← Quay lại trang sách

GIẢI TRỪ NHỮNG CÁI CHE LẤP (Giải tế)

Thiên này bàn về cái nguyên nhân làm cho tâm người ta bị “che lấp” (bế tắc), không thấy rõ được chân tướng sự vật và về cái phương pháp giải trừ sự che lấp đó. Đây là thiên nghị luận về tâm-lí-học của tác giả.

Tổng cương toàn thiên nằm trong hai câu đầu thiên:

“Trị tắc phục kinh, lưỡng nhi tắc hoặc”[562] (Phép trị tâm là khôi phục cái chính đạo: hễ không chuyên nhất và ngờ vực thì lầm lẫn) và “trị chi (tâm), tri đạo (…) hư nhất nhi tĩnh”[563] (Phép trị tâm để rõ đạo là giữ cho tâm “hư”, “nhất” mà “tĩnh”).

Ngoài ra, tác giả còn phân tích các động thái tâm lí, mô tả những ảo (hoảng) giác khi trong lòng có mối hồ nghi và khu biệt “đạo tâm” với “nhân tâm”, cùng phê bình các phương pháp tu dưỡng[564].

*

* *

Mối lo của người ta là bị thành kiến che lấp, làm cho chỉ thấy một khía cạnh sự vật mà không rõ được toàn diện chân lí. Muốn giải trừ mối lo ấy, cần khôi phục cái chính đạo (cái phép chính thường). Tâm không chuyên nhất và nghi hoặc thì tất lầm lẫn. Thiên hạ không có hai đạo, thánh nhân không có hai tâm. Nay chính trị của chư hầu, mỗi nước một khác, học thuyết của bách gia cũng mỗi nhà một khác, thì tất nhiên có nước trị, nước loạn, nhà phải, nhà trái. Những ông vua nước loạn, những ông chủ nhà[565] loạn, có ai chẳng thực lòng tìm tòi lẽ phải mà hành động theo? Chỉ vì ghét ghen mà nhận lầm đường thẳng, cho nên mới bị người ta nhân chỗ sở hiếu, sở ố của mình mà dẫn dụ mình đi chệch đường. Đem lòng riêng tư đối với một thói quen (mình ưa) thì chỉ sợ người ta chê thói quen ấy là dở, dựa vào lòng riêng tư mà xét các đạo thuật khác (với đạo thuật mình chuộng) thì chỉ sợ nghe người khen cái đạo thuật ấy là hay, cho nên mới xa rời đường ngay mà vẫn cho mình đi đúng hướng, tiến mãi không ngừng, há chẳng phải là bị thiên kiến che lấp? làm cho lầm lạc trên con đường đi tìm lẽ phải đấy ư? Con tâm không sử dụng thì trắng đen trước mắt còn chẳng trông thấy thay, trống lớn bên tai còn chẳng nghe thấy thay, huống hồ khi con tâm bị che lấp! Người nắm được chính đạo, trên, bị các ông vua làm loạn nước chê, dưới, bị các “gia chủ” làm loạn “nhà” chê, há chẳng đáng thương ư?

Tại sao mà bị che lấp? Tại sở dục làm cho bị che lấp, tại chỗ bắt đầu (sự sống) làm cho bị che lấp, tại chỗ chấm dứt (sự chết) làm cho bị che lấp, tại xa làm cho bị che lấp, tại gần làm cho bị che lấp, tại rộng làm cho bị che lấp, tại nông làm cho bị che lấp, tại xưa làm cho bị che lấp, tại nay làm cho bị che lấp. Phàm muôn vật khác nhau, chẳng vật nào là chẳng che lấp lẫn nhau, đó là mối lo chung của tâm thuật mọi người vậy.

Các ông vua đời xưa bị cái nạn che lấp là vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân. Vua Kiệt bị nàng Muội Hỉ[566] và người Tư Quan[567] che lấp, nên không biết có ông Quan Long Phùng[568], vì thế mà tâm mê hoặc và hành vi lầm lẫn. Vua Trụ bị Đắc Kỉ[569] và Phi Liêm[570] che lấp, nên không biết có ông Vi Tử Khải[571], vì thế mà tâm mê hoặc và hành vi lầm lẫn. Vì vậy quần thần mới bỏ lòng trung, chuyên mưu lợi riêng, trăm họ oán trách, không qui phụ, bậc hiền lương rút lui, lánh xa, ấy chín châu[572] tiêu trầm, tôn miếu tan hoang, chính là vì vậy. Vua Kiệt chết ở Lịch Sơn[573], vua Trụ treo cổ dưới ngọn xích bái[574]. Mình không tự biết, người lại không can, đó là cái hoạ của tình trạng bị che lấp vậy. Vua Thành Thang[575] trông gương vua Hạ Kiệt, cho nên thận trọng trị con tâm, giữ cho con tâm chuyên nhất, nhờ vậy mà dùng ông Y Doãn được lâu dài, không lỗi đạo, đó là lí do khiến ông thay thế được vua nhà Hạ mà làm chủ chín châu. Vua Văn vương nhà Chu trông gương Ân Trụ, cho nên thận trọng trị con tâm, giữ cho con tâm chuyên nhất, nhờ vậy mà dùng ông Lữ Vọng được lâu dài, không lỗi đạo, đó là lí do khiến ông thay thế được vua nhà Ân mà làm chủ chín châu, các nơi ở xa, chẳng nơi nào không gửi những vật lạ, quí tới, cho nên mắt được nhìn đủ các màu sắc, tai được nghe đủ các âm thanh, miệng được nếm đủ các mùi vị, thân được ở đủ các cung thất, danh mang đủ các mĩ hiệu, sống thì thiên hạ ca tụng, chết thì bốn bể khóc thương. Đức được như thế là đạt tới mức chí thịnh. Kinh Thi có câu:

Chim phượng chim hoàng múa hót,

Cánh xoè xoè trông như tấm mộc,

Giọng véo von như tiếng tiêu,

Chim phượng chim hoàng đẹp đôi vừa lứa,

Mà lòng vua vui vẻ bao nhiêu![576]

Đó là nói cái phúc không bị che lấp mà có vậy.

Các nhân thần đời xưa bị cái nạn che lấp là Đường Ưởng[577], Hề Tề[578]. Đường Ưởng bị lòng ham chuyên quyền che lấp mà đuổi Đái Tử[579]. Hề Tề bị lòng ham có nước che lấp mà hại Thân Sinh[580]. Đường Ưởng bị giết ở nước Tống, Hề Tề bị giết ở nước Tấn. Đuổi viên tướng hiền (Đái Tử), hại người anh tốt (Thân Sinh) cho nên bị giết, thế mà vẫn không hay, đó là cái hoạ vì bị che lấp mà chuốc lấy vậy. Cho nên tham lam phản bội, tham quyền mà không bị nguy nhục, diệt vong là chuyện xưa nay chưa bao giờ có. Bảo Thúc, Ninh Thích, Thấp Bằng[581] vừa nhân vừa trí, lại không bị che lấp, cho nên giúp được Quản Trọng[582] mà danh lợi, phúc lộc ngang với Quản Trọng. Thiệu Công, Lữ Vọng vừa nhân vừa trí, lại không bị che lấp, cho nên giúp được Chu Công[583] mà danh lợi phúc lộc ngang với Chu Công[584]. Câu sách nói:

Biết người hiền là trí,

Giúp người hiền là tài,

Cố công gắng chí,

Phúc lộc lâu dài,

là nghĩa như vậy. Đó là nhờ cái phúc không bị che lấp vậy.

Các du sĩ đời xưa bị che lấp là những người lập nên những tạp thuyết: Mặc Tử[585] bị thực dụng che lấp mà không biết có văn sức, Tống Tử[586] bị tình dục che lấp mà không biết có đạo đức, Thân Tử[587] bị hình pháp che lấp mà không biết tài trí. Huệ Tử[588] bị cái danh che lấp mà không biết cái thực, Trang Tử[589] bị trời (tự nhiên) che lấp mà không biết người (nhân vi). Cho nên lấy thực dụng làm đạo thì hết thảy chỉ vụ khoái cảm, lấy hình pháp làm đạo thì hết thảy chỉ thấy chú trọng vào số mục điều văn, lấy uy thế làm đạo thì hết thảy chỉ vụ thuận tiện, lấy danh từ làm đạo thì hết thảy chỉ nhằm lí luận hình thức, lấy trời làm đạo thì chỉ nương theo tự nhiên mà phó mặc hết thảy. Thực dụng, tình dục, hình pháp, uy thế, danh từ, trời chỉ là những khía cạnh của đạo. Đạo là cái mà thể vốn thường tồn với trời đất, còn dụng thì thường biến nơi vạn vật. Biết một khía cạnh chưa hẳn là biết. Hạng người “khúc trí” (thiên kiến), mới có cái nhìn cục bộ, chỉ thấy một khía cạnh, chứ chưa thấy được toàn diện của Đại đạo, mà đã cho là thấy đủ, rồi điểm tô cho lí thuyết của mình, tự mình đã lầm lẫn, lại còn mê hoặc người, trên che lấp dưới, dưới che lấp trên: Đó là cái hoạ vì bị che lấp, tự bưng bít mà chuốc lấy vậy. Khổng Tử đã nhân, đã trí lại không bị che lấp, cho nên học đạo thuật trị thiên hạ, tài nghệ sánh kịp các đáng tiên vương, học đạo nhà Chu[590] thành một nhà lập riêng được học thuyết, đem ra ứng dụng không bị các tạp thuyết và thành tích của chế độ chính giáo đời xưa che lấp. Cho nên đức của ông bằng đức của Chu Công, danh của ông bằng danh của Tam vương. Đó là cái phúc nhờ không bị che lấp mà có vậy.

Thánh vương biết mối lo của tâm thuật, thấy mối hoạ của những cái bị che lấp, cho nên, để khỏi thiên trệ về một phía, mới không ưa, ghét, không chấp trước sau, - gần xa, - rộng hẹp, - sâu nông, - xưa nay, - coi muôn vật đồng đều, cầm thẳng cán cân mà nhắc sự vật. Cho nên những vật khác nhau không che lấp lẫn nhau mà làm rối lí. Cán cân đó là gì? – Là đạo. Cho nên tâm không thể không biết đạo. Tâm không biết đạo thì chẳng cho đạo là phải, lại cho là phải cái không phải đạo. Khi dục vọng được tự do thì con người ta, có ai lại ôm lấy cái mình thấy không phải là đạo và tự cấm tuyệt cái mình cho là phải đạo bao giờ? Lấy con tâm không cho đạo là phải mà chọn người, thì tất lựa chọn người không cho đạo là phải (theo đạo) mà họ vốn không hợp. Lấy con tâm không cho đạo là phải mà cùng với người không cho đạo là phải (không theo đạo) bàn về người cho đạo là phải (theo đạo), đó là nguồn gốc của mối hoạn vậy, sao được gọi là sáng suốt, là biết đạo[591]. Tâm biết đạo rồi sau mới cho đạo là phải. Cho đạo là phải, rồi sau mới có thể ôm lấy đạo mà tự cấm tuyệt cái phi đạo. Lấy con tâm biết đạo là phải mà lựa chọn người thì tất hợp với, tất lựa chọn người cho đạo là phải (theo đạo), và không hợp với, không lựa chọn người không cho đạo là phải (không theo đạo).

Lấy con tâm biết đạo là phải mà cùng với người theo đạo bàn về người chống đạo, đó là điều cần thiết cho nền bình trị vậy[592]. Còn lo gì chẳng sáng suốt, chẳng biết đạo? Cho nên điều quan yếu của thuật trị bình là biết đạo.

Nhờ cái gì mà con người biết đạo? Nhờ cái tâm. Cái tâm tại sao mà biết được đạo? Bởi tâm “hư” (trống không), “nhất” (chuyên nhất) và “tĩnh”[593] (an định). Tâm chưa từng bao giờ không chứa đựng[594], nhưng vẫn có cái trạng thái gọi được là “hư”, tâm chưa từng bao giờ không biết hai việc của một lúc, nhưng vẫn có cái trạng thái gọi được là “nhất”, tâm chưa từng bao giờ không hoạt động, nhưng vẫn có cái trạng thái gọi được là “tĩnh”. Người ta sinh ra là có cái biết (tri năng), có cái biết thì có cái nhớ (chí). Cái nhớ tức là cái biết chứa chất ở trong tâm, tuy nhiên tâm vẫn có cái trạng thái gọi được là “hư”: chẳng vì cái đang chất chứa mà hại đến cái sắp tiếp nhận, như thế gọi là “hư”; tâm sinh ra là có biết, biết mà phân biệt dị đồng, phân biệt dị đồng tức là cùng một lúc biết gồm (nhiều thứ), biết gồm là đồng thời biết ít nhất hai điều. Tuy nhiên tâm vẫn còn có cái trạng thái gọi được là “nhất”: chẳng lấy một điều biết nào làm hại một điều biết nào, như thế gọi là “nhất”. Tâm, ngủ thì mộng mị, sểnh ra thì tự ý lông bông, khi được dùng thì suy tính, cho nên tâm chưa từng bao giờ không hoạt động, tuy nhiên tâm vẫn có cái trạng thái gọi được là “tĩnh”: không vì mộng mị mà vơ vẩn, buồn phiền, làm cho cái biết rối loạn, như thế gọi là “tĩnh”. Chưa được đạo mà cầu đạo thì bảo: hãy dưỡng cái tâm cho nó “hư”, “nhất” và “tĩnh”, lập thành chuẩn tắc mà theo. Theo cái chuẩn tắc “hư” mà cầu đạo thì sẽ vào được đạo, theo cái chuẩn tắc “nhất” mà thờ đạo thì sẽ hiểu thấu đạo, theo cái chuẩn tắc “tĩnh” mà luôn nghĩ đến đạo thì sẽ sáng suốt, hiểu đạo rành mạch (không còn bị che lấp). Đích thân hành đạo, thể nghiệm đạo, mới hiểu rành mạch được đạo và, ngược lại, có hiểu rành mạch đạo mới cung hành, thể nghiệm được đạo. Giữ được con tâm “hư”, “nhất” và “tĩnh”, ấy là tâm tới cảnh giới “Đại thanh minh” (rất sáng suốt). Trong cảnh giới rất sáng suốt của tâm đó, muôn vật không có vật nào có hình mà không hiện rõ chân tướng, không vật nào hiện rõ chân tướng mà không biện luận rành mạch được cái lí của nó, không một vật nào, cái lí của nó đã biện luận được rành mạch mà lại bị đánh giá sai lầm. Ngồi ở nhà mà biết khắp bốn bể, ở đời nay mà hiểu việc lâu dài, quan sát sự vật bằng cái nhìn nhất quán mà biết sự thật của sự vật, khảo nghiệm các cuộc trị loạn mà hiểu lẽ thịnh suy, lập mối giường cho trời đất mà định vị tương xứng cho vạn vật, phân tích cái tổng nguyên lí của vũ trụ mà thấy được trật tự của tự nhiên. Thênh thang, bao la, biết đâu là bến bờ? Rộng rãi, mênh mông, biết đâu là công đức? Sôi sục, rối bời, biết sao được hình dạng? Sáng ngang mặt trăng, mặt trời, lớn khắp bốn phương, tám hướng. Ấy, bậc đại nhân là như thế đó, còn cái gì che lấp được.

Con tâm ngự trị phần hình, làm chủ phần thần, ra lệnh mà không chịu lệnh. Nó tự cấm đoán nó, tự sai sử nó, có tự đoạt tự thủ, tự hành, tự chỉ. Cho nên có thể cướp lời mà bắt im, có thể cưỡng ép thân thể mà bắt co duỗi, chớ không thể bắt buộc được con tâm phải đổi ý: Phải thì nó chịu, không phải thì nó từ chối, cho nên nói: “Tâm dựng sự vật, tự quyết định, lựa chọn, sự vật bác tạp, nhưng tâm chuyên nhất đến cao độ thì nó không lẫn lầm”[595].

Kinh Thi có câu:

Hái rau quyền nhĩ,

Không được lưng giỏ,

Ôi! ta nhớ ai,

Bên đường ta bỏ![596]

Giỏ dễ đầy, rau quyền nhĩ dễ kiếm, thế mà phân tâm (không chuyên nhất) thì giỏ chẳng đầy rau, còn quên mà bỏ bên đường nữa! Cho nên tâm mà phân thì chả còn biết gì, nghiêng lệch thì cái biết không còn tinh tế, không chuyên nhất thì nghi hoặc. Trái lại, giúp cho con tâm khảo sát trong trạng thái “hư, nhất” thì có thể biết gồm vạn vật, chuyên nhất đến hết mức vào việc làm thì việc làm sẽ tốt đẹp. Việc đều có thống loại riêng, không thể một lúc làm hai việc được[597]. Cho nên biết là biết chọn lấy một mà chuyên nhất vào đó. Người làm ruộng sành việc cày cấy mà không thể làm vị sư trưởng của nghề làm ruộng (như trưởng nha canh nông ngày nay), người đi buôn sành việc mua bán mà không thể làm vị sư trưởng của nghề đi buôn, người làm thợ sành việc chế tạo đồ dùng mà không thể làm vị sư trưởng của nghề làm thợ. Là vì họ chỉ sành cái nghề riêng của họ và vì bị nghề riêng che lấp. Có người không sành ba nghề đó mà có thể khiến họ trị lí công việc của Tam quan[598], ấy vậy là vì người ấy hiểu đạo, khác với người hiểu việc. Sành một việc thì trị lí được một việc, sành về đạo thì kiêm trị mọi việc. Chuyên chú vào đạo thì cái biết đúng, trị lí mọi việc thì cái biết thêm rành. Biết đúng, hiểu thấu thì đánh giá sự vật không sai, đặt sự vật vào vị trí tương xứng. Xưa, vua Thuấn trị thiên hạ (chuyên chú vào việc đạo), chẳng cần đích thân bảo ban từng việc mà sự sự vật vật đều thành tựu. Vua Thuấn vì biết chuyên nhất mà cẩn thận cảnh giới nên vinh quang đầy mình, ông chuyên nhất tu dưỡng tinh vi cho nên tới cảnh vinh quang mà không hay. Kinh Thư nói:

“Nhân tâm thắc thỏm khó yên,

Đạo tâm vi áo khó rõ”[599]

Cái thắc thỏm đó, cái vi áo đó, chỉ bậc quân tử sáng suốt mới thấy rõ được. Con tâm người ta ví như mâm (hoặc thùng) nước, mâm ngay ngắn nước không sóng sánh thì cặn lắng mà mặt nước trong sáng, có thể soi rõ từng kẻ tóc, chân mày[600]. Gió nhẹ lướt qua, cặn vẩn lên, mặt nước động, thì những vật lớn soi cũng không thật. Con tâm cũng vậy: hướng dẫn nó bằng lí, giữ gìn, nuôi nấng nó cho trong, không để ngoại vật làm cho nó nghiêng lệch thì nó định rõ được phải trái, giải quyết được hiềm nghi, một vật nhỏ dẫn dụ, là sự vật bên ngoài đổi thay chân tướng và con tâm bên trong mất thế bình chính, không quyết đoán được mọi lẽ. Nhiều người thích viết chữ mà chỉ chữ của Thương Hiệt[601] được truyền lại đời sau, ấy bởi Thương Hiệt đã chuyên chú vào đạo sáng chế chữ. Nhiều người thích trồng trọt, mà chỉ phép trồng trọt của Hậu Tắc[602] được truyền lại, ấy là vì Hậu Tắc đã chuyên chú vào đạo trồng trọt. Nhiều người thích âm nhạc, mà chỉ âm nhạc của ông Quì[603] được truyền lại đời sau, ấy là vì ông Quì đã chuyên chú vào đạo chế âm nhạc. Nhiều người ưa điều nghĩa mà chỉ có hạnh của ông Thuấn được truyền lại đời sau, ấy là vì ông Thuấn đã chuyên chú vào việc nghĩa. Ông Thuỳ[604] làm cung, ông Phù Du[605] làm tên mà ông Nghệ[606] rành về phép bắn, ông Hề Trọng[607] sáng chế xe, ông Tang Đỗ[608] dạy phép dùng xe bốn ngựa mà ông Tạo Phủ[609] rành nghề đánh xe. Từ xưa đến nay, chưa từng bao giờ không chuyên chú mà rành rọt được cả. Thầy Tăng Tử nói: “Mắt để ngoài sân rình đập chuột, thì làm sao cùng ta ca vịnh được”.

Trong hang đá nọ, có người tên Cấp[610], người ấy bắn giỏi vả suy tư về thuật bắn. Muốn tai mắt tiếp xúc ngoại vật thì bại mất cái hứng suy tư, tiếng ruồi muỗi có thể làm tổn giảm niềm tinh thành, biết vậy, cho nên người ấy bít cái dục ở tai mắt, lánh xa tiếng ruồi muỗi (vào ở trong hang), nhàn nhã mà sống, tĩnh mịch mà nghĩ, nên mới thấu triệt thuật bắn.

Suy tư về nhân mà cũng được như thế thì hoặc giả tới cảnh giới “duy tinh, duy nhất” chăng? Ông Mạnh Tử sợ bại đức mà bỏ vợ, có thể nói sửa mình như thế là có nghị lực tự cường, nhưng vẫn chưa bằng chịu suy tư. Ông Hữu Tử[611] đốt tay để khỏi buồn ngủ, có thể nói chăm học như thế là có nghị lực tự nhẫn, nhưng chưa bằng ưa suy tư. Bít cái dục của tay mắt, xa lánh tiếng ruồi muỗi nó làm tổn giảm niềm tinh thành, có thể nói như thế là biết e sợ, tự cảnh giới, nhưng vẫn chưa thể nói là tới cảnh giới “duy tinh, duy nhất”. Tới cảnh giới “duy tinh, duy nhất” là bậc chí nhân. Bậc chí nhân thì cần gì tự cưỡng, tự nhẫn, tự nguy[612]. Sáng mà chưa trong là sáng bên ngoài mà bên trong còn đục[613], sáng mà trong vắt là sáng cả ngoài lẫn trong, - sáng từ trong sáng ra[614]. Đấng thánh nhân túng dục, tận tình mà vẫn ám hợp với cái lí nó tài chế, thì cần gì tự cường, tự nhẫn, tự nguy. Cho nên bậc nhân giả hành đạo không làm điều gì biết là trái lí, đấng thánh nhân hành đạo không cần miễn cưỡng, tự chế. Bậc nhân giả suy tư thì cung kính, đấng thánh nhân suy tư mà thấy vui. Ấy cái đạo trị tâm là như thế đó.

Đại phàm xét vật, có chỗ nghi ngờ, con tâm bất định, thì ngoại vật không rõ rệt. Suy nghĩ chưa ra thì chẳng nên quyết đoán nên chăng, phải trái. Đi trong đêm tối, thấy khối đá nằm, ngỡ là con cọp nép, nom lùm cây, ngỡ có bóng người theo. Đó là bóng tối che mất cái sáng láng vậy. Kẻ say rượu vượt cái ngòi trăm bộ, ngỡ bước qua cái rãnh vài gang, khom lưng qua cổng thành, ngỡ chui cái cửa nhỏ. Đó là men rượu làm mê man tâm thần vậy. Ấn mắt rồi nhìn thì một trông ra hai, bịt tai mà nghe, thì không tiếng động, vẫn thấy ù ù. Đó là cái sự thế nó làm cho giác quan rối loạn vậy. Cho nên từ trên núi nhìn xuống, bò nom ngỡ trừu mà người tìm trừu không xuống dắt. Đó là tầm xa che lấp bề to vậy. Từ dưới núi nhìn cây (trên cao), cây mười “nhận” còn bằng chiếc đũa, mà người cần đũa không lên bẻ. Đó là tầm cao che lấp bề dài vậy. Nước động mà bóng lay, người không biết chắc bóng xấu hay đẹp. Đó là thế nước làm hoáng mắt ta vậy. Người đui ngửa mặt trông mà chẳng thấy sao, có sao hay không, nào có thấy gì đâu mà chắc. Đó là mắt hỏng làm cho người ấy lầm vậy. Ở trong những tình trạng như thế mà toan xét đoán sự vật thì quả thật là con người ngu nhất đời. Nghi mà quyết đoán, quyết đoán tất không đúng, đã không đúng thì có thể nào không lỗi lầm. Ở phía nam cửa sông Hạ Thuỷ[615], có anh chàng tên là Quyên Thúc Lương ngu đần mà lại nhát, đêm trăng ra đi, cúi nhìn bóng mình, ngỡ là quỉ nép, ù té chạy trở lại, về gần tới nhà thì đứt hơi mà chết, thế có đáng thương không! Phàm người bảo có ma, tất là trong cơn hoảng hốt đã “thần hồn nát thần tính” mà vội vàng quyết đoán, không, cho là có, có, bảo là không. Bị thấp khí thì sinh tê bại, tê bại mà đi mổ lợn, đập trống cúng cầu thì thủng trống, mất toi lợn mà tê bại vẫn hoàn tê bại, tuy chẳng ở cửa sông Hạ Thuỷ, mà ngu cũng chẳng kém Quyên Thúc Lương.

Có khả năng biết là tính của người, có thể biết là lẽ của vật. Lấy cái nhân tính có khả năng biết suy cầu cái vật lí có thể biết, nhưng vật lí không bến bờ, nếu không có chuẩn tắc nhất định, thì suy cầu hết đời cũng không thể hiểu biết, nếu không quán thông được cái lí thì dù hiểu biết muôn vàn, cũng vẫn không thấy được khắp suốt cái biến thái của vạn vật. Và như vậy thì cũng chẳng khác gì một người ngu. Học đến già đời, đến cái tuổi con cái đã trưởng thành cả mà vẫn không biết dứt bỏ cái lối học vô tích sự ấy, thì quả thực là ngu muội. Thế cho nên học vấn cần sự chuẩn tắc. Chuẩn tắc nào? Ấy là chuẩn tắc rất mực cao, rất mực thiện. Chuẩn tắc nào rất mực cao, rất mực thiện? – Đạo của thánh nhân và vương giả. Thánh nhân là người nắm đầy đủ vật lí, vương giả là người nắm đầy đủ pháp độ. Nắm đầy đủ vật lí và pháp độ thì đủ làm tiêu chuẩn cho thiên hạ. Cho nên kẻ học nên lấy thánh và vương làm thầy. Lấy pháp độ của thánh, vương làm phép tắc để suy cầu cái qui-luật-tích-nội-tại của sự vật thì tất phải bắt chước thánh nhân. Theo hướng đó mà đi là kẻ sĩ, bắt chước thánh nhân mà gần được thánh nhân là bậc quân tử, quán thông, thấu triệt cái qui-luật-tích-nội-tại của sự vật, ấy là thánh nhân. Biết trái mà lo làm phải, ấy là biết e dè, tự giới[616]. Mạnh dạn làm điều trái mà át điều phải, ấy gọi là “tặc”, - là đồ phá hoại, biết rõ là trái lắm mà cứ cho là phải, ấy gọi là “thoán đoạt” (cãi bướng, cưỡng đoạt lẽ phải), biết trái mà khéo điểm tô, làm cho trái hoá phải, ấy gọi là xảo trá[617], giỏi biện luận bào chữa cho cho trái hoá phải, phải hoá trái, cho trái phải lẫn lộn, ấy gọi là lắm miệng, lẻo mép. Sách cổ có câu: “Có hai lẽ xét đoán: thiên hạ cho là trái, xét xem có phải không, thiên hạ cho là phải, xét xem có trái không”. Ý nói: xét phải, trái, cần lấy pháp độ của thánh, vương làm chuẩn đích (hợp với pháp độ của thánh, vương là phải, ngược lại với trái). Có bao giờ không lấy pháp độ của thanh, vương làm chuẩn đích trung chính mà phân biệt được trái, phải, đoán định được cong, ngay không? Học vấn mà không phân biệt được trái, phải, đoán định được cong, ngay, biện giải được lẽ trị loạn, sửa sang được đạo làm người, thì dù có tài năng cũng chẳng ích lợi cho ai, không tài năng cũng không thiệt thòi cho ai. (Những kẻ hiếu biện) lập ra những thuyết quái gỡ, ưa dùng những lời kì quặc để làm rối nhau, lấp liếm, phũ[618] mà bẽm, trơ tráo mà không xấu hổ, hành vi không đàng hoàng mà hay khoe khoang, cãi cối mà cầu lợi, không ưa nhúng nhường, không trọng lễ tiết mà thích đè lấn, chèn ép, đó là tính chất của những học thuyết do bọn người không đứng đắn ở đời loạn lập ra. Những học thuyết trong thiên hạ giống loại học thuyết đó nhiều lắm. Sách xưa nói: “Tỉa tót lời văn không chính đính mà cho thế là rành mạch, tinh tế, bàn bạc sự lí không chính đính mà cho thế là hùng biện, người quân tử khinh ghét những người như thế. Nghe rộng nhớ dai, nhưng toàn là những điều không hợp với pháp độ của thánh, vương, người quân tử khinh ghét những người như thế”. Lời ấy chính là nói những học thuyết của bọn người gian tà kể trên. Lập ra có thành cũng vô ích, tìm kiếm có thấy cũng vô bổ, đau đáu lo toan cũng chẳng lợi gì cho cuộc an, nguy, những học thuyết như thế, người quân tử vứt bỏ cho xa, vì chẳng muốn để cái vô ích làm hại cái hữu ích, bắt lòng phải bận bịu, dù là trong chốc lát. Chẳng tiếc cái đã qua, chẳng ngại ngùng cái sắp tới, gác bỏ những cái vô ích, trừ tuyệt lòng nuối tiết, ngại ngùng, chỉ cầu hợp với đạo lí, đúng thời mà hành động, tuỳ cơ mà ứng biến, việc xảy ra biện biệt được ngay thì mối trị loạn, đều nên chăng, sẽ thấy rõ ràng rành mạch.

Giữ kín để được việc, sợ tiết lộ thì hỏng việc[619], các đấng minh quân không như vậy. Tuyên bố ra thì thành công, giấu kín thì hỏng việc, cũng không có chuyện ấy với các vị hôn quân. Ở ngôi nhân chủ mà bưng bít thì những lời gièm pha sẽ ùa tới, những lời thẳng thắn sẽ lảng ra. Kinh Thi có câu:

“Kín mít, tối mù mà bảo sáng,

Con hồ, con li cùng màu xanh”[620]

Ý nói vua hôn ám bưng bít thì tôi gian nịnh, nham hiểm, vua sáng suốt, cởi mở thì sẽ được nghe những lời thẳng ngay, thay vì những lời ton hót, người quân tử sẽ đến với, kẻ tiểu nhân sẽ lánh xa. Kinh Thi còn có câu:

“Sáng láng ở dưới,

Rỡ ràng ở trên”[621]

Ý nói: vua có đức tính tốt thì tôi sẽ cảm hoá.

[562] 治則復經,兩疑則惑。(Goldfish).

[563] 治之 (...),知道 (...) 虛壹而靜。(Goldfish).

[564] Tu dưỡng: trong bản dịch toàn thiên Giải tế này, có những câu không đúng hẳn với lời trích dịch trong chuyết tác Đại Cương Triết Học Trung Quốc. Ở đây, lời đôi khi dài dòng hơn, cốt để soi sáng thêm những câu trích dịch kia đôi khi như quá hàm súc.

[565] Chủ nhà: Chữ Hán là “gia” [家], trỏ quan đại phu.

[566] Muội Hỉ: Sủng phi của vua Kiệt, người nước Hữu Thi.

[567] Tư Quan: Không rõ là ai. Có lẽ là dòng dõi ông Khải (Khải hữu ngũ Quan).

[568] Quan Long Phùng: Tôi hiền của vua Kiệt. Vua Kiệt làm “ao rượu, gò hèm”, cùng ba nghìn người “nốc”, Quan Long Phùng can thẳng, bị vua Kiệt bỏ tù rồi chết.

[569] Đắc Kỉ: Ái phi của vua Trụ. Vua Trụ gánh nước Hữu Tô, vua Hữu Tô gả Đắc Kỉ cho vua Trụ.

[570] Nịnh thần vua Trụ và là tổ tiên của nhà Tần sau này.

[571] Vi Tử Khải: Anh khác phòng của vua Trụ, một người trung trực.

[572] Chín châu: Đất nước nhà Ân gồm chín châu, mỗi châu do một quan “Mục” cai trị. Hai chữ “Chín châu” về sau dùng với nghĩa là “thiên hạ”.

[573] Lịch Sơn: Một quả núi ở đất Nam Sào. Các bản đều viết Đình Sơn (亭山). Vương Niệm Tôn bảo chữ “Đình” (亭) là do chữ 鬲 viết lộn, 鬲 đọc là lịch như 歷山. Lịch Sơn là núi ở đất Lịch Dương.

[574] Xích bái: Theo sách Sử Kí thì vua Vũ nhà Chu chém vua Trụ, treo đầu dưới ngọn cờ “Thái bạch”, - cờ sắc trắng.

[575] Thành Thang: vua dựng nên nhà Thương (sau đổi là nhà Ân).

[576] Nguyên văn: “Phượng hoàng thu thu, Kì dực nhược can, Kì thanh nhược tiêu. Hữu phượng hữu hoàng, Lạc đế chi tâm” (鳳凰秋秋,其翼若干,其聲若簫。有鳳有凰,樂帝之心). (Goldfish).

[577] Đường Ưởng: bầy tôi Tống Khang vương. Sách Lữ Thị Xuân Thu, thiên Dâm Từ nói: Vua Tống hỏi tướng quốc Đường Ưởng: “Quả nhân giết nhiều mà quần thân càng không sợ là tại làm sao?”. Đường Ưởng thưa: “Tại vua giết toàn người bất lương. Giết toàn người bất lương, nên người lương thiện không sợ. Nhà vua muốn quần thần sợ thì không gì bằng chẳng không phân biệt thiện với chẳng thiện, thỉnh thoảng cứ giết bừa!”. Không bao lâu, Tống vương giết Đường Ưởng.

[578] Hề Tề: Con nàng Li Cơ, sủng phi của Tấn Hiếu công.

[579] Đái Tử: tức Đái Bất Thắng nói trong sách Mạnh Tử (Có thuyết bảo Đái Tử là Đái Loan). Không rõ việc Đường Ưởng đuổi Đái Tử.

[580] Thái tử nước Tấn, con vua Tấn Hiến Công, anh ruột Hề Tề. Hiến Công nghe lời gièm pha của sủng phi Li Cơ, giết Thân Sinh, lập con Li Cơ là Hề Tề lên làm thái tử thay Thân Sinh.

[581] Bảo Thúc (Tức Bảo Thúc Nha), Ninh Thích, Thấp Bằng: cả ba đều là hiền thần thờ Tề Hoàn Công cùng Quản Trọng.

[582] Tức Quản Di Ngô,

[583] Mấy chữ “Lữ Vọng vừa nhân vừa trí, lại không bị che lấp, cho nên giúp được Chu Công” là do tôi ghi thêm. Nguyên văn cả câu: “Triệu Công, Lữ Vọng nhân tri thả bất tế, cố năng trì Chu Công nhi danh lợi phúc lộc dữ Chu Công tề” (召公,呂望仁知且不蔽,故能持周公而名利福祿與周公齊). Triệu Công (召公) tức Thiệu Công (邵公). (Goldfish).

[584] Thiệu Công, Lữ Vọng: Tức Thiệu Công Thích và Lữ Thượng, hai hiền thần của nhà Chu.

[585] Tức Mặch Địch, một triết gia đời Xuân Thu (xem chú thích ở thiên trên) – Hàn Phi Tử, thiên Ngoại trừ, không bảo Mặc Tử không cần lễ văn mà chỉ bảo Mặc Tử “chất trước mà văn sau”.

[586] Tống Tử: Tức Tống Kiên. Tống cho rằng người ta vốn muốn ít chứ không muốn nhiều, vậy cứ để mặc cho người ta muốn là tự nhiên nước trị, không cần đạo đức (xem thêm các chú thích ở các thiên trên).

[587] Thân Tử: Tức Thân Bất Hại, tể tướng của Hàn Chiêu hầu. Thân chủ trương dùng “thế”, nghĩa là dựa vào quyền thế, vận dụng hình pháp mà giá ngự thần dân. Hàn Phi Tử bảo: “Thân Bất Hai dùng “thuật”. Thuật là thuật vận dụng quyền thế, hình pháp. Thân Tử có câu: “Thánh quân dùng pháp chứ không dùng trí”.

[588] Huệ Tử: tức Huệ Thi, một danh gia cự phách, đồng thời với Trang Tử (xem thêm chú thích trên).

[589] Trang Tử: tức Trang Chu, một Đạo gia. Trang chủ trương “nhậm tự nhiên”, chủ trương rằng “nhân, nghĩa, lễ, nhạc, hình thưởng đều là những thứ làm hại con tâm, trái với lẽ tự nhiên của thiên đạo”.

[590] Nhà Chu: Một vài nhà chú giải cắt nghĩa chữ “chu” này là “chu kiến” (rộng khắp, trái với “nhất thiên” (lệch lạc, một phía, một chiều)).

[591] Biết đạo: Nguyên văn chữ Hán là “[夫何以知]” (Phù hà dĩ tri – hoặc trí). Các bản cắt nghĩa: “tri” là biết. Diệp Ngọc Lân và Vương Trung Lâm theo Du Việt, cắt nghĩa “ tri” là “trí”, là sáng suốt biết đạo, ứng với câu “Hà hoạn bất trí” ở dưới.

[592] Bình trị vậy: Ý đoạn này nói: không che lấp bởi sở hiếu, sở ố thì sẽ phân biệt chắc chắc được thiện, ác, hiền, bất tiếu, như vậy sẽ gần người hay, xa người dở, người thiện sẽ lại với, người ác sẽ rút lui. Và như thế nước sẽ trị.

[593] Tĩnh: “Hư” là trống rỗng. Tâm “hư” là tâm không vì thành kiến mà nghiêng lệch, chấp trước. “Nhất” là chuyên nhất, tập trung vào một điều. “Tĩnh” là an định, yên lặng, không bị rối loạn.

[594] Chứa đựng: Nguyên văn chữ Hán đoạn này cắt nghĩa rất tối, mỗi nhà chú thích cắt nghĩa một khác. Có nhà chú thích ghi là: “không rõ nghĩa, có lẽ mất chữ”. Chúng tôi lược dịch theo ý của Phương Hiếu Nghĩa.

[595] Không lầm lẫn: Nguyên văn câu này cũng rất khó hiểu, mỗi nhà chấm câu một khác. Chúng tôi theo Diệp Ngọc Lân.

[596] Nguyên văn: “Thái thái quyền nhĩ, Bất doanh khuynh khuông, Ta ngã hoài nhân, Trí bỉ chu hành” (採採卷耳,不盈傾筐,嗟我懷人,寘彼周行). (Kinh Thi, Chu nam, Quyền nhĩ). (Goldfish).

[597] Hai việc được: Nguyên văn chữ Hán là: 類不可两也 (Loại bất khả lưỡng dã). Chữ “loại” trong sách Tuân Tử có nhiều nghĩa (xem: Những chữ đặc biệt trong ngữ vựng Tuân Tử ở đầu phần này). Câu này nghĩa không rõ ràng mà các nhà chú giải đều bỏ qua, không cho biết ý tác giả đích thực muốn nói gì.

[598] Tam quan: trỏ ba vị sư trưởng kể trên, quản trị ba ngành nông, hương và công.

[599] Vi áo khó rõ: Thư, Đại Vũ Mô: “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi” [人心惟危,道心惟微] (thay vì Nhân tâm chi nguy, đạo tâm chi vi [人心之危,道心之微] như ở đây đã dẫn). Chu Hi cắt nghĩa: “Nhân tâm là phần dục, đạo tâm là thiên lí. Nhân tâm do khí huyết tạo thành, đạo tâm do bẩm thụ các đức: nhân, nghĩa, lễ, trí” (Chu Tử Toàn Thư). G.S Thẩm Quỳnh, dịch giả Thư Kinh, cắt nghĩa câu này là: “Lòng người rất thiên về vật dục, rất nguy, lòng mến đạo khó hiểu về nghĩa lí rất nhỏ”. Muốn có nghĩa hơn, tưởng còn có thể dịch như thế này: “Còn tâm phàm tục vốn dễ sa ngã, phải cảnh giới dè chừng, con tâm đạo lí vốn vi diệu, nên chắt chiu gìn giữ”.

[600] Kẻ tóc, chân mày: Nguyên văn là “chẩn mi” (鬒眉). Trong chương XI, hai chữ đó được dịch là: “kẻ tóc, chân tơ”. (Goldfish).

[601] Thương Hiệt: Sử thần của Hoàng Đế. Tương truyền ông là người sáng chế ra chữ Tàu. Thuyết này đã bị nhiều học giả bác.

[602] Hậu Tắc: Thuỷ tổ nhà Chu, tên Khí. Tương truyền ông là “tắc quan” thời vua Nghiêu, dạy dân phép trồng lúa.

[603] Quì: Quan nhạc-chính thời vua Thuấn. Vua Thuấn từng trả lời về việc chọn thêm nhạc quan rằng: “Chế nhạc như ông Quì thì một mình ông Quì đủ rồi” (Nhược Quì giả, nhất chi túc hĩ).

[604] Thuỳ: Quan Cung-công đời vua Thuấn, chưởng quản về công nghệ. Tương truyền cung tên đã có từ trước thời vua Thuấn, hoặc giả Thuỳ là người cải chế tên chăng?

[605] Phù Du: Chưa rõ ai, người thời nào. Sách Thế Bản chép Di Mâu, bầy tôi của Hoàng Đế, chế ra tên. Hoặc giả Phù Du là một tên khác của Di Mâu?

[606] Nghệ: 1- Một xạ quan thời vua Nghiêu. 2. Vua nước Hữu Cùng, đời Hạ, giỏi bắn, cướp ngôi vua Hướng. Sau, bị bầy tôi là Hàn Trạc giết.

[607] Hề Trọng: Quan xa-chính thời Hạ Vũ. Thời Hoàng Đế đã biết dùng xe (cho nên mới có cái tên “Hoàng Đế Hiên Viên” – Hiên viên nghĩa là xe.

[608] Tang Đỗ: Sách Thế Bản chép: “Tướng Thổ dạy phép dùng bốn ngựa kéo xe. “Đỗ” với “Thổ” cùng âm, vì dạy phép dùng bốn ngựa kéo xe (“Thặng mã” [乘馬]) cho nên cũng gọi là “Tướng Đỗ” là “Thặng Đỗ”. Theo Vương Niệm Tôn thì không phải thế: Chính là Tang Đỗ. Tang Đỗ đồng âm với “Tướng Đỗ”, cho nên “tá dụng”, mượn Tướng Đỗ thay cho.

[609] Tạo Phủ: Tay đánh xe nổi tiếng đời xưa.

[610] Cấp, không rõ là ai, người thời nào.

[611] Hữu Tử (有子) tức Hữu Nhược (有若), một môn sinh của Khổng Tử (Theo http://www.eywedu.com/classic/xz022.htm). (Goldfish).

[612] Tự nguy: E dè, tự cảnh giới.

[613] Còn đục: Ví như còn ở trình độ phải tự cường, tự nhẫn, tự nguy.

[614] Sáng ra: Ví với con tâm của bậc chí nhân ở cành giới “tinh nhất”.

[615] Hạ Thuỷ: con sông này nay thuộc tỉnh Hồ Bắc (Theo http://www.eywedu.com/classic/xz022.htm). (Goldfish).

[616] Tự giới: Nguyên văn chữ Hán: 多能非以修蕩是,則謂之知 (Đa năng phi dĩ tu đăng thị, tắc vị chi tri). Phương Hiếu Bác cắt nghĩa “đãng” là tuyên dương, “tri” là chữ 私 (tư) viết lầm.

[617] Xảo trá: Nguyên văn chữ Há là: 故有知非以慮是,則謂之懼 (Cố hữu tri phi dĩ lự thị, tắc vị chi cụ). Theo lời chú giải xưa thì “cụ” là e dè, tự giới. Vương Dẫn Chi cho rằng chữ “cụ” chính là chữ “quặc” [攫] viết lầm. “Quặc” là “quặc thủ”: quắm lấy, trá nguỵ. Và, theo ý họ Vương, Diệp Ngọc Lân cắt nghĩa câu trên là: “Có trí tuệ mà không lo đến chế độ của thánh, vương là “quặc thủ” (trá nguỵ, xảo trá).

[618] Phũ: Nguyên văn chữ Hán: 案強鉗而利口 (Án cưỡng kiềm nhi lợi khẩu). Trái với các nhà chú giải trước cắt nghĩa: “kiềm” là “khoá miệng”, Vương Niệm Tôn bảo: “kiềm” là “ác”, là mắng phũ (Tàn mạ dã).

[619] Hỏng việc: Ám chỉ học phái chủ trương dùng “thuật” để trị dân.

[620] Màu xanh: Dật Thi: Mặc dĩ vi minh, hồ li nhi thương ([墨以爲明,狐狸而蒼]). Sắc loài hồ li (loài chồn) vàng, mà bảo là xanh, khác nào “trỏ hiệu bảo là ngựa”. Ý nói vua thiếu sáng suốt thì tôi dối trá (Hậu Hán Thư, Văn Uyển Truyện, cũng có câu: “Nguyên (huyền) hoàng cải sắc, mã lộc dị hình” ([玄黃改色,馬鹿易形]).

[621] Ở trên: Thi, Đại Nhã, thiên Đại minh. Chính nghĩa là: Vua Văn vương ở dưới sáng suốt, cho nên Thượng Đế ở trên cũng thấy rõ ràng. [Nguyên văn: “Minh minh tại hạ, Hách hách tại thượng” (明明在下,赫赫在上). (Goldfish)].