← Quay lại trang sách

BÀN VỀ LỄ (Lễ luận)

Khác với Khổng, Mạnh, Tuân Tử rất chú trọng và đề cao công dụng của LỄ, cho lễ là cái tiêu chuẩn khách quan theo đó mà sửa mình, trị người.

Thiên này bàn rất kĩ về lễ. Chúng tôi lược bớt những chi tiết tỉ mỉ mà chỉ xin trích dịch những đoạn thật cần thiết bàn về:

- Lí do thánh vương đặt ra lễ,

- Ba nguồn gốc của lễ,

- Lễ đối với người sống và người chết,

- Phép cúng tế, để tang.

*

* *

Lễ ở đâu mà ra? Đáp: Người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm tòi, đòi hỏi, tìm tòi, đòi hỏi mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét loạn cho nên chế định lễ nghĩa để phân ra trật tự, để nuôi cái muốn của con người, cấp cho con người cái mà họ muốn, khiến cho cái muốn không đến cùng kiệt các vật, (nghĩa là phải có giới hạn), các vật không làm cùng kiệt cái muốn, hai cái đó (muốn và vật) phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng, đó là sơ khởi của lễ. Cho nên lễ là nuôi. Thịt loài vật – ăn cỏ, thóc -, lúa nếp, lúa kê, năm vị chế biến thơm ngon để nuôi miệng, hoa tiêu, hoa lan thơm tho để “nuôi” mũi, đồ điêu khắc, đồ gọt giũa, đồ thêu thùa đẹp đẽ để “nuôi” mắt, tiếng chuông, tiếng trống, tiếng khánh, tiếng tiêu, tiếng đàn sắt, đàn cầm, tiếng ống sinh, ống vu[550], êm đềm để “nuôi” tai, buồng thoáng, cung sâu, song thưa, giường êm để “nuôi” thân thể. Cho nên lễ cũng là nuôi.

Người quân tử được nuôi rồi, lại muốn phân biệt. Thế nào là phân biệt:

- Là sang hèn có cấp bực, lớn nhỏ có hơn kém, giàu nghèo có trọng khinh, ai nấy đều được đãi ngộ tương xứng. Cho nên thiên tử thì đi xe “Đại lộ”, bánh xe bọc cói, để “nuôi” thân thể, trên xe chở theo cỏ thơm để “nuôi” mũi, trước xe có cái “hành”[551] được trang sức để “nuôi” mắt, tiếng “hoà”, tiếng “loan”[552], nhạc Vũ-tượng lúc xe đi chậm, nhạc Thiều-hộ lúc xe chạy nhanh, để “nuôi” tai. Cờ Long-kì, cờ Cửu-du để “nuôi” lòng tin[553], võ sĩ thức ngủ không rời đồ giáp trụ, cung thì bọc da hùm, ngựa thì choàng da hình giao long, mui xe thì dệt bằng tơ, ách (vai) ngựa thì đeo những tấm vàng, phía dưới có hình đầu rồng, tất cả là để “nuôi” cái oai. Con ngựa kéo xe Đại lộ tất phải tập cho thật thuần rồi mới cho kéo, như thế là để “nuôi” sự bình yên, thoải mái. Nên biết cho rành rằng: liều chết chống giặc giữ toàn tiết nghĩa là để “nuôi” sự sống còn, nên biết cho rành rằng: tiêu tiền vào thành lập lễ nghĩa là để “nuôi” tiền (tránh sự cướp bóc lẫn nhau), nên biết cho rành rằng: lễ nghĩa, văn lí là để “nuôi” tình (giữ cho tính tình khỏi phóng túng). Cho nên chỉ thấy cái sống (mà níu lấy cái sống) thì tất chết, chỉ thấy cái lợi (mà bám vào cái lợi) thì tất hại, chỉ thấy biếng nhác là yên thì tất nguy, chỉ thấy vừa ý, đẹp lòng là vui thì tất diệt vong. Cho nên con người ta chuyên nhất vào tính tình thì mất cả hai, mất cả tính tình lẫn lễ nghĩa. Nho gia làm cho người ta được cả hai, Mặc gia làm cho người ta mất cả hai. Đó là chỗ khác nhau giữa Nho và Mặc vậy. Đối tượng của Lễ là ba nguồn gốc: Trời đất là nguồn gốc của sự sống, tổ tiên là nguồn gốc của giống nòi, vua và thầy là nguồn gốc của nền bình trị. Không có trời đất thì sự sống ở đâu mà ra? Không có tổ tiên thì giống nói ở đâu mà có? Không có vua, có thầy thì nền bình trị nhờ đâu mà được thiết lập? Ba nguồn gốc đó mà mất một con người hết yên. Cho nên lễ là trên thờ trời, dưới thờ đất, tôn kính tổ tiên mà quí trọng vua, thầy. Đó là ba nguồn gốc đối tượng của lễ.

Đấng vương giả thờ thuỷ tổ và thờ trời, vua chư hầu không dám tế nhà viễn miếu (thờ các vị tổ từ năm đời trở lên), tức không thờ thuỷ tổ và trời, đại phu và sĩ có nhà đại tôn (thờ tổ tiên hai, ba đời), như thế là để phân biệt trong việc tôn trọng nguồn gốc. Tôn trọng nguồn gốc là căn bản của đức. Chỉ thiên tử mới được làm lễ tế Giao (tế trời đất), vua chư hầu thì được làm lễ tế nhà Xã (tế đất), cũng như quan đại phu và sĩ[554]. Như thế là để phân biệt người ở ngôi cao thì cúng tế các vị thần cao, người ở ngôi thấp thì cúng tế các vị thần thấp. Nên lớn thì lớn, nên nhỏ thì nhỏ: Người có cả thiên hạ (thiên tử) thì thờ bảy miếu (bảy đời), người có một nước (vua chư hầu) thì thờ năm đời (năm miếu), người có năm cỗ xe (quan đại phu có thái ấp) thì thờ ba đời (ba miếu), người có ba cỗ xe (sĩ) thì thờ hai đời (hai miếu), người kiếm ăn bằng nghề chân tay (nông công) không được lập tôn miếu. Như thế là để phân biệt người có công lớn: Có công nghiệp lớn thì ân trạch rộng, có công nghiệp nhỏ thì ân trạch hẹp. Tế Đại hưởng (tế tiên vương) thì dâng nước lã, cá sống, nước thịt ép, như vậy là tỏ ý quí những thức ăn thức uống nguyên sơ. Tế Thời hưởng (mỗi mùa tế một lần) thì dâng nước lã rồi rót rượu ngọt, dâng gạo, nếp cái, nếp một, rồi cúng cơm tẻ, lúa kê, nguyệt tế thì “thần chủ”[555] nếm qua nước thịt ép mà ăn no các món khác, như vậy là tỏ ý quí cái gốc mà xem trọng miếng ăn. Quí cái gốc là “văn” (nghi thức), xem trọng miếng ăn là “lí” (hợp lẽ phải). Văn và lí hội đủ mà hướng về “thái nhất” (Thái cổ: tinh thần vụ bản truyền thống). Thế là lễ cực thịnh vậy (…)

Đại phàm lễ, lúc khởi thuỷ còn sơ lược, rồi được hoàn bị bằng nghi thức, sau cùng được tinh giản. Cho nên lễ rất được hoàn bị khi hội đủ cả phần ý tình lẫn phần nghi thức, dưới một bậc là khi phần ý tình thắng phần nghi thức, hoặc phần nghi thức thắng phần ý tình, dưới nữa là khi thiếu phần nghi thức nhưng ý tình vẫn hướng về “thái nhất” (thành thực, chất phác). Trời nhờ lễ (luật thứ tự trong thiên nhiên) mà hoà hợp; mặt trăng, mặt trời nhờ lễ mà sáng tỏ; bốn mùa nhờ lễ mà có thứ tự; tinh tú nhờ lễ mà chuyển vần; sông ngòi nhờ lễ mà lưu thông; vạn vật nhờ lễ mà sống còn, toại ý; ưa ghét nhờ lễ mà đúng mức; mừng giận nhờ lễ mà thích đáng; lễ khiến cho người dưới thuận, lễ khiến người trên sáng, lễ khiến cho vạn vật biến đổi mà không rối loạn. Không chuyên theo lễ thì diệt vong. Lễ chẳng rất mực tốt lành đấy ư? Thiết lập một lễ chế cực hay, cực đẹp để làm khuôn mẫu cho mọi tình tự của con người thì thiên hạ sẽ không còn thêm bớt được nữa. Gốc (ý tình) và ngọn (nghi thức) tương thuận, sau và trước tương ứng. Lễ rất mực uy nghi vì nó phân biệt trật tự trên dưới, lễ rất mực rành mạch vì nó phân biệt lời phải, lẽ trái. Thiên hạ theo lễ thì trị, không theo lễ thì loạn, theo lễ thì yên, không theo lễ thì nguy, theo lễ thì còn, không theo lễ thì mất. Kẻ tiểu nhân không lường được cái lẽ của lễ, vì lẽ ấy rất sâu. Lẽ của lễ rất sâu, cho nên cái thuyết “kiên bạch”, “đồng dị”[556] thật tinh vi lắt léo kia, đem vào lễ là chìm, lẽ của lễ rất lớn, cho nên những thuyết quê kệch, tự tiện lập ra, đem vào lễ lả mất, lẽ của lễ rất cao, cho nên những thói bạo ngược, ngạo mạn hay chê bai dông dài, đem vào lễ là rớt. Nảy dây mực thì không ai có thể lừa dối về cong ngay, bắt cán cân thì không ai có thể lừa dối về nặng nhẹ, đặt cái “qui” (cái com-pa), cái “củ” (thước nách) thì không ai có thể lừa dối về vuông tròn. Người quân tử rành về lễ thì không ai có thể lừa dối về điều trá nguỵ. Cho nên dây mực là tiêu chuẩn cực tốt cho sự thẳng ngay, cán cân là tiêu chuẩn cực tốt cho sự thăng bằng, cái qui, cái củ là tiêu chuẩn cực tốt của hình vuông, hình tròn, là là tiêu chuẩn cực tốt của đạo người. Vậy không theo đúng lễ, không giữ tròn lễ thì gọi là dân vô đạo, theo đúng lễ, giữ tròn lễ thì gọi là kẻ sĩ hữu đạo. Đứng trong lễ mà suy tư, gọi là khéo nghĩ, đứng trong lễ mà không thay đổi lập trường gọi là bền chí, người khéo nghĩ, bền chí đến cực độ thì là thánh nhân. Cho nên trời là hết mức cao, đất là hết mức thấp, vô cùng là hết mức rộng, thánh nhân là hết mức đạo. Kẻ học là cố nhiên học làm thánh nhân, chứ không phải chỉ học để nên con người vô đạo.

Lễ hiến dâng bằng vật dụng, làm cho long trọng bằng những nghi thức, tỏ rõ sang hèn, lấy hiến dâng ít hay nhiều mà phân biệt dưới trên, dùng nghi thức phong (linh đình) hay sái (tinh giản) cốt sao cho thích đáng. Vẻ kính (biểu hiện bằng nghi thức) nhiều, tâm thành (biểu hiện bằng lễ vật) ít, lễ mà kính hơn thành là phong. Vẻ kính giảm, thành nhiều, đó là lễ tạp, lễ ở mức trung. Cho nên đối với người quân tử (người biết lễ) thì lễ, lớn, có thể cực phong, nhỏ, có thể cực sái, vừa phải là kính và thành ngang nhau (………)

Lễ là cẩn thận về việc sinh tử. Sinh là sự bắt đầu đời người, tử là sự chấm dứt đời người. Sự bắt đầu và sự chấm dứt đều tốt đẹp, đạo làm người như thế là hoàn tất. Cho nên người quân tử kính sự bắt đầu mà cẩn thận đối với sự chấm dứt. Sự chấm dứt và sự bắt đầu được chu đáo như nhau, đó là đạo của người quân tử, là khía cạnh văn sức của lễ nghĩa, hậu với sự sống và bạc với sự chết, tức là kính cái hữu tri, khinh cái vô tri, khinh cái vô tri, đó là đạo của người không đứng đắn, thẳng thắng, là lòng bội bạc, tráo trở. Đem lòng bội bạc, tráo trở đối với kẻ hầu, người hạ, người quân tử còn lấy đó là điều đáng hổ thẹn thay, huống chi đem lòng đó mà thờ người thân quí của mình. Đạo với người chết là cái đạo chỉ có một lần chứ không hai (“nghĩa tử là nghĩa tận”). Cho nên lòng bầy tôi rất mực kính trọng vua, con rất mực kính trọng cha mẹ, thể hiện hết ở đó. Thờ người sống không trung hậu, cung kính, long trọng thì gọi là quê kệch, đưa người chết không trung hậu, cung kính, long trọng thì gọi là khô khan, bạc bẽo. Người quân tử khinh rẽ sự quê kệch và lấy sự khô khan, bạc bẽo làm điều đáng xấu hổ (………)

Tang lễ là cách tỏ tình của người sống đối với người chết, cho sự chết thêm phần trang trọng, là suy từ lòng thờ người sống mà tống táng người chết, không coi chết khác sống, không coi mất khác còn, cho sự chấm dứt với sự bắt đầu là một (……..)

Phàm lễ, thờ người sống là để tỏ bày niềm vui một cách trang trọng, cúng tế là tỏ bày niềm kính một cách trang trọng, tổ chức sư, lữ cho phép tắc là để tỏ bày uy vũ một cách trang trọng, về những điểm đó, các đấng vương giả đều giống nhau, đời xưa và đời nay đều nhất trí (………)

…Tế tự là để kính thờ vong linh người khuất, khắc công vào tự khí (đồ thờ), làm lời “luỹ” (kể đức hạnh) để đặt tên “thuỵ”, ghi chép tính nết, thói quen, tất cả những điều đó là để kính truyền cái danh người đã khuất. Thờ người sống là làm cho sự bắt đầu trở nên trang trọng, tống táng người chết là làm cho sự chấm dứt trở nên trang trọng. Làm cho sự bắt đầu và sự chấm dứt đều được tươm tất trang trọng, đó là bổn phận của người con hiếu được vẹn tròn, là đạo của thánh nhân được đầy đủ. Đẽo người chết mà đắp cho người sống là theo bọn Mặc[557], đẽo người sống mà đắp cho người chết là mê hoặc, bắt người sống chết theo người chết là hành vi tàn tặc. Suy lòng thờ người sống mà tống táng người chết, khiến cho việc thờ người sống, tống táng người chết cũng như việc bắt đầu và việc chấm dứt đều được phải chăng, tốt đẹp, đó là phép tắc của lễ nghĩa của nho giả vậy.

Để tang ba năm là nghĩa làm sao? – Rằng: cân nhắc tình nặng nhẹ mà chế lễ cho vừa phải để phân biệt thân sơ, sang hèn mà không thêm bớt được, cho nên nói: đó là một định chế, dù đi đâu cũng không thể thay đổi. Vết thương lớn thì lâu hàn, đau nhiều thì lâu khỏi, đặt ra cái tang ba năm là để tương xứng với nổi đau thương cực độ. Mặc áo sô sổ gấu, chống gậy tre, ở lều, ăn cháo, nằm gai, gối đất là để bày tỏ tấm lòng rất mực đau thương. Tang ba năm chỉ để hai mươi lăm tháng. Đau thương chưa hết, nhớ tiếc chưa nguôi, vậy mà lễ định rút ngắn đi như thế, há chẳng phải là vì lẽ tống táng đã xong, cần phải tiết chế lòng nhớ thương mà trở lại công việc sinh sống đấy ư? Sinh ra trong khoảng trời đất, hễ là loài có huyết khí, tất có hiểu biết. Đã là loài có hiểu biết thì chẳng loài nào là không yêu mến đồng loại. Xem như những giống chim to, loài thú lớn kia, khi mất đôi, lạc đàn, thì qua cả tháng rồi, ắt trở lại chốn cũ, quanh quẩn, kêu gào, giẫm đạp, dùng dằng, mà sau mới đành bỏ đi. Nhưng giống chim nhỏ như con sẻ, con én kia, cũng còn sè sè, chim chíp, mãi rồi mới chịu bỏ đi. Mà trong các loài có huyết khí, thì không loài nào hiểu biết bằng loài người, cho nên khi người thân mất, người ta thương xót đến trọn đời vẫn chưa nguôi. Theo như bọn dâm tà ngu lậu ư? Cha mẹ mất buổi sáng, buổi chiều quên liền! Để mặc họ thì, về điểm đó, họ bằng cả loài cầm thú. Còn làm sao mà tránh được cho cuộc sống tập thể khỏi rối loạn được! Theo như các bậc quân tử ư? Thì tang ba năm chấm dứt sau hai mươi lăm tháng, thời gian đó trôi mau như chiếc xe bốn ngựa vụt qua khe cửa, nhưng niềm thương nhớ thì chẳng bao giờ nguôi. Cho nên các đấng tiên vương, các bậc thánh nhân mới đặt ra tang phục mà tiết chế lòng thương xót, sao cho thời hạn để tang vừa phải, cho mối giềng tốt đẹp thì thôi (…)

Thế thì để tang người thân tình một năm là tại làm sao? – Rằng: trời đất đã thay đổi bốn mùa, đã đi hết một vòng, vạn vật không vật nào là không đổi mới, cho nên thánh vương cũng bắt chước (mà giới hạn thời gian để tang là một năm). Thế thì tang ba năm là nghĩa thế nào? – Rằng: ơn cha mẹ dầy hơn, nên tang để lâu hơn, xét nên lâu gấp đôi và để thêm một năm nữa. Còn tang để từ chín tháng trở xuống là nghĩa thế nào? – Rằng: Vì xét ơn không dầy bằng. Tang ba năm là tang gia tăng để bày tỏ tình thân, tang ba tháng, sáu tháng là để tỏ tình sơ, tang chín tháng ở vào khoảng giữa.

Trên theo mẫu mực của trời, dưới theo mẫu mực của đất, giữ theo phép tắc của người, nhờ vậy mà người ta thực hiện hết cái đạo lí “quần cư hoà nhất”[558]. Cho nên để tang ba năm là điều làm cho đạo làm người trở nên đẹp đẽ rất mực. Tang ba năm là cái tang lễ trọng đại nhất, được các vương giả đều tán đồng, đời xưa cũng như đời nay, đều nhất trí tuân theo. Để tang vua ba năm là nghĩa làm sao? – Rằng: vua là người trị dân, giữ gìn trật tự, là nguồn gốc của pháp lí, là đối tượng cao nhất của lòng trung thành, cung kính, thế thì thân dân để tang vua một cách long trọng, há chẳng nên ư? Kinh Thi có câu:

Vua vui vẻ dễ dàng,

Là bậc cha mẹ dân[559].

“Vua là cha mẹ dân”, đó là lời người xưa đã nói và lời nói đó vốn có lí do: Cha sinh được mà không bú mớm, nuôi nấng được; mẹ nuôi nấng được mà không dạy bảo được, vua thì vừa nuôi nấng lại vừa khéo dạy bảo. Để tang ba năm, tưởng cũng chưa bày tỏ được hết lòng biết ơn (…)

Đấng tiên vương lập ra tang chế, tế tự là để bày tỏ hết mức cái nghĩa tôn kính người trên và thân yêu người thân vậy. Bởi thế nói: Tế tự là bày tỏ cái tình ý tưởng nhớ hâm mộ, cái lòng trung tín, kính ái rất mực, là nghi thức giãi bày lòng trung thành, cung kính một cách trang trọng nhất. Không phải là bậc thánh thì không hiểu được ý nghĩa đó. Bậc thánh nhân biết rõ, bậc sĩ quân tử yên lòng thi hành, bách quan gìn giữ, trăm họ tuân theo thành tập tục. Bậc quân tử coi đó là đạo người đối với người, trăm họ thì cho đó là đạo người đối với quỉ thần (…)

Tỏ lòng thương, tỏ lòng kính, thờ người chết như thờ người sống, thờ lúc mất như thờ lúc còn, người khuất không thấy hình bóng, thờ kính như vậy, tưởng chừng như việc làm mơ hồ, thế nhưng chính đó lại là cái nghi thức hoàn thành đạo làm người.

[550] Sinh, vu: Sinh: Nhạc khí do 13 ống ghép lại, - Vu: Nhạc khí do 36 ống ghép lại.

[551] Hành: miếng gỗ ngang trước xe, hai đầu có hai miếng gỗ dong đóng vào hai bên thành xe.

[552] Loan: Chuông nhỏ, chuông to treo trong xe.

[553] Lòng tin: Dân chúng trông thấy cờ này biết chắc là vua ngự.

[554] Nguyên văn chữ Hán: Nhi xã chỉ ư chư hầu, đạo cập sĩ, đại phu (而社止於諸侯道及士大夫). “Đạo cập” có nghĩa là “suốt tới”. Cũng có thuyết cho “Đạo” là thần: “Thần đường cái”. Theo Lễ, đại phu và sĩ được phép tề thần đường và thần ngõ.

[555] Thần chủ: Chữ Hán là “thi” (尸). Thời xưa, con tế cha mẹ đã mất thì anh hoặc em ruột làm “thi” thay cha mẹ mà hưởng đồ cúng tế. Về sau, người ta dùng hoạ thượng làm “thần chủ” thay cho “thi”.

[556] Đồng dị: “Li kiên bạch, hợp đồng dị”: một thuyết của Danh gia, chủ trương tách cái chắc, cái trắng (của hòn đá) ra làm hai, và đồng nhất sự giống nhau và khác nhau (xin xem thêm chuyết tác “Đại Cương Triết Học Trung Quốc”).

[557] Mặc Tử chủ trương tiết táng, đoản tang (Tinh giảm sự chôn cất, để tang ngắn).

[558] Hoà nhất nghĩa là: Sống thập thể thuận hoà, đoàn kết.

[559] Cha mẹ dân: Kinh Thi, Tiểu nhã, Thanh Nhăng. Nguyên văn chữ Hán: trong Kinh Thi là “Khởi để quân tử, vô tín sàm ngôn (愷悌君子,毋信讒言): Vua vui vẻ dễ dàng, chớ nghe lời gièm pha. [Chữ 愷, Thiều Chửu đọc là “khải”. (Goldfish)].