên Nhĩ, tác giả Đạo Đức Kinh. Ông chủ trương “lấy co làm duỗi”, “lấy nhu nhược thắng cương cường” v.v… cho nên Tuân Tử chê ông là: “chỉ thấy cái lẽ co, không thấy cái lẽ duỗi”.
[546] Mặc Tử (-480-397) họ Mặc, tên Địch, người nước Lỗ, nổi tiếng về thuyết “Kiêm ái”, “phi công”. “Kiêm ái” là yêu hết mọi người và yêu bằng nhau, yêu người như yêu mình, yêu cha người như yêu cha mình, yêu nước người như yêu nước mình. Vì thế Tuân Tử chê ông là: “Thấy cái lẽ bằng đều, không thấy cái lẽ sai biệt” (xem thêm chú thích ở thiên “Chê mười hai nhà”).
[547] Tống Tử (-383-290): Tức Tống Kiên, cũng gọi là Tống Khanh, hoặc Tống Vinh Tử. Ông cho rằng tình người ta là muốn ít chứ không muốn nhiều. Trang Tử bảo rằng Tống Tử lấy cấm đánh nhau, triệt binh khí làm việc ngoài, lấy ít tình dục làm việc trong. (Xem thêm chú thích ở hai thiên “Sửa mình” và “Chê mười hai nhà”).
[548] Không có lối lên: Nguyên văn chữ Hán là “Vô môn” (無門). Mỗi sách giảng một cách mà không có cách nào xuôi.
[549] Như vậy: Kinh Thư, thiên Hồng phạm. [Nguyên văn: “Vô hữu tác hảo, Tuân vương chi đạo; Vô hữu tác ố, Tuân vương chi lộ” (無有作好,遵王之道;無有作惡,遵王之路). (Goldfish)].