← Quay lại trang sách

CHÍNH DANH

Trong số các nho gia, người nghiên cứu vấn đề CHÍNH DANH đầy đủ, mạch lạc nhất là Tuân Tử.

Trong thiên này, ông luận thuyết rất có hệ thống việc “vương giả chế danh” và nói lên ý nghĩa hệ trọng của việc chính danh. Chúng ta sẽ thấy ông “lập tam biểu” ra là sao và “phá tam hoặc” như thế nào.

Dương Lạng đời Đường, - người đầu tiên chú thích sách Tuân Tử, nói: “Thời đó (mạt kì Chiến Quốc) bọn Huệ Thi, Công Tôn Long đã làm rối loạn danh, bảo phải là trái, trái là phải, cho nên (Tuân Tử) viết thiên Chính Danh”. Đúng!

Toàn thiên chia làm năm đoạn: Đoạn một bàn riêng về vấn đề chính danh, đoạn hai, ba và bốn nói về phương pháp và tính cách trọng yếu của biện thuyết, đoạn năm bàn về tình và dục, là một kiểu mẫu biện thuyết, cho ta thấy phép biện thuyết nên tiến hành như thế nào.

*

* *

Các Hậu vương đã qui định danh từ: Danh về hình luật thì theo nhà Thương[622], về quan tước thì theo nhà Chu[623], về lễ tiết thì theo kinh Lễ, tên gọi các vật thì theo phương ngôn, tục ngữ của Chư Hạ[624]. Những tiếng lạ của các phương xa không cùng phong tục thì, nhân sẵn có đó, phổ biến đi mà dùng. Những danh áp dụng vào người: Sinh ra vốn thế gọi là tính[625]. Bản năng mà điều hoà, lành mạnh, thì cảm ứng với ngoại giới đúng, chẳng cần học mà biết, chẳng cần dạy mà hay, đó cũng gọi là tính[626]. Tính phát động thành ưa, ghét, mừng, giận, thương, vui, thì gọi là tình. Tình như thế mà tâm lựa chọn nên chăng thì là lự (suy nghĩ, cân nhắc). Tâm suy nghĩ cân nhắc mà bản năng nhờ đó có tác dụng khắc chế thì tác động đó gọi là nguỵ. Tâm suy nghĩ cân nhắc lâu ngày, bản năng khắc chế thành thói quen mà tới được cảnh giới “hoá tính” thì cái công phu tu vi đó cũng gọi là nguỵ. Mưu lợi đúng chính đạo gọi là “sự nghiệp”, hành động đúng chính nghĩa gọi là “chính hạnh”. Cái ở nơi người nhờ đó mà người ta hiểu biết gọi là “tri”, - là bản năng tri giác. Tri tiếp xúc với vật gọi là “trí” (tri thức). Sở năng của “tri”[627] nơi con người gọi là bản năng[628]. Bản năng tác động hợp với điều tâm lựa chọn gọi là tài năng. Tính mà bị thương tổn gọi là bệnh. Ngẫu nhiên gặp phải gọi là vận mệnh. Đó là những danh áp dụng vào người. Đó là những danh đã định mà các Hậu vương dùng.

Bậc vương giả đặt ra “danh”, danh đã định thì “thực” được rõ ràng, cái phép đặt danh thi hành đúng thì sự hiểu biết được suốt khắp (nghĩa là mọi người đều hiểu như nhau) và dân được dẫn dắt nhất trí, theo dùng những danh đã chế. Bẻ quẹo nghĩa[629], tự tiện đặt danh để làm rối loạn những danh chính đáng, khiến cho dân sinh nghi hoặc, khiến cho mọi người sinh nhiều chuyện tranh biện, kiện tụng thì bị gọi là đại gian, tội ngang với tội làm “phù tiết[630] giả”. Cho nên người dân không dám bịa đặt những lời khác thường để làm rối loạn những danh chính đáng. Vì vậy mà dân tín thực, dân tín thực thì dễ khai khiến, dễ sai khiến thì được việc. Dân không dám bịa đặt những lời khác thường để làm rối loạn những danh chính đáng thì cái thành quả việc làm của đứng vương giả được tăng bội. Thành quả tốt đẹp, công huân thành tựu, đó là cái mức cao đẹp nhất của một nền chính trị. Được thế là nhờ khéo gìn giữ cái danh đã ước định quen dùng rồi vậy.

Nay đấng thánh vương đã qua đời, việc gìn giữ chính danh lơ là, những từ ngữ kì dị mọc lên, danh với thực hỗn loạn, trái phải lờ mờ. (Đã đến nước ấy) thì dù có những chức viên biết giữ phép, những nho giả “tụng số”[631] cũng đều bấn rối. Nếu có đấng vương giả dấy lên thì tất là ngài, một mặt, sẽ theo những danh nào đã dùng và, mặt khác, sẽ chế những danh mới thay thế những danh không phù hợp với thực. Vậy thì phải xét lại tại sao mà cần có danh, duyên do đâu mà phân biệt được giống với khác (để mà chế ra những cái danh giống nhau, khác nhau) và những nguyên tắc cốt yếu chế danh là như thế nào.

Muôn vật hình đều khác nhau, thấy khác hình thì lòng người biết rằng không phải cùng vật, nếu không lập định cái danh để phân biệt vật này với vật khác thì danh và thực trở nên tối tăm và rối ren, gỡ không ra mối, sang hèn không rõ, giống khác không phân. Như vậy, có cái mối lo là sự hiểu biết của ta sẽ không được rõ ràng và công việc sẽ gặp cái vạ bê trễ. Cho nên người trí giả muốn phân biệt vật, mới chế danh để trỏ vật, trước là để rõ sang với hèn, sau là để phân biệt giống với khác. Một khi sang hèn đã rõ, giống khác đã phân, thì không có cái lo sự hiểu biết của ta không rõ ràng, không có cái vạ công việc bê trễ. Đó là cái lí do tại sao phải chế danh.

Thế thì duyên do vì đâu mà phân biệt được giống với khác? Thưa rằng: duyên do là nhờ “thiên quan” (tức các giác quan)[632]. Con người ta vốn đồng loại đồng tình, bởi thế thiên quan của mọi người, đối với mọi vật, cảm giác có giống nhau. Cho nên có thể suy cái cảm giác của chính mình mà phỏng đoán được rằng cái cảm giác của người khác tương tự. Thế rồi căn cứ vào đó mà chế danh là một thứ ước lệ để hiểu nhau khi nói về vật. Hình thể màu sắc, đường nét thì lấy mắt mà phân biệt, thanh âm trong đục, to nhỏ, mỗi vật mỗi khác, thì lấy tai mà phân biệt, ngọt, đắng, mặn, nhạt, chua, cay, vị mỗi vật một khác thì lấy miệng mà phân biệt, thơm, thối, tanh tưởi, nồng nặc[633], mùi mỗi vật một khác thì lấy mũi mà phân biệt, đau, ngứa, lạnh, nóng, trơn tru, sần sùi, nặng nhẹ, cảm giác khác nhau thì lấy hình thể mà phân biệt, những ý tình vừa lòng, nhàm chán, mừng giận, thương vui, yêu ghét thì lấy tâm mà phân biệt. Ngoài ra, tâm lại có cái tác dụng “trưng tri” (do kinh nghiệm tích luỹ mà phản tỉnh, phân biệt được). Có tác dụng “trưng tri” thì do tai mà biết được tiếng, do mắt mà biết được hình. Tuy nhiên, cái tác dụng trưng tri tất phải nhờ ngũ quan tiếp xúc với vật và ghi nhận cảm giác mà sau mới biết. Ngũ quan tiếp xúc cảm giác mà không biết, tâm có tác dụng trưng tri, nhưng nếu không sẵn kinh nghiệm về vật mà ngũ quan đã cảm giác thì cũng không biết vật đó thuộc loại nào, là vật gì[634]. Ấy nhờ thế mà phân biệt được giống với khác để mà chế ra những cái danh giống nhau, khác nhau.

Rồi sau theo mà chế danh: cùng loài thì cùng tên, khác loài thì khác tên. Đơn danh đủ hiểu thì dùng đơn danh, đơn danh không đủ hiểu thì dùng kiêm danh. Nếu đơn và kiêm không có gì trái với nhau (nghĩa là có chỗ giống) thì đặt cho chung một cộng danh[635]. Biết rằng khác thực thì khác danh, cho nên phải chế danh làm sao cho hễ thực mà khác thì danh cũng phải khác, để không thể lẫn lộn được, làm sao không có vật nào cái thực cùng mà cái danh lại không cùng. Cho nên muôn vật dù nhiều, vẫn có lúc muốn gọi gộp tất cả, như vậy mới gọi gộp là “vật”: cái danh “vật” là một “đại cộng danh”. Suy ngược trở lên mà gọi gộp thì (nhiều) cộng danh lại có chung một cộng danh, cho tới khi không gọi gộp được nữa mới thôi. Có lúc muốn gọi tách ra, cho nên (không gọi là vật) mà gọi tách ra là chim, muông. Cái danh “chim”, “muông” là những “đại biệt danh” (cũng là tiểu cộng danh). Suy xuôi trở xuống mà gọi tách ra thì một biệt danh gồm nhiều biệt danh, cho tới khi không thể gọi tách được nữa mới thôi (lúc đó là đơn danh).

Không có cái danh nào vốn đúng, chỉ là theo ước lệ mà gọi, ước lệ theo quen rồi thì là đúng, trái với ước lệ thì là không đúng. Không có cái danh nào vốn có cái thực cả[636], chỉ là theo ước lệ mà gọi, ước lệ theo quen rồi thì danh thành “thực danh” (tên riêng của cái thực). Có cái danh vốn hay: thẳng, gọn, dễ dàng mà không ngang nghĩa, thì là hay, là tốt. Vật có khi bề ngoài giống nhau mà thực lại khác, có khi bề ngoài khác nhau mà thực lại giống. Điều đó cần phân biệt. Hễ bề ngoài giống mà thực khác thì, tuy hợp được, vẫn gọi là hai thực (hai vật). Bề ngoài biến, thực (thể) vẫn là một, tuy có khác, thì gọi là “hoá”[637]. “Hoá” mà thực thể vẫn thế thì vẫn gọi là một thực. Điều đó phải xem xét, căn cứ vào thực mà định là một hay hai (định mối tương quan giữa số danh và số thực). Đó là những nguyên tắc cốt yếu của việc chế danh. Nhưng danh đã định mà các Hậu vương dùng thì ta không thể không xem xét cho kĩ được.

“Bị khinh nhờn chẳng nhục”, “đấng thánh nhân chẳng tự yêu mình”, “giết trộm chẳng phải là giết người”: đó là lầm ở chỗ dùng danh mà làm loạn danh. Gẫm cái duyên do tại sao chế ra danh mà xét kĩ xem thế nào là xuôi, thì có thể cấm được cái tệ hại dùng lầm danh mà thành ra làm loạn danh.

“Núi vực bằng nhau”, “người ta vốn muốn ít” (chẳng hạn: “đủ ba chén cơn, ba manh áo thì thôi, chứ không cần nhiều”), “thịt loài vật (ăn cỏ và ăn thóc) chẳng làm cho thêm ngon miệng”, “chuông lớn chẳng làm cho thêm vui tai”: đó là lầm ở chỗ dùng thực mà loạn danh. Gẫm cái duyên do tại sao có sự đồng dị giữa những cái thực mà xét kĩ xem thế nào là đúng, thì có thể cấm được cái tệ hại dùng lầm thực mà thành ra loạn danh.

“Phi nhi yết doanh”[638] và “Bò, ngựa chẳng phải là ngựa”: Đó là lầm ở chỗ dùng danh mà làm loạn thực. Gẫm cái ước lệ, những nguyên tắc cốt yếu của việc chế danh, dùng điều cho là phải, bỏ điều cho là trái thì có thể cấm được cái tệ hại dùng lầm danh mà thành ra loạn thực.

Phàm những thuyết tà, lời lạ, xa rời đại đạo, tự tiện đặt, chẳng thuyết nào, lời nào là chẳng do những lầm lẫn thuộc ba loại lầm lẫn này. Đứng minh quân phân biệt mà biết lầm lẫn thuộc loại nào, suy gẫm chứ bất tất phải tranh biện[639].

Dân dễ trị bằng đạo mà không nên nói với họ những lí do, nguyên tắc cho nên đứng minh quân chế ngự họ bằng uy thế, dẫn dắt họ bằng mệnh lệnh, soi sáng họ bằng lời người xưa, cấm đoán họ bằng hình phạt mà họ cảm hoá theo đạo như có ma lực, có cần gì phải biện thuyết. Nay thánh vương qua đời, thiên hạ rối loạn, những lời xằng bậy dấy lên, người quân tử không có uy thế để chế ngự, không có hình phạt để cấm đoán, cho nên mới biện thuyết.

Không dùng cái thực mà hiểu dụ được mới đặt ra cái danh mà gọi[640], đặt danh gọi mà vẫn không hiểu rõ mới đem hình trạng ra tả, đem hình trạng ra tả mà vẫn không biết rõ, mới dùng lời thuyết minh, dùng lời thuyết minh mà vẫn không hiểu rõ, mới đem mọi lẽ ra biện bạch. Cho nên đặt danh, tả hình trạng, thuyết minh, biện bạch là những công việc có tác dụng “văn hoá” lớn lao và là khởi điểm của vương nghiệp vậy. Khiến cho người ta nghe cái danh mà hiểu rõ cái thực, đó là công dụng của danh. Thấu được danh cả về hai phương diện công dụng lẫn phối hợp, thì gọi là biết danh. “Từ (lời) là gồm tóm cái danh của những cái thực khác nhau để biểu diễn một ý. Biện thuyết là đừng làm sai lạc (nghĩa là phải giữ cho tiền hậu nhất trí đối tượng của các cuộc thảo luận và giữ cho tiền hậu nhất trí với thuyết của) những danh từ trong các cuộc thảo luận đó, để cho danh và thực không loạn, hầu làm cho rõ mọi lẽ (mọi quan hệ và mọi tình huống vận động tiến hoá giữ các sự vật). Phương cách biện thuyết sử dụng vẫn bất ngoại dùng danh mà gọi và đem hình trạng mà tả. Biện thuyết là nói ra cái đạo mà tâm thấy rõ. Tâm là chủ tể của đạo và làm cho đạo viên thành. Đạo là phép tắc chính, bất biến, để theo mà trị nước. Tâm phải hợp với đạo, biện thuyết phải hợp với tâm, từ phải hợp với biện thuyết. Chính lại cái danh mà biểu tả cái thực, nếu hình chất cái thực tự nói lên được cái danh của nó thì nhân đó sự hiểu biết thêm dễ dàng, biện bạch vừa đủ để phân biệt cái chỗ khác nhau giữa các vật thì thôi, chứ đừng đi quá (rườm lời), suy vật này ra vật kia để tìm được cái lí mà không trái lẽ, nghe người biện thuyết, chỗ nào hợp văn lí thì chấp nạp, chính mình biện thuyết thì phải làm cho rõ hết lí do, dãi bày cho hết sự thực. Lấy chính đạo mà biện biệt những thuyết xằng bậy, thực như nẩy dây mực để xác định cong ngay. Vì thế mà các tà thuyết không thể làm rối loạn, trăm nhà (lập ngôn) không thể lấp liếm. Có đủ sáng suốt để lắng nghe tất cả mà không tỏ vẻ khoe mình, có đủ cẩn trọng xét lại tất cả mà không hợm đức. Thuyết thi hành được thì làm cho thiên hạ bình chính, thuyết không thi hành được thì đạo được sáng tỏ mà mình lui về ở ẩn. Đó là sự biện thuyết của bực thánh nhân. Kinh Thi có câu:

Dung mạo kính cẩn hoà thuận,

Ý khí sáng ngời cao vót,

Như ngọc khuê, như ngọc chương,

Có tiếng đồn lành và danh vọng tốt,

Bậc quân tử là người

Làm kỉ cương

Cho bốn phương[641]

là nghĩa như vậy.

Giữ được nết từ nhượng, thuận được cái lí có già, có trẻ, không phạm điều kị huý, không nói lời quái gở, lấy lòng nhân mà biện thuyết, lấy lòng kính sợ mà lắng nghe, lấy lòng công bằng mà phân biệt phải trái, chẳng vì chúng nhân khen chê mà nao núng, chẳng cốt làm choáng loà tai mắt người nghe, chẳng mua chuộc kẻ quyền cao, thế mạnh, chẳng ưa phao truyền những lời thiên lệch dị kì, cho nên có thể một lòng theo sát đạo, cất tiếng mà không bắt bẻ được, hoà nhã mà không quá lời, trọng lẽ công chính mà xem khinh lời tranh thắng. Đó là sự biện thuyết của bậc quân tử. Kinh Thi có câu:

Dằng dặc chừ đêm dài,

Tự xét lại mình hoài,

Lễ nghĩa cũng không trái,

Miệng đời cam chi ngại![642]

là nghĩa như vậy.

Lời người quân tử không vụ thâm thuý[643] mà tinh tế, thiển cận mà ra manh mối, đề cập nhiều chuyện, tưởng như xô bồ mà vẫn qui hướng về một điểm, người quân tử dùng danh chính xác, dùng lời thích đáng là để diễn tả ý nghĩa cho rõ ràng: danh từ là cái dùng để chuyển đạt ý nghĩa, hễ truyền đạt đúng ý nghĩa rồi thì thôi, còn tỉa tót, lắt léo một cách tạm bợ là gian tà[644]. Danh đủ để chỉ đúng thực, lời để diễn đúng ý là được rồi, ngoài ra chỉ làm tối, gây khó, điều đó, người quân tử ruồng bỏ mà kẻ ngu lại vớ lấy, coi là quí báu. Cho nên lời kẻ ngu mập mờ mà thô lậu, phiền toái mà không ra manh mối, rườm rà mà huyên thiên, kẻ ngu dùng danh để dụ hoặc người, dùng lời để huyễn dụ người mà ý nghĩa nội dung thì thật là nông cạn, họ nói loanh quanh, họ nói lung tung[645] mà không truyền đạt được ý tưởng, rất là nhọc nhằn mà không thu được công, tham cầu danh mà không được danh. Bởi vậy lời nói của bậc trí giả, nghĩ qua là hiểu, thực hành dễ dàng, lí luận dễ dàng, thuyết thành thì tất được cái mình ưa mà không gặp cái mình ghét. Kẻ ngu thì trái lại. Kinh Thi có câu:

Mi là con quỉ?

Mi là con “vực”?[646]

Mi không có mặt,

Đành không thấy mặt!

Mà mi là người,

Có mặt hẳn hoi,

Để ta mong hoài,

(Làm sao không bực?)

Chuốt lời thơ này,

Trách mi phản phúc[647]

là nghĩa như vậy.

Nói chuyện bình trị mà lại hòng ai nấy bỏ lòng dục và không nghĩ đến việc hướng dẫn lòng dục thì sẽ bị khốn, vì đã là người, ai mà chẳng có lòng dục. Nói chuyện bình trị mà lại hòng ai nấy ít lòng dục[648] và không nghĩ đến việc tiết chế lòng dục thì sẽ bị khốn, vì lẽ: đã là người, ai mà chẳng nhiều lòng dục. Sự “hữu dục” với “vô dục” là hai thứ khác nhau, như cái sống và cái chết[649], hữu dục và vô dục không hề gì đối với việc trị hay loạn. Dục nhiều hay ít cũng là hai thứ khác nhau, do cái tình nhiều hay ít, đa dục hay quả dục không hề gì đối với với việc trị hay loạn. Muốn thì chẳng đợi chắc được mới muốn, đó là do tính tự nhiên, cầu thì nên cầu mới cầu, đó là do lòng con người đã lựa chọn suy tính. Cái dục do tính tự nhiên là cái dục thuần nhất. Cái thiên-tính-dục ấy khác với cái lí-tính-dục là cái dục đã bị lòng người biết suy nghĩ cân nhắc mà hạn chế lại. Cái mà người từ bỏ sự sống, chấp nhận sự chết, không phải là họ không muốn sống mà muốn chết, nhưng tại họ không cho cái sống là phải mà cho cái chết là phải. Cho nên khi cái dục thái quá mà hành động bất cập, là vì cái tâm ngăn lại, con tâm cho là phải mà phán đoán của con tâm đúng lí, thì cái dục tuy nhiều cũng không hại gì cho việc trị. Cái dục bất cập mà hành động thái quá, là bởi con tâm sai khiến. Con tâm cho là phải mà phán đoán của con tâm không đúng lí thì cái dục tuy ít cũng không ngăn được mối loạn. Cho nên trị hay loạn là do phán đoán của con tâm đúng lí hay không đúng lí, chứ không phải do cái muốn của tình nhiều hay ít. Không tìm ở chỗ đúng lí của tâm mà lại tìm ở chỗ muốn ít của dục thì dù được đấy cũng vẫn là mất.

Tính là cái tự nhiên trời sinh ra, tình là cái thể chất của tính, dục là cái thoả mãn nó ứng dụng của tình. Cho cái sở dục là cái khả đắc thì cầu, thoả mãn nó là sự tất nhiên của tính người, cho dục là phải mà dẫn dắt nó thì tri lự tất ở đó là ra. Cho nên dù là người coi cổng thành (địa vị kém nhất) cũng không thể bỏ được lòng dục (lòng muốn), bởi dục là cái biểu hiện cụ thể của tính. Dù là thiên tử (địa vị cao sang nhất) cũng không thể thoả mãn hết được lòng dục. Lòng dục tuy không thể thoả mãn hết được, nhưng nếu dẫn dắt nó thì có thể thoả mãn gần hết được, lòng dục tuy không thể bỏ, nhưng vẫn có thể tiết chế nó mà cầu thoả mãn, lòng dục tuy không thể thoả mãn hết, nhưng vẫn có thể thoả mãn gần hết, lòng dục tuy không thể bỏ, nhưng nếu cầu thoả mãn không được thì người ta biết suy nghĩ lựa chọn, vẫn có thể tự nguyện tiết chế nó. Người có đạo thì, tiến, có thể thoả mãn gần hết lòng dục, thoái, có thể tiết chế sự mưu cầu, thiên hạ không còn gì bằng thế. Là người, chẳng ai là chẳng theo điều mình cho là phải, bỏ điều mình cho là trái. Biết rằng đạo là cái phải nhất rồi mà lại không theo đạo, chuyện đó chưa từng có bao giờ. Giả sử có người có điều sở dục ở phương Nam, bất kể điều sở dục ấy, nhiều (không thể thoả mãn hết), ít (có thể chịu đựng được), có điều sở ố ở phương Bắc, bất kể điều sở ố ấy, nhiều (không thể chịu đựng được), ít (không sao kham nổi), người đó há vì điều sở dục ở phương Nam (nhiều), không thể thoả mãn hết mà bỏ đường về Nam, theo đường lên Bắc không? Nay, người ta có điều sở dục, bất kể nó nhiều (không thể thoả mãn được) và có điều sở ố, bất kể nó ít (có thể chịu đựng được), người ta há có vì điều sở dục không thể thoả mãn hết được mà bỏ điều sở dục, đi theo điều sở ố không? Cho nên nếu như tâm biết là hợp đạo mà theo thì còn gì làm tổn giảm sự loạn cho bằng, nếu như tâm biết là không hợp đạo mà bỏ thì còn gì ích lợi cho sự trị cho bằng?[650] Cho nên bậc trí giả biết lẽ trị loạn thì chỉ bàn về đạo mà thôi. Biết vậy rồi, thì những thuyết được mấy “tiểu gia”[651] kia quí hoá, sẽ sụp đổ. Đại phàm khi người ta lấy, thì chưa từng bao giờ cái lấy hoàn toàn là cái người ta muốn, tức cái hay, khi người ta bỏ, thì chưa từng bao giờ, cái bỏ hoàn toàn là cái người ta ghét, tức cái dở[652]. Cho nên người ta không bao giờ hành động mà không lấy đạo làm bàn cân cân nhắc. Bàn cân không bình chính, bên đòn dài, bên đòn ngắn – thì vật nặng treo ở đầu ngẩng lên bị coi là nhẹ, vật nhẹ treo ở đầu trút xuống sẽ coi là nặng, và do đó người ta lầm lẫn trong việc xét đoán nặng nhẹ, bàn cân không bình chính – tiêu chuẩn xét đoán không phải là đạo – thì hoạ nằm trong điều sở dục mà cho là phúc. Đạo, xưa nay, là cái cân bình chính. Rời đạo mà tự ý lựa chọn, thì không biết phúc hoạ nằm ở đâu. Đổi một lấy một, người ta bảo là không lời, không thiệt, đổi một lấy hai, người ta bảo không thiệt mà lời, đổi hai lấy một, người ta bảo rằng không lời mà thiệt. So đo thì lấy phần nhiều, mưu cầu thì theo cái phải. Đổi hai lấy một, chẳng ai làm như vậy, bởi lẽ thấy nhiều ít. Theo đạo mà lựa chọn thì cũng như đổi một lấy hai, thiệt gì? Lìa đạo mà tự ý lựa chọn, thì cũng như đổi hai lấy một, lời đâu? Chất cái sở dục trăm năm, đổi lấy cái sở hiềm một thời mà người ta vẫn làm, là vì không thấy rõ nhiều ít.

Lại thử xem cho kĩ mấy việc sâu kín và khó xét dưới đây thì rõ. Bên trong coi khinh lí, mà bên ngoài không trọng vật, đó là điều không có bao giờ, bên ngoài trọng vật mà bên trong không lo, đó là điều không có bao giờ, hành động không theo lí mà ngoài cũng không gặp nguy, đó là điều không có bao giờ. Lòng lo sợ thì miệng ăn thịt mà chẳng biết vị ngon, tai nghe chuông trống mà chẳng biết tiếng vui, mắt nhìn đồ phủ phất[653] mà chẳng thấy vẻ đẹp, mình nằm chiếu nệm mà chẳng thấy êm ấm. Hưởng muôn vàn vật tốt đẹp mà chẳng khoái lạc, dù có khoái lạc tạm thời, thì vẫn không sao dứt được nỗi bất khoái ý vì lo lắng. Cho nên hưởng vật tốt đẹp mà vẫn lo nhiều, gồm muôn vàn mối lợi mà vẫn hại lắm. Như thế mà cầu vật ư? Mà dưỡng sinh ư? Mà mong thọ ư? Muốn nuôi cái dục mà buông thả mình, muốn nuôi cái tính mà làm nguy hại hình hài, muốn nuôi cái vui mà vùi dập con tâm, muốn nuôi cái danh mà làm loạn cái hạnh, (hành động bậy) như thế thì dù có được phong hầu, làm vua cũng chẳng khác gì quân đạo tặc, dù có đi xe “hiên”[654] đội mũ miện cũng chẳng khác gì kẻ nghèo khổ, túng thiếu. Như thế gọi là đem thân tâm làm mọi cho ngoại vật. Con tâm yên vui thì những màu sắc rất tầm thường vẫn có thể di dưỡng mắt; âm thanh tầm thường vẫn có thể di dưỡng tai; cơm hẩm canh rau vẫn có thể di dưỡng miệng; áo vải thưa, giầy cỏ bện vẫn có thể di dưỡng thân thể; lều tranh, nệm cói, bàn mọt, chiếu nát vẫn có thể di dưỡng hình hài. Cho nên không có muôn vật tốt đẹp mà vẫn nuôi được niềm vui, không có ngôi cao, thế mạnh mà vẫn nuôi được danh thơm. Đem con tâm yên vui, không màng danh lợi ấy ra mà trị thiên hạ thì tất vì cái chung của thiên hạ nhiều mà vì cái riêng của mình ít. Như thế gọi là trọng thân tâm mà sai khiến ngoại vật.

Những lời nói không khảo nghiệm, những hành vi không thường thấy, những mưu tính không thường nghe, người quân tử rất thận trọng coi chừng những cái ấy[655].

[622] Thương: Vì hình pháp của nhà Thương nhiều. Lữ Thị Xuân Thu, Thương thư nói: “Hình phạt ba năm, tội bất hiếu nặng nhất”.

[623] Chu: Theo sách Chu Quan, nhà Chu có năm hạng chư hầu và 360 quan tước, chế độ thật đầy đủ.

[624] Chư Hạ: đây trỏ các chư hầu của Trung Quốc có nền văn hóa cao.

[625] Gọi là tính: Chữ “Tính” này có nghĩa là “bản chất sinh lí”. Mạnh Tử gọi là “thực sắc chi tính”, ta thường quen gọi là bản năng.

[626] Cũng gọi là tính: Chữ “tính” này có nghĩa là “bản năng”, khả năng tự nhiên.

[627] Tri: Nguyên văn chữ Hán là: trí. Phương Hiếu Bác đính chính là tri.

[628] Năng: Chữ “năng” này trỏ cái thể của bản năng.

[629] Bẻ queo: Chữ Hán: “Cố tích từ thiện tác danh… sử dân nghi hoặc”. Nhiều nhà chú giải cắt nghĩa “tích” là Đặng Tích – người đã bị Tử Sản giết vì tội loạn danh. Nếu vậy chữ “từ” thành vô nghĩa. Phương Hiếu Bác giải thích: “Tích ngôn, phá luật loạn danh cải tác, chấp tà đạo dĩ loạn chính, sát” và nghĩa là “chơi chữ, bẻ queo”

[630] Phù tiết: con dấu có hai phần ghép lại để mỗi bên cầm một phần làm tin.

[631] Tụng số: Tạ Dung đời Thanh cắt nghĩa là: thiên nho, chuyên trị về một vấn đề.

[632] Giác quan: Đây trỏ chung ngũ quan và tâm.

[633] Nồng nặc: Nguyên văn chữ Hán: “Hương, xú, phân, uất, tanh, táo, sái, toan” ([香,臭,芬,郁,腥,臊,洒,酸]). “Tanh” là mùi lợn hôi, “tao” là mùi chó hôi v.v…, chúng tôi dịch thoát cho gọn.

[634] Vật gì: Chúng tôi dịch dài hơn nguyên văn cho dễ hiểu.

[635] Cộng danh: Thí dụ: Ngựa là đơn danh, ngựa trắng là kiêm danh (kiêm là thêm một tính cách nữa). Ngựa, bò, trâu đều thuộc loài thú (ở điểm chung đều có bốn chân, vậy là không khác nhau), thú là cộng danh.

[636] Thực cả: Một loài vật chạy nhanh, ta nuôi để cưỡi mà đi xa (con ngựa) là cái thực và tiếng ngựa, mã, cheval… là cái danh để trỏ nó. Phải có thực rồi mới đặt danh.

[637] “Hoá”: Như con tầm biến thành con bướm vẫn là một con vật, một thực thể nhưng đã biến đổi hình dạng.

[638] Yết doanh: Tất cả các học giả đều không hiểu nghĩa đích thực mấy chữ này. Riêng Phương Hiếu Bác bảo: “Yết” là do chữ “vi” (bảo) viết lầm, “doanh” cùng nghĩa với chữ “doanh” là “đầy”, “phi” là “bài xích”, chống nhau. Đây là nói về thuyết “Kiên bạch” của Công Tôn Long: chắc rắb và trắng (hai thuộc tính của đá) chứa nhau (doanh) mà lại bảo “chống” nhau, (lìa nhau).

[639] Tranh biện: Tuân Tử đứng về phương diện đạo đức và chính trị nên xét các Danh gia có phần nghiêm khắc. Những “nguỵ biện” của Công Tôn Long chẳng hạn, không phải luôn luôn vô lí. Như đứng về phương diện tương đối thì trong vũ trụ vô biên, núi và vực đều là nhỏ, thấp như nhau cả, có thể bảo là “bằng” nhau được.

[640] Mà gọi: Ví dụ có một con vật lạ chưa ai biết (dĩ nhiên là chưa có tên) thì làm sao gọi được, làm sao cho người khác hiểu được, không lẽ mỗi lần lại đem con vật ấy ra chỉ cho, cho nên phải đặt cho nó một cái tên để mọi người biết mình nói gì đã.

[641] Bốn phương: Thi, Đại Nhã, thiên Quyền a. [Nguyên văn: “Ngung ngung ngang ngang, Như khuê như chương, Lệnh văn lệnh vọng, Khởi đệ quân tử, Tứ phương vi cương” (顒顒卬卬,如圭如璋,令聞令望,豈弟君子,四方爲綱). (Goldfish)].

[642] Chi ngai: Dật Thi. [Nguyên văn: “Trường dạ man hề, Vĩnh tư khiên hề, Thái cổ chi bất mạn hề, Lễ nghĩa chi bất khiên hề, Hà tuất nhân chi ngôn hề!” (長夜漫兮,永思騫兮,大古之不慢兮,禮義之不愆兮,何恤人之言兮!). (Goldfish)].

[643] Thâm thuý: Chữ Hán là [涉然] Thiệp nhiên. Tạ Dung và Lưu Văn Siêu cắt nghĩa là “vẻ vào sâu” (Thâm nhập chi mạo). Phương Hiếu Bác cắt nghĩa là “nông rõ” (Thi thiển hiển).

[644] Gian tà: Nguyên văn chữ Hán là [苟之姦也] (cẩu chi gian dã). Nghĩa là: Đó là sự gian của nết cẩu thả. Trong thiên Bất Cẩu (Chẳng Cẩu Thả), sách Tuân Tử nói: “Ngôn bất quí cẩu, sát”: Nói chẳng chuộng những lời lí luận tinh vi lắt léo. Chúng tôi dựa vào chữ “cẩu sát” này mà dịch bốn chữ “cẩu chi gian dã”.

[645] Lung tung: Nguyên văn chữ Hán: “cố cùng tạ nhi vô cực”! Câu này, mỗi học giả chú thích mỗi khác, chúng tôi theo Phương Hiếu Bác. [Cố cùng (chữ “cùng” sách in là “dung”) nhi vô cực: 故窮藉而無極. (Goldfish).

[646] Vực: Một loài chồn nhỏ, không ai được thấy rõ mặt. Tương truyền ở vùng Trường Giang, Hoài Thuỷ, hễ thấy loài vực phun hoặc hoặc cắn vào bóng ai là người ấy ngã bệnh.

[647] Phản phúc: Thi, Tiểu Nhã, thiên Hạ Nhân Tư. Chúng tôi dịch thoát lấy ý. [Nguyên văn: “Vi quỷ vi vực, Tắc bất khả đắc. Hữu điến diện mục, Thị nhân võng cực. Tác thử hiếu ca, Dĩ cực phản trắc” (爲鬼爲蜮,則不可得。有靦面目,視人罔極。作此好歌,以極反側). (Goldfish)].

[648] Lòng dục: Đạo gia nói vô dục, Mạnh Tử và Tống Tử chủ trương quả dục. Tuân Tử phản đối cả hai.

[649] Cái chết: Phương Hiếu Bác cắt nghĩa câu này: “Sự hữu dục và sự vô dục khác loại”.

[650] Cho bằng: Nguyên văn chữ Hán: “Cố khả đạo nhi tòng chi, hề dĩ tổn chi nhi loạn, bất khả đạo nhi li chi, hề dĩ ích chi nhi trị” [故可道而從之,奚以損之而亂,不可道而離之,奚以益之而治]. Nghĩa rất tối, mỗi nhà chú giải giải thích một khác, chúng tôi theo Tạ Dung và Lưu Văn Siêu.

[651] Tiểu gia: Trỏ học thuyết của Mặc Địch và Tống Kiên chủ trương nên khử dục, quả dục. Tuân Tử cho “tiết dục” mới quan hệ đến đạo trị, loạn, chứ không cần “khử dục”… hữu dục là của người sống, vô dục là của người chết (người sống thì có lòng dục, người chết mới không có lòng dục).

[652] Cái dở: Ý nói trong cái mình (chủ quan) cho là hay vẫn tự nó có khía cạnh dở, cái mình cho là lợi, tự nó vẫn có khía cạnh hại.

[653] Phủ phất: Những lễ phục có thêu nhiều màu.

[654] Hiên miện: Đại khái xe, mũ của các vương hầu.

[655] Cái ấy: Câu này ám chỉ các học thuyết và hành vi của bọn Điền Biền, Tống Kiên, Mặc Địch.