TÍNH ÁC
Tuân Tử bảo tính người là ác, ngược lại với Mạnh Tử bảo tính người là thiện.
Thiên này cho thấy:
- Thế nào là tính, theo như Tuân Tử hiểu.
- Những luận cứ chứng minh rằng tính người là ác, rằng nhận định tính thiện của Mạnh Tử là sai.
- Tại sao, mặc dầu tính vốn ác, người ta lại có thể trở thành thiện
*
* *
Tính của người ta vốn ác, nó mà hoá thiện được là do công của người ta. Tính con người sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có, sinh ra là đố kị, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc mà lòng trung tín không có, sinh ra là có lòng muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lí không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận theo cái tình của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức quyền lợi của nhau), làm loạn cái lí mà mắc cái lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để cải hoá (cái tính) đi, có lễ nghĩa để dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lí mà thành ra trị. Xét vậy, thì cái tính của người ta vốn ác là rõ lắm, nó mà hoá thiện được là do công của người ta vậy. Cho nên gỗ cong thì phải luộc rồi uốn nắn mới ngay, sắt nhụt thì phải giũa mài rồi mới sắc. Nay tính người ta ác thì phải có thầy, có phép, rồi mới thành thẳng ngay, phải nhờ lễ nghĩa rồi mới thành ra trị. Người mà không có thầy, có phép thì thiên lệch, hiểm ác mà không thẳng ngay, không có lễ nghĩa thì bội loạn mà không trị. Xưa, các đấng thánh vương vì thấy tính người ta ác, thiên hiểm mà không thẳng ngay, bội loạn không trị, nên mới đặt ra lễ nghĩa, chế ra phép tắc để uốn nắn tính tình người, làm cho nó thành thẳng ngay, để nhiễu hoá tính tình người mà dẫn dắt nó cho đều thành ra trị, hơp với đạo. Nay, người ta được thầy, được phép cải hoá, được có văn học[656] nhiều, được lễ nghĩa dẫn dắt thì thành người quân tử, buông thả tính tình, huênh hoang, càn rỡ mà trái với lễ nghĩa thì thành kẻ tiểu nhân. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm mà cái thiện của tính người là do công của người ta vậy.
Mạnh Tử bảo: người ta học là để thành tựu cái tính vốn thiện (chứ không phải uốn nắn lại cái tính). Tôi bảo: không phải! Nói vậy không hiểu tính con người, không phân biệt TÍNH và NGUỴ. Tính là cái trời sinh ra đã vốn thế, không thể học, cũng không thể làm ra được, lễ nghĩa là cái thánh nhân đặt ra, người ta học rồi mới biết, làm rồi mới thành. Cái gì không học, không làm mà đã có ở lòng người rồi, cái đó mới là tính, cái gì ở người, học rồi mới biết, làm rồi mới thành, thì gọi là nguỵ. Đó, tính và nguỵ khác nhau như vậy. Tính người ta là mắt nhìn được, tai nghe được. Cái sáng cho mắt thấy, không thể lìa mắt, cái thính cho tai nghe không thể lìa tai. Mắt sáng, tai thính, không phải do học mà sáng, mà thính, điều đó rõ ràng. Mạnh Tử bảo: Người ta tính vốn thiện, đánh mất bản tính mới thành ra ác. Tôi bảo: Nếu thế thì sai! Tính người ta sinh ra lìa cái tài chất phát, nguyên sơ thì tất mất nó rồi. Xét vậy thì cái tính của người ta ác rõ lắm. Nói tính người ta thiện là nói cái tính đó không lìa tài chất nguyên sơ thuần phác, mà vẫn tốt đẹp, không lìa cái tài chất thuần phác nguyên sơ mà vẫn sắc, có như thế thì mới nói được tính người ta vốn thiện. Cái tài chất thuần phác nguyên sơ kia phải cũng như cái sáng cho mắt thấy không lìa mắt, cái thính cho tai nghe không lìa tai, thì mới gọi là tính được. Cho nên (cái sáng không lìa mắt, cái thính không lìa tai thì mới) nói được rằng: tính mắt sáng, tính tai thính. Nay tính người ta đói thì muốn no, lạnh thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ, đó là tính tình con người ta. Nay người ta đói, thấy bậc tôn trưởng mà không dám ăn trước, ấy là vì muốn nhường, mệt (thấy bậc tôn trưởng) mà không dám xin nghỉ, ấy là vì muốn làm thay. Con nhường cha, em nhường anh, con thay cha, em thay anh, hai hành vi đó đều phản lại bản tính, trái ngược với tình người. Nhưng đó là đạo của người con hiếu, nét đẹp của lễ nghĩa. Cho nên thuận theo tính tình thì chẳng từ nhượng, từ nhượng thì trái ngược với tính tình. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm mà cái thiện của tính người ta là do công của người ta vậy.
Người ta hỏi: Tính người ta ác, thì lễ nghĩa ở đâu mà ra? Đáp: Lễ nghĩa là do thánh nhân làm ra, chứ không phải do tính người sinh ra. Người thợ gốm nhào đất mà làm đồ dùng, vậy đồ dùng là do người thợ gốm học tập rồi làm ra, chứ không phải do tính người ta tự nhiên biết mà sinh ra. Người thợ mộc đẽo cây mà làm đồ dùng, vậy đồ dùng là do người thợ mộc học tập rồi làm ra, chứ không phải do tính người tự nhiên biết mà sinh ra. Đứng thánh nhân dày công suy tư, tập thành thói quen để làm ra lễ nghĩa, đặt ra phép tắc, vậy lễ nghĩa, phép tắc là do công phu suy tư, chế tác của đứng thánh nhân mà ra, chứ không phải do tính người tự nhiên biết mà sinh ra. Còn như mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng hay, miệng ưa vị ngon, tâm ưa lợi, xương, da, thân thể ưa nhàn, thì đều là do tính tình người ta sinh ra tự nhiên thấy như vậy, chẳng phải đợi làm gì mà sau mới như vậy. Sinh ra tự nhiên không được như vậy, tất phải đợi làm gì mà sau mới thành như vậy thì gọi là “nguỵ”. Đó là trưng nghiệm của sự khác nhau giữa tính và “nguỵ”. Thánh nhân biến hoá cái tình mà lập nên cái “nguỵ”, do cái nguỵ mà sinh ra lễ nghĩa, do lễ nghĩa mà đặt ra phép tắc, sở dĩ khác mọi người, hơn mọi người là do cái “nguỵ”. Thích lợi, ham được, ấy là tính người ta. Giả sử anh em có tài sản chia nhau, nếu cứ theo cái tính tình thích-lợi-tham-được mà chia, thì thế tất xảy ra tranh giành đánh lộn, nếu được lễ nghĩa cải hoá thì dù là người dưng cũng không tranh nhau mà biết tương nhượng. Ấy đấy, thuận theo tính tình thì anh em tranh giành nhau, được lễ nghĩa cải hoá thì người dưng có thể tương nhượng.
Người ta sở dĩ muốn làm thiện, là vì tính người ta vốn ác. Bạc thì muốn hậu, xấu thì muốn tốt, hẹp thì muốn rộng, nghèo thì muốn giàu, hèn thì muốn sang: nếu trong không có, tất tìm ở ngoài. Cho nên giàu thì không mong tiền, sang thì không mong quyền thế: nếu trong sẵn có, tất chẳng tìm ở ngoài. Xét vậy thì người ta muốn làm thiện là vì tính ác. Nay, tính người ta vốn không có lễ nghĩa, cho nên mới cố học, cầu cho có, tính người ta vốn không biết lễ nghĩa, cho nên mới suy nghĩ, cầu cho biết. Vậy, chỉ thuận theo tính bẩm sinh của người ta mà thôi thì người ta không có lễ nghĩa, không biết lễ nghĩa. Người ta không có lễ nghĩa thì loạn, không biết lễ nghĩa thì bội nghịch. Vậy, chỉ thuận theo tính bẩm sinh của người ta mà thôi, thì mầm bội loạn ở ngay trong mình rồi. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính người là do công của người ta vậy.
Mạnh Tử bảo tính người ta là thiện. Tôi bảo: Không phải! Xưa nay, thiên hạ gọi thiện những gì hợp với sự “chính lí bình trị”, gọi là ác những gì hợp với sự “thiên hiểm bội loạn”. Đó là điểm phân biệt thiện và ác. Nếu tính người ta hợp với sự “chính lí bình trị” thì hà tất còn cần đến thánh vương? Hà tất còn dùng lễ nghĩa? Vả dù có thánh vương, lễ nghĩa thì cũng có bổ ích gì cho sự chính lí bình trị đâu? Thật ra, không phải. Tính người ta ác. Xưa, đứng thánh nhân cho tính người ta là ác, là thiên lệch, nham hiểm và không ngay thẳng, cho nên mới lập ra vua để chế ngự, làm sáng tỏ lễ nghĩa để giáo hoá, đặt phép tắc, dựng chế độ để bình trị, dùng nghiêm hình để ngăn cấm, khiến cho thiên hạ thành trị và mọi người thành lương thiện. Đó là trị công của thánh vương và hoá lực của lễ nghĩa. Nay thử bỏ sự chế ngự của vua, không dùng sự giáo hoá của lễ nghĩa, bỏ sự trị bình của phép tắc, chế độ, bỏ sự ngăn cấm của hình phạt, ngồi mà xem người trong thiên hạ đối xử với nhau ra sao. Nhất định là người mạnh sẽ hãm hại, cướp bóc kẻ yếu, số đông sẽ lấn áp, xâu xé số ít và thiên hạ sẽ rối loạn, diệt vong ngay tức thì. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính người là do công của người ta vậy.
Giỏi bàn việc đời xưa tất phải chứng nghiệm ngay ở việc đời nay, giỏi bàn việc trời, tất phải chứng nghiệm ngay ở việc người. Biện luận thì phải trọng sự phù hợp với chứng nghiệm (như hai phần của một con dấu chia đôi đem hợp lại)[657], cho nên ngồi mà nói, đứng lên mà xếp đặt và có thể thi hành được. Nay Mạnh Tử bảo: Tính người ta thiện. Biện luận của ông không hợp với chứng nghiệm, ngồi mà nói, đứng lên không thể xếp đặt, không thể thi hành được. Há chẳng phải là lời nói quá quắt ư? Tính người ta thiện thì bỏ thánh vương đi, dẹp lễ nghĩa đi. Tính người ta ác thì nên theo thánh vương, trọng lễ nghĩa. Là vì cây cong nên phải có “ẩn quát” (dụng cụ uốn nắn gỗ), cây không thẳng nên phải dùng dây-mực, tính người ta ác nên mới lập vua, làm sáng tỏ lễ nghĩa. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính người là do công của người ta vậy. Cây thẳng chẳng đợi có cái “ẩn quát” cũng thẳng, vì “tính” của nó vốn thẳng, cây cong thì tất cần được luộc uốn mà sau mới thẳng, vì “tính” nó không thẳng. Nay, tính người ta ác, thì tất cần có thánh vương sửa trị, lễ nghĩa giáo hoá mà sau đó mới trở nên thuần lương. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính người là do công của người ta vậy.
Người ta hỏi: Dù lễ nghĩa có công phu “tích nguỵ”[658] thì tính người ta cũng tất phải sẵn có lễ nghĩa thì thánh nhân (cũng là người) mới làm ra lễ nghĩa được chứ? – Thưa rằng: Không phải! Kìa như người thợ gốm, người ấy nhào đất sét làm đồ dùng, há phải tính người ấy vốn biết nhào đất sét làm đồ dùng? Kìa như người thợ mộc, người ấy đẽo gỗ làm đồ dùng, há phải tính người ấy vốn biết đẽo gỗ làm đồ dùng? Thánh nhân làm ra lễ nghĩa cũng ví như người thợ gốm nhào đất sét làm đồ dùng, thế thì há phải tính người ta sẵn có lễ nghĩa, - công phu của “tích nguy”? Phàm là tính người thì vua Nghiêu, vua Thuấn hay bạo Kiệt, đạo Chích cũng cùng tính ấy, quân tử hay tiểu nhân cũng cùng tính ấy. Nay bảo lễ nghĩa – công phu tích nguỵ – là tính người ư? Thế thì hà tất quí trọng vua Nghiêu, vua Vũ, hà tất quí trọng bậc quân tử? Sở dĩ quí trọng vua Nghiêu, vua Vũ và các bậc quân tử là vì họ khéo biến hoá cái tính, tích luỹ cái nguỵ, cái nguỵ phát khởi thì sinh ra lễ nghĩa, cũng như người thợ gốm nhào đất sét làm thành đồ dùng. Xét vậy thì lễ nghĩa, - công phu tích nguỵ - há phải là tính người? Sở dĩ khinh rẻ bạo Kiệt, đạo Chích và các kẻ tiểu nhân là vì họ buông thả tính tình, huênh hoang càn bậy, sinh ra tham lam tranh giành. Xét vậy thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính người là do công của người ta vậy. Trời không yêu riêng mấy ông Tăng Sâm[659], Mẫn Tử Khiên[660], Hiếu Kỉ[661], mà ghét bỏ những người khác. Thế mà riêng mấy ông Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên, Hiếu Kỉ thực có cái hạnh chí hiếu và được cái danh toàn hiếu là tại làm sao? – Là tại ba ông đã biến hoá được cái tính và dốc lòng theo lễ nghĩa. Trời không có yêu riêng dân nước Tề, nước Lỗ mà ghét bỏ dân nước Tần. Vậy mà tình cha con, nghĩa vợ chồng, dân Tần không bằng dân Tề, Lỗ là những người giàu lòng hiếu kính, thế là tại sao? – Là tại dân Tần thuần theo tính tình, huênh hoang, càn bậy, xem thường lễ nghĩa, chứ có phải là tại tính họ khác (tính dân Tề, Lỗ) đâu?
Câu cổ ngữ: “Người ngoài đường (người dân thường) có thể thành vua Vũ (bậc thánh vương) được nghĩa làm sao? – Thưa: Câu ấy ý nói rằng: Vua Vũ mà thành được vua Vũ là vì đã làm điều nhân, nghĩa, giữ phép thẳng ngay. Thế nghĩa là điều nhân, nghĩa, phép thẳng ngay có cái lẽ hiểu được, giữ được. Mà “người ngoài đường” đều có cái tài chất để hiểu được điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay, đều có cái tài chất làm được điều nhân nghĩa, giữ được phép thẳng ngay. Vậy thì họ có thể thành vua Vũ là đều rõ rệt. Nay cho rằng điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay không có cái lẽ hiểu được, giữ được ư? Nếu vậy thì vua Vũ cũng chẳng thể hiểu điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay, cũng chẳng thể làm điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay được. Nay, cho rằng “người ngoài đường” vốn không có tài chất để hiểu được điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay, vốn không có tài chất để làm được điều nhân nghĩa, phép thẳng ngay ư? Nếu vậy thì “người ngoài đường” sẽ, trong, không thể hiểu nghĩa cha con, ngoài, không thể hiểu đạo vua tôi. Vậy thì cái tài chất có thể hiểu, có thể làm, không “người ngoài đường” nào không có, là điều rõ ràng vậy. Với cái tài chất có thể hiểu, có thể làm (mà “người ngoài đường” đều có), lại căn cứ vào điều nhân nghĩa có cái lẽ có thể hiểu, có thể làm mà xét, thì “người ngoài đường” cũng có thể thành vua Vũ được là điều rõ ràng rồi. Giả sử “người ngoài đường” cố học tập, chuyên tâm nhất trí, suy tư, xét nét, lại thêm vào đó, tháng này qua năm khác, làm hoài điều thiện, không ngừng, thì họ sẽ tới được cảnh giới “cảm thông thần minh”, “tham tán trời đất”. Thế cho nên, thánh nhân chỉ là người (thường) nhờ công phu tích nguỵ mà thành.
Hỏi: Thánh nhân chỉ là người thường nhờ công phu tích nguỵ mà thành, còn các người khác không “tích nguỵ” để thành thánh được là tại sao? – Đáp: Tại họ có cái tài chất để làm (tích nguỵ) được nhưng lại không làm, cũng như kẻ tiểu nhân có thể thành người quân tử mà không chịu làm người quân tử, người quân tử có thể làm người tiểu nhân mà không chịu làm người tiểu nhân. Tiểu nhân và quân tử chưa từng không thể kẻ nọ làm người kia, người kia làm kẻ nọ, nhưng họ không làm, là vì họ có thể làm mà họ không chịu làm. Cho nên “người ngoài đường” có thể làm được vua Vũ, nhưng điều đó không phương hại đến cái khả năng làm được vua Vũ. Chân người có thể đi khắp thiên hạ, nhưng chưa ai từng đi khắp thiên hạ. Người làm thợ chưa từng không thể làm ruộng hay đi buôn, cũng người làm ruộng hay đi buôn chưa từng không thể làm thợ, thế nhưng chưa từng có những người làm thợ, làm ruộng hay đi buôn đổi lẫn nghề với nhau. Xét vậy thì “có-thể-làm-được” chưa hẳn là “làm được”. Tuy không làm được, cũng chẳng phương hại gì đến cái khả năng làm được. Vậy làm-được và không-làm-được với có-thể-làm-được và không-thể-làm-được, hai đàng khác nhau xa lắm, không thể thay nhau được là điều rõ ràng rồi. Vua Nghiêu hỏi vua Thuấn: “Tình người như thế nào?” Vua Thuấn đáp: “Tình người rất không đẹp, còn hỏi làm gì? Có vợ, có con là lòng hiếu với cha mẹ suy giảm, thị dục được thoả mãn rồi là lòng tín thực với bạn bè suy giảm, tước lộc hưởng đủ rồi là lòng trung kính với quân thượng suy giảm. Tình người ư? Tình người rất không đẹp, còn hỏi làm gì?”. Chỉ những bực hiền mới không như vậy.
Có cái trí của thánh nhân, có cái trí của kẻ sĩ quân tử, có cái trí của tiểu nhân, có cái trí của đứa dịch phu (tức như đầy tớ).
Nói nhiều thì có văn vẻ và thống loại, nghị luận suốt ngày về điều mình nói, thiên cử vạn biến, mà cái thống loại vẫn là một, ấy là cái trí của thánh nhân.
Nói ít, vắn tắt và rõ rệt, nghị luận có khuôn phép, không phóng túng, như kéo thẳng sợi dây, ấy là cái trí của kẻ sĩ quân tử.
Lời nói thì siểm, việc làm thì trái với lời nói, làm việc thì hay lầm lẫn, ấy là cái trí của kẻ tiểu nhân.
Liến thoắng, bộp chộp mà không thống loại, kì quặc, viễn vong mà không dùng được, gẫy gọn, tinh tường mà không vụ thiết thực, không kể phải trái, không luận cong ngay, chủ ý chỉ muốn thắng người bằng được, ấy là cái trí của đứa dịch phu.
Có thượng dũng, có trung dũng, có hạ dũng.
Khi thiên hạ có đạo trung thì mình quả cảm giữ cái thẳng của mình, không nương tựa vào đâu cả, đứng tiên vương có đạo thì mình quả cảm theo cái ý chí của mình mà làm[662], trên, không theo ông vua đời loạn, dưới, không theo dân đời loạn, chỗ có nhân thì không biết có sự bần cùng (bần cùng cũng chịu), chỗ không có nhân thì không biết có sự phú quí (phú quí cũng không thèm). Thiên hạ biết tới thì cùng vui khổ với thiên hạ, thiên hạ không biết tới thì chững chạc đứng một mình trong khoảng trời đất mà không sợ, ấy là thượng dũng.
Vẻ thì cung kính mà ý thì nhũn nhặn, rất trung tín mà khinh tài hoá. Ai là người hiền thì dám suy tôn mà kính chuộng, ai là kẻ hư hỏng thì dám đẩy ra mà bỏ đi, ấy là trung dũng.
Rẻ mình mà trọng của cải, không chịu cảnh giới mà tránh hoạ, khi hoạ tới thì rườm lời biện minh để chạy tội, cẩu thả mà không kể phải trái, đúng hay không đúng, chỉ muốn tranh thắng bằng được, ấy là hạ dũng, - cái dũng hạng bét.
Phồn nhược, Cự thử là hai cây cung tốt đời xưa, nhưng nếu không được gắn cái “kính”[663] thì cũng không bắn được ngay. Cây Thông của vua Hoàn công, cây Khuyết của ông Thái công, cây Lục của Văn vương, cây Hốt của Trang vương, cây Can tương, cây Mặc tà, cây Cự khuyến, cây Tích lư của vua Hạp Lư đều là những cây gươm tốt đời xưa[664], nhưng không mài thì cũng không thể sắc, không được sức người thì cũng không chém đứt được gì. Con Hoa, con Lưu, con Kì, con Kí, con Tiêm li, con Lục nhĩ đều là những con ngựa tốt đời xưa, nhưng trước tất phải có hàm thiết khống chế, sau tất phải có roi vọt ra oai, thêm vào đó, được Tào Phủ cưỡi thì một ngày mới chạy được ngàn dặm. Người ta dù có tính chất hơn người và tâm biện biệt sáng suốt, tất vẫn phải tìm thầy hiền mà thờ, chọn bạn tốt mà chơi. Được thầy hiền mà thờ thì nghe toàn đạo vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang, được bạn tốt mà chơi thì thấy toàn hành vi trung tín, kính, nhượng, thân hằng ngày tiến vào đường nhân nghĩa mà không tự biết, ấy là vì cảm nhiễm xui nên. Nay, cùng ở với người bất thiện thì nghe toàn chuyện lọc lừa, vu khống, thấy toàn hành vi bẩn thỉu, dâm tà, dối trá, tham lam, thân còn vướng víu vào vòng tù tội, giết chóc mà không tự biết, ấy là vì sự thuận tòng, sự cảm nhiễm xui nên. Sách xưa nói: “Không biết con mình, thì nhìn chúng bạn nó, không biết vua mình, thì nhìn bọn cận thần”. Chỉ là sự cảm nhiễm dần và xui nên mà thôi, chỉ là sự cảm nhiễm xui nên mà thôi!
[656] Văn học: Chữ VĂN HỌC này rộng nghĩa hơn ngày nay, không phải chỉ là văn chương mà chú trọng nhất tới đạo đức, tu dưỡng, lễ nghĩa.
[657] Hợp lại: ý nói lí thuyết phải hợp với thực tại.
[658] Tích nguỵ: việc làm của người chất chứa lại.
[659] Tăng Sâm: Họ Tăng, tên Sâm, tự Tử Dư, người nước Lỗ, cùng với cha là Tăng Tích theo học Khổng Tử. Có tiếng là người chí hiếu.
[660] Mẫn Tử Khiên: Họ Mẫn, tên Tốn, tự Tử Khiên, học trò Khổng Tử. Lúc nhỏ, mồ côi mẹ, bị dì ghẻ bạc đãi, mùa đông cho mặc áo bông lau, trong khi hai em, con ruột của dì, được mặc áo bông gạo. Cha biết chuyện, toan bỏ người vộ bất công và tàn nhẫn. Mẫn Tử Khiên thưa với cha: “Dì con còn thì chỉ mình con rét; dì con đi, thì cả ba anh em chúng con chịu cảnh cô đơn”. Cha Mẫn bèn bỏ ý định bỏ vợ và người dì ghẻ cũng cảm hoá. [Tên Tốn: theo trang http://xizangctyhys.108198.com/show/12/60799.html thì ông tên là: 損, chữ 損, Thiều Chửu đọc là “Tổn”. (Goldfish)].
[661] Hiếu Kỉ: Thái tử, con vua Cao Tôn nhà Ân, nổi tiếng hiền thảo.
[662] Nguyên văn: 先王有道,敢行其意 (Tiên vương hữu đạo, cảm hạnh kì ý). Câu này tối nghĩa. Sách Tuân Tử Tập Giải ghi sau câu này: “Ngôn bất nghi dã”: Ý nói: không ngờ (đạo của tiên vương). Nhưng như vậy nghĩa cũng vẫn chưa thông.
[663] Miếng gỗ gắn vào cung để bắn cho thẳng.
[664] Thông, Khuyết, Lục, Hốt là những cây gươm quí của Tề Hoàn công, Tề Thái công, Chu Văn vương và Sở Trang vương. Can-tương, Mặc-tà, Cự-khuyết, Tích-lư đều là gươm quí của vua Hạp Lư nước Ngô. – Mặc tà cũng đọc là mặc dà. Can-tương và Mặc-tà (các sách viết là Mặc-da) là tên hai vộ chồng một nhà đúc gươm. Can Tương định chế một đôi gươm quí mà mãi không thành, sau, vợ, Mặc Tà, bỏ tóc và móng tay của mình vào thép mới đúc được đôi gươm như ý muốn, đôi gươm mang tên đôi vợ chồng: cây Can Tương của chồng, cây Mặc Tà của vợ. [Tề Thái công: Theo trang http://www.xiexingcun.com/classic/xz024.htm thì “Thái công” là “Khương Thái công” (姜太公) (tức Khương Tử Nha). (Goldfish)].