- V -
Bấy giờ là cuối tháng giêng âm lịch năm một nghìn chín trăm ba mươi (1930).
Cái Tết năm nay đã về Lũng Nghìu vướng phải sương mù và rét buốt, đến chậm chạp.
Giữa tháng giêng mà những làng ở khuất hẻm núi vẫn nghe tiếng đàn tích phảy phảy trong đêm khuya của những cô then nghèo bị những cô then tài sắc tranh hết khách, nên ít được đám gọi, phải đi cúng chậm ở những xóm nhỏ còn sót lại mấy nhà túng bây giờ mới chạy được gà và rượu.
Mã Hợp cõng củi xuống chợ từ mùng bốn Tết - ngàv mở chợ.
Về qua trấn Lũng Vài, tạt vào mua ngụm rượu uống. Xem mở đố chữ, cho ấm bụng, rồi xem then, ở Lũng Nghìu không có then vào bao giờ.
Ở Lũng Vài năm ấy rất nhiều người qua lại, cái Tết lộn xộn khác hẳn mọi năm. Lũng Nghìu như cái hũ tối, chẳng trông thấy gì, nhưng Lũng Vài thì khác, người có ý, xem cảnh trấn Lũng Vài mỗi năm cũng thấy ra thời thế được.
Ngày ngày, người các nơi đổ đến lại cuốn đi, như sóng đánh bờ đá, không ai biết mặt ai. Bọn buôn bò ở Lạng Sơn sang. Bọn lái tép đi nhặt hồi. Các tay buôn kếch xù ở Hồng Kông mò xuống cùng với đại lý buôn thuốc phiện của công ty Việt Điền. Năm mới, họ chưa vào làng lùng hàng mà còn nằm đánh bạc, hút thuốc ngoài trấn để nghe mối các nơi ra bàn bạc giá cả. Không thể biết có bao nhiêu tay buôn thuốc phiện và súng lậu hay những người nào là tai mắt của kẻ cướp cho về nắm tin tức, hòng chõm một chuyến có thể làm ăn bẫm đầu năm - có khi vớ được ngay đầu ngõ, ngay trong phố. Vì vậy, mỗi sòng bạc, mỗi quán cao lâu lại phải thuê bóng vía và núp oai kẻ cướp để giữ tiếng cho cửa hàng mình. Còn lô cốt Ải Khẩu, còn quân quan trấn ải Nam Quan, mỗi lần có lính đi tuần qua hay xuống chơi - chúng đi qua và xuống chơi luôn, lính sà vào hàng ăn nào, ăn bao nhiêu cũng không mất tiền. Các sòng phán thán, tài xỉu, mạt chược, đố chữ, mỗi ngày, khi dốc tiền hồ, được bao nhiêu mặc kệ, cứ đặt cọc riêng ra đấy một trăm để lính ngoài ải vào thu. Càng lộn xộn tợn. Năm nay thêm đám địa chủ các vùng giáp huyện Long An chạy sang Lạng Sơn từ hồi Long Châu đỏ, bọn này cùng một phường con buôn và kẻ cướp, hai năm bây giờ mới mò về đến đây mà chưa dám về hẳn, còn dùng dằng, đắn đo nghe ngóng thêm, nhân có tiền trong tay thì vung ra tiêu cho hả cái trận hút chết vừa qua.
Trấn Lũng Vài, lèo tèo thường ngày. Tết này bỗng đông hẳn. Mọi năm, khi xuân đến, các làng xung quanh lần lượt vào hội lùng tủng thì trấn Lũng Vài đón khách đã sẵn có hai nhà đố chữ và sòng tài xỉu. Năm nay thêm mấy hiệu nữa. Nhà Đại Hoà tận bên Kỳ Lừa cũng đút tiền quan Tàu coi cửa Nam Quan cho sang thuê nhà mở sòng và cao lâu. Lại những hàng vịt quay Thất Khê, Thất Khê trên bến dưới thuyền thế mà cũng ngất của sang tận đây! Hàng phở chua ở Cây Khế, ở Quán Hồ cũng kéo sang. Rầm rập, nhốn nháo đêm ngày, sầm uất như các thị trấn bên Lạng Sơn khi vào mùa hồi.
Mã Hợp thì thấy vẫn thế. Bởi vì, vui nhiều hay ít đã có đồng tiền đo trong người, mà Mã Hợp thì chẳng có đồng tiền nào để đo cả.
Mã Hợp vào phố. Cái áo bông đen đã rách còn ẩm sì và trĩu những nước ở bó củi rích xuống, cả miếng da trâu để đệm bó củi nặng bị nước ngấm bốc mùi tanh khẳn vẫn đắp nguyên trên vai. Năm mới cũng như năm cũ, vẫn như hôm cuối năm về qua đây. Chỉ có cái đầu trọc trắng hếu là mới như Tết.
Một người đương đứng xem mở chữ, đến ghé tai Mã Hợp hỏi:
- Ở Lũng Nghìu phải không?
Mã Hợp nhìn người lạ rồi khẽ gật đầu.
- Có còn nhớ anh mình ở Long Châu không?
Mã Hợp lúng túng, người kia nói thêm:
- Anh Năm mà.
Mã Hợp reo:
- Nhớ chứ! Nhớ! Anh Năm bây giờ đã về Long Châu à?
Người kia nói:
- Anh Năm nhắn Mã Hợp đi thăm anh...
Mã Hợp cười hiền lành. Tưởng như bay được đến Long Châu thì bay ngay, nhưng rồi lại ngơ ngác nhìn người lạ. Làm sao đi nổi Long Châu? Người ấy nhìn trước nhìn sau, lặng lẽ rút trong túi ngực ra đệp giấy bạc đếm đủ năm mươi đồng.
- Anh Năm cho tiền đi xe ngựa đây.
Mã Hợp vẫn cười, lắc đầu, khó khăn:
- Chẳng ma nào dám đi Long Châu rồi.
Người vùng này đều biết đường đi Long Châu bây giờ ghê lắm, đã từ lâu không ai dám đi. Đây lên Long Châu, những cánh cướp to đã chia nhau trấn giữ bắt các làng nuôi và để cướp đường. Quanh Bình Tường, có bọn Chu Kim Tỉnh, ở Bình Nghi thì Tô Khải Phong, vùng Bản Kiền có Triệu Đình Mậu, Hà Phương Sơn. Quanh Long Châu có đám Hoàng Ký Thần, Sằn Minh Lường, bên Hạ Đống thì Chính Hiền... Đấy mới nói những cánh cướp to có hàng trăm tay súng. Từng bọn nhỏ hai ba người, thuê súng nhà giàu đi cướp, được về chia đôi, đám này đông như kiến cỏ, vài bước đã đụng phải.
Từ ngày Long Châu đỏ, địa chủ chạy xuống, cướp cũng dồn xuống, dày đặc cả một dải vùng giáp giới Cao Bằng, Lạng Sơn đến Móng Cái. Các làng hẻo lánh ở cách bức chỉ nghe đồn thổi lẫn lộn chuyện Hồng quân chia ruộng cho người nghèo, chuyện cướp bắt đóng thuế bằng gạo, chuyện quan quân các tỉnh kéo đi đánh nhau, tuyệt nhiên không biết thật tình thế hiện nay ra sao. Các đồn binh Pháp bên kia, được dịp này hóa ra tốt, đã khỏi khó nhọc lại phát tài. Địa chủ đi trốn Hồng quân muốn qua biên giới, phải mất tiền, muốn ở trong làng, ở ngay Đồng Đăng hay xuống tận Kỳ Lừa hay Đồng Mỏ, hay Hà Nội lại mất tiền nữa. Các toán cướp cả hai bên đi tìm đất cướp thì đi lại, ăn tiệc thường ngày với quan đồn. Có người lạ vượt biên giới, nhất là những hội kín, làm cách mệnh, bên kia động tĩnh gì thì quan quân Quốc dân đảng sang báo Tây, gặp đồn nào báo đồn ấy, báo ngay.
Người ấy bảo Mã Hợp:
- Không lo, Mã Hợp à. Anh Năm dặn lúc đi đường thì nhớ làm hiệu: buộc cành bồ quân vào sau mui xe bên phải. Nơi nào chưa tin, giữ lại thì đưa giấy này, sẽ qua được, nhất định thế.
Mã Hợp cất cẩn thận cái thiếp có dòng chữ “Lưu Minh Hạ Long Châu tu giới xưởng” lên túi áo ngực.
Người ấy lại dặn:
- Đến Long Châu, hỏi Lý Phàn Len ở phô Lùng Hù Cái... Cứ thế, cứ thế nhé...
Tối hôm ấy, cả xóm Lũng Nghìu đã biết Mã Hợp được tin anh Năm.
Ngày Thụ và Chi đi rồi ai cũng mong. Không phải chỉ vì hai người thanh niên vui tính mà xóm Lũng Nghìu mong những người cách mệnh. Từ ngày giặc Pháp chiếm nước ta, các vùng biên giới ở Lạng Sơn được chứng kiến, cứ mỗi thời kỳ có cuộc khởi nghĩa chống Pháp không xong lại từng đợt người khắp các nơi trong nước chạy lên phía bắc, vượt sang Trung Quốc. Người hai bên biên giới lúc đầu chỉ biết đấy không phải là lái buôn. Họ không hút thuốc phiện, họ có súng mà không ăn cướp, gặp ai cũng chỉ nói về chuyện đánh thằng Tây. Thấy thế, người biên giới hiểu cách mệnh là to lớn và việc chung thế ai cũng thương, khi nào có người cách mệnh đến thì vượt núi đưa đi, tránh mắt thằng quan hai Đồng Đăng, cả bọn lính Quốc dân đảng cũng không biết. Họ đưa người cách mệnh một chặng đưòng, rồi lại trở về cặm cụi, mòn mỏi sinh sống trên mảnh rừng cằn cỗi, mù mịt. Khi có ngưòi cách mệnh khác đến thì trong lòng họ lại thấy trở lại những mơ ước. Đến lúc người đi rồi lại nhớ. Không biết gì về cách mệnh xa xôi, nhưng lòng mong mỏi được gặp lại cách mệnh đã thành một ý nghĩ, một tình cảm đầm ấm như ánh lửa sưởi và soi sáng trong lòng, năm nào, họ cũng đoán: cách mệnh sắp trở lại. Nhưng vẫn chỉ thấy nhiều người đi qua. Khi nghe tin Long Châu đỏ, không thấy Hồng quân tới, nhưng nghĩ bụng: cách mệnh của ta sắp trở lại. Nhưng cũng không thấy, lại mong.
Xóm Lũng Nghìu nghĩ đến Thụ và Chi còn một thương yêu và tình cảm sâu sắc khác. Thụ và Chi người Lạng Sơn. Thế là cách mệnh không xa nữa, cách mệnh đã đến Lạng Sơn, đến Cao Bằng, con cháu người Tày người Nùng đã đi cách mệnh. Cõi đời thay đổi đến nơi. Chắc người già còn được trở về nơi có mồ mả ông bà ở bên Ma Mèo và có khi được thấy cái vui đấy.
Cho nên, nghe đã bắt được tin Thụ ở Long Châu, ai cũng mừng. Mẹ Mã Hợp càng mừng. Mã Hợp sửa soạn đi Long Châu. Mẹ gói cho Mã Hợp hai nắm cơm.
Nhiều người đến hỏi:
- Mã Hợp đi bây giờ?
- Anh Năm dặn đi Long Châu ngay mà.
Ai cũng trố mắt:
- Đi thế nào?
Câu hỏi có nhiều ý nghĩa và những băn khoăn. Mã Hợp lấy ra cả năm mươi tờ giấy bạc, để rải ra dưới đất.
- Anh Năm cho đấy.
Sự sung sướng tràn lên tất cả các nét mặt đến nỗi chợt có một lúc không ai nhớ ra nỗi nguy hiểm dọc đường Long Châu nhiều cướp. Mọi người chỉ bồng bột nghĩ gọn: anh Năm gọi Mã Hợp đi Long Châu. Cách mệnh có gì khác rồi.
Dãy xe ngựa đỗ chen kín mui trước chợ Ải Khẩu, nhưng hỏi có đi Long Châu, thì người đánh xe nào cũng lắc đầu. Chẳng ai dại! Ở đây tải người buôn, người đi chơi, chuyến nào cũng cầm chắc như vận đỏ được bạc, tội đâu mà lặn lội vào chỗ chết bây giờ. Mãi sau Mã Hợp phải bỏ cả năm mươi đồng đưa trước tiền khứ hồi, người đánh xe nọ tham món tiền to mới liều nhận đi.
Mã Hợp buộc một cành bồ quân còn đầy lá cao ngất ngưởng sau mui cánh phải tay xe rồi lên ngồi luôn chỗ ấy. Bồ quân mùa này xanh bóng, lá nõn đỏ hay trên ngọn. Như những chùm hoa nở, lắc lư theo vó ngựa.
Người đánh xe nhìn cành bồ quân, nghĩ đến cách làm trừ tà của thầy cúng và hỏi Mã Hợp:
- Bây giờ mày đổi nghề làm ông tào đi Long Châu cúng à?
Mã Hợp không trả lời. Còn người đánh xe thì yên trí cái thằng bán củi đầu trọc này mới học nghề thầy cúng. Cả vùng đã biết nó xưa nay hái củi bán chợ. Bây giờ phải bỏ vốn xông pha đi cúng vùng khác cho có tiếng dần về thì người ta mới tin được.
Đường đi Long Châu qua Bình Tường, chỉ mới đi được có mười mấy cây số mà đã khó nhọc và mỗi lúc càng lo lắng đầy. Không một bóng khói. Không một vết chân trâu. Đã lâu, đường cái không có người đi. Chiếc xe ngựa ấy lọc cọc chạy, một mình, vắng quá, chốc lại ngừng. Bốn phía lào xào như hàng trăm người sắp chồm đên. Nhưng đấy chỉ là tiếng những cơn gió vưóng núi vừa xoáy vừa rú xuống những đầu rừng xung quanh. Đến chỗ quang núi thì người đánh xe và cả Mã Hợp phải giơ dao phạt ngọn cỏ tranh và lau sậy hai bên ngả rạp xuống, đóng con đường lại, lối đi chỉ còn bằng cái lỗ chui. Chiếc xe chạy luồn vào, gió đuổi ù ù hai bên. Người ngồi trên xe lúc nào cũng sắp giật mình. Giữa trưa mà ngẩng đầu lên chỉ thấy mù mịt. Không biết trời tối hay cơn mưa. Những xóm năm trước lơ thơ ven đường, bây giờ đã biến đâu vào đám cỏ vàng ấy, chỉ còn vết lại những cây mơ nở hoa trắng rợn mắt.
Trước mặt, thốc lại một mùi hôi khẳn. Không phải hơi hổ thối. Bởi vì con ngựa vẫn xoải mạnh, không sợ. Ngựa chỉ sợ hổ, nhưng người đánh xe thì tái mặt, răng cắn bạnh hai vành quai hàm. Người đánh xe biết đấy là mùi xác người chết. Tự nhiên, Mã Hợp cầm chặt cành bồ quân.
Nhưng rồi đâu đấy lại trong trẻo phẳng lặng. Không thấy gì lạ. Lát sau, lại qua một quãng có mùi người chết. Một lúc, lại sặc sụa hôi thối. Người bị cướp giết chết, dọc đường nhiều quá. Cứ một lúc lại có mùi. Không ai trông thấy xác người, nhưng mùi thối nặng nề như phủ cả lên mặt và quần áo, có lúc ngửi bàn tay cũng thấy.
Đến một quãng rừng thưa. Có hai người cầm súng trường đột nhiên nhảy ra.
Người đánh xe cuống quýt quay đầu lại:
- Thế nào... thế nào...
Mã Hợp quát:
- Cứ đi!
Cái xe ngựa xồng xộc lao vào hai ngưòi kẻ cướp giương súng đương trố mắt nhìn cành bồ quân nhảy lung lay trên thành xe. Cái xe ngựa cứ lao vào. Hai kẻ cướp giạt cả sang bờ lau, tay vẫn nhăm nhăm chĩa ngọn súng theo.
Đi thật xa, những người ngồi trên xe mới thấy cái lưng nhẹ dần.
Một phiên chợ Ải Khẩu sau, Mã Hợp trở về Lũng Nghìu.
Cả xóm ngỡ nó sống lại. Hôm Mã Hợp đi rồi cả xóm mới bừng nhớ ra đi đường Long Châu bây giờ một còn mười chết. Không ai tưởng Mã Hợp lại có thể về Lũng Nghìu được chóng thế. Vậy mà Mã Hợp về thật rồi. Vừa tới đầu xóm đã nói toang toang. Lại xúng xính trong bộ áo bông lính, hai cái tay ngay đơ như thằng người bằng bột. Đầu đội mũ có lưỡi, lại như ông quan trên cửa ải. Thật kỳ lạ.
Cả xóm xúm lại hỏi. Mã Hợp nói to một câu trước nhất:
- Cách mệnh nhiều nơi lắm rồi.
Rồi Mã Hợp kê đến chuyện cành bồ quân của anh Năm có quyền lực bí mật cắm trên xe. Hàng chục lần, rõ ràng trông thấy cướp trong núi xô ra ngay trước mặt. Họng súng cứng thẳng, đen hoăm hoắm. Thế mà kẻ cướp chỉ nhác thấy cành bồ quân tự dưng tay kẻ cướp buông hẳn xuống. Cái xe mình thong thả đi qua, thong thả đi qua, oai quá. Cho đến tận Long Châu.
- Cách mệnh to lắm rồi, anh Năm bảo thế. Người nghèo khắp nơi đều theo cách mệnh đứng lên. Ở bên Tàu cũng như ở bên ta, không theo Tây, không theo Quốc dân đảng, không làm kẻ cướp, chỉ có theo cách mệnh, ta chỉ biết theo cách mệnh, cách mệnh càng chóng thành công. Anh Năm bảo thế.
Ai cũng săn đón hỏi:
- Bao giờ anh Năm về?
Buổi tối, mẹ mới thong thả hỏi Mã Hợp:
- Thằng Năm nhà mình có mạnh khoẻ như ngày ở đây không?
- Khoẻ.
- Cách mệnh trên ấy có đem giết nhà giàu như ở Hạ Đống không?
- Mình còn phải giết thêm thằng Tây nữa chứ!
Mẹ hiểu: giết thằng Tây mới lấy được đất nước, nhà mình mới trở lại được Ma Mèo. Mẹ biết thế.
Nhưng chồng chất những cái khó đấy. Tây ở Đồng Đăng, ở Kỳ Lừa, khắp đất nước, nhiều lắm, làm thế nào đi khắp mà giết cho hết. Thôi để bao giờ thằng Năm về, hỏi lại xem làm thế nào.
Bấy giờ đương tháng ba. Hoa gạo cũng mói nhú đỏ. Người xưa lo đến khi hoa gạo nở mới được cất bớt áo. Mẹ chẳng có áo cất đi, đêm tháng ba mẹ cũng rét thế mà đêm nay cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn, quên cả cái lạnh rớt mùa đông vẫn buốt hơi đá.
Đầu tiên Mã Hợp rủ Khén Chang và Khì Chang đến nhà. Hai người ấy cùng trạc tuổi và thân nhất xưa nay.
Ba người mải chuyện bên bếp, không biết đêm đã vào khuya lúc nào. Mã Hợp nói lại những cái đã thấy và những điều mà Thụ đã dặn ở Long Châu. Trong những mới lạ vừa xem ra được ý nghĩa to lớn quá. Phải, ai củng cứ chịu thế này mà không biết cựa quạy thì thằng Tây kìm hãm ta cho đến chết thôi, chẳng còn gì nữa. Chạy mãi, chạy mãi sang tận nước nào thì cũng thế, cũng khổ và chẳng thấy được ở đâu còn có nước ta đâu: cả xóm Lũng Nghìu hàng trăm con người không biết nổi một chữ. Cả tỉnh Lạng Sơn hàng nghìn vạn con người, có mấy người biết chữ thì cũng đếm được. Có ai biết chữ đâu. Ai dạy cho mà biết! Thò cổ đi đâu cũng không được. Thằng Tây mà còn ở đây, giá có bao giờ về được Ma Mèo thì cũng chỉ đến đi phu rạc đời... Hết phu đường Văn Mịch, lại đường Bình Độ, đường Pò Mã, song lại quay xuống đường mới Bản Dạc. Ôi thôi, người Việt Nam còn sống mà chưa đuổi được thằng Tây đi thì thằng Tây còn bày ra trò làm đường sá cho nó dễ đem khố xanh, khố đỏ đi giết người khắp nơi... Ta nhất quyết bảo nhau làm cách mệnh, đánh đuổi thằng Tây, thằng quan đi. Anh Năm đã được trông thấy người bên Trung Quốc đánh đuổi quân quan rồi, ta cũng sẽ làm được thế. Bắt đầu làm cách mệnh thì lập tổ ba người một. Mỗi người đóng cho cách mệnh mỗi tháng một xu, đến hẹn đóng một xu thì đi gặp nhau bàn chuyện, thế gọi là một xu của người cách mệnh... Ba người một tổ, sống chết có nhau... chết cho cách mệnh thì không biết sợ...
Mã Hợp nói:
- Anh Năm bảo việc làm ngay trước tiên là phải biết giữ bí mật. Ba chúng mình một tổ, chỉ ba chúng mình biết với nhau thôi. Bằng lòng không?
- Cùng người nghèo phải thằng Tây đuổi bỏ đất Ma Mèo đi thì một bụng giống nhau từ lâu rồi.
- Bây giờ chia từng việc mà làm. Tôi đi giao thông. Khén Chang hay chăn trâu xuống Nam Quan thì lúc nào cũng xem được bọn quan quân ở đấy nhiều hay ít, công việc nó thế nào, đi tuần đâu, gác đâu, có súng gì, để ở đâu. Khì Chang thì tiếp tế. Tôi hay đi bán củi thì phải biết mò thám bọn quân quan Quốc dân đảng ở Nam Quan, bọn Tây ở Đồng Đăng. Biết rõ nó thì lúc đánh càng dễ, lại phải học canh gác, lại thuộc giờ tàu chạy ở các ga Quán Hồ, ga Tam Lung để phòng khi đi đón cách mệnh. Anh Năm dặn ba người thế. Bằng lòng không?
- Bằng lòng rồi.
Đến tận gà gáy vẫn chưa cạn chuyện Long Châu. Bắt đầu từ đêm nay ở trong cái hốc núi hẻo lánh tận cùng ấy, có ba người thanh niên dân tộc Nùng đã thấy được trên đời không phải chỉ có mỗi một nỗi khổ cho tất cả những người nghèo, mà cuộc sống còn có cách mệnh và việc làm của cách mệnh. Những người nghèo sẽ làm, như anh Năm mình đã nói rằng đã biết rồi thì làm mãi, chết người này ngưòi khác thay, làm cho đến khi tiêu tan nỗi khổ và không còn thằng Tây, thằng quan nào trên mặt đất nữa.
Vào quãng cuối mùa xuân năm sau, có một người trắng trẻo, cao lớn, quần áo dạ đen, mũ lưỡi trai, giầy nhung đen mới, tuyết còn ánh lên. Đáng chú ý nhất là cái xe đạp cao lênh khênh. Hồi ấy, cả vùng hai bên cửa ải Nam Quan cũng chưa mấy ai đã trông thấy cái xe đạp.
Người thanh niên nọ đi từ Long Châu đến Bản Đảy, có vẻ thông thạo, anh dắt xe đạp, đến thẳng nhà Lình Kín Piao.
Nhà Lình Kín Piao xưa kia ở đầu xóm.
Nhà Lình vốn tiều tuỵ, bây giờ ba mặt vách đã rơi tuông xuống hết. cả nhà chỉ còn đúng một bức tường hậu, mưa cũng đã bào trơ ra chỉ còn từng miếng gạch đất luyện trống hốc.
Giữa nền nhà, ba con trâu đương loay hoay chen nhau trên vũng bùn, bỗng đứng im, nghếch mõm lên nhìn người lạ.
Người ấy cũng đứng nhìn mấy con trâu, bâng khuâng một lát, rồi bước sang bên nhà hàng xóm và hỏi thăm:
- Nhà ông Lình đi đâu?
- Quân trên huyện Long Châu đến bắn chết năm trước rồi.
- Còn cái Oi đâu, các bác ơi!
- Không biết.
Khách cúi chào, rồi bước nhanh ra.
Cô gái hàng xóm đứng trong nhà, nhìn theo, nói:
- Trông ai như cái anh bên Lạng Sơn sang Bản Đảy hồi Tết năm xưa. Chỉ khác có chiếc xe đạp...
Thụ về Lũng Nghìu.
Cứ vào mùa hè thì Lũng Nghìu nằm dí xuống giữa khe núi trũng, bức không thở được. Nắng tây dọi thui người.
Vào đến trong nhà rồi mà mẹ trông vẫn không ra. Nhưng Thụ thì nhận ngay được ra mẹ trước nhất vì miếng áo vá. Ba năm trước, ngày Tết, mẹ mặc cái áo vá hai miếng vai to tướng. Câu ví “Hoa gạo xuống đất, người già cất chăn” không đúng với mẹ. Bây giờ, giữa những ngày nắng đổ lửa, vẫn một cái áo đụp có hai miếng vá đây. Không còn sức đâu, không có cách nào mà trồng bông, xe sợi, dệt vải, nhuộm chàm, chẳng may nổi cái quần cái áo. Thụ nhớ lại ở Long Châu đỏ, cuộc biểu tình nào, cuộc đấu tranh nào cũng toàn các bà, các chị gầy xanh xám. Xưa nay, các chị chỉ ở trong nhà. Bây giờ họ đi biểu tình hàng đầu. Người phụ nữ nước ta có nhiều nỗi khổ nhất, Thụ đã hiểu tại sao.
Thụ bước vào giữa nhà, nói to:
- Thằng Năm đây, mẹ ơi!
Mẹ đã nghe tiếng, mẹ móm mém cười tự nhiên, ung dung, như đã biết thế nào cũng có ngày hôm nay Thụ về, và mẹ hỏi Thụ:
- Thằng Sáu đâu?
Thụ nói:
- Sáu chưa về được, mẹ à.
Thụ bây giờ cao hơn hẳn năm trước và tiêng nói ồm ồm vang nhà. Thế mà mới cách mặt có hơn hai năm. Hơn hai năm, niềm hy vọng đẹp đẽ của người thanh niên đi tìm lý tưởng vẫn nguyên vẹn và càng đinh ninh. Gian khổ, bão táp trên đường Vũ Hán và Long Châu đỏ không khiến Thụ sờn lòng mà càng làm cho Thụ tin một ngày kia cách mệnh Việt Nam sẽ tới, đất nước được giải phóng, những làng mạc nghèo khổ thế này phải được sung sướng. Thụ cũng như Hùng, như Chi, chưa ai qua lớp huấn luyện nào. Khi còn Lạng Sơn, nghe tiếng đồn bên Bản Đảy có lớp dậy cách mệnh của đồng chí Hội. Thụ náo nức được tham dự. Nhưng bây giờ Thụ không còn nghĩ ngây thơ như năm trước. Những thực tế đã trải, những điều đã nghĩ, chuyện các bậc cha anh bỏ nước đi làm cách mệnh, những mưu lược của mỗi người khác nhau đã cho mỗi người một hướng đi tới.
Riêng với Thụ và các bạn, những ngày Hồng quân đến đưa nông dân nổi lên lập chế độ Xô Viết làm cách mệnh tự giải phóng và tổ chức xã hội của mình từ Long Châu đến tận Hạ Đống, Thụ đã thấy được con đường cách mệnh đi về đâu. Con đường cách mệnh đã rõ ràng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản và theo gương hoạt động của Hồng quân Trung Quốc thì tới được thắng lợi, tới được tất cả những ao ước rất thơ mộng nhưng thật thiết tha của những người thanh niên đứng trên cầu Kỳ Lừa, nghe tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái vọng tới: Nưóc Việt Nam sẽ độc lập và tỏ mặt với bốn bể năm châu. Phải, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đưa ta tới được mục đích cao cả ấy. Cho nên, những người trẻ tuổi càng quyết tâm. Ngọn lửa nhiệt tình tự lòng mình hun lên, bừng cháy, cao mãi và càng toả nhiều sáng kiến.
Bây giờ họ đã thạo. Nỗi lo miếng ăn không phải lúng túng và gắt gao như năm trước nữa. Thụ vào làm tu giới sở. Hùng lên Nam Ninh nhờ anh em mua sợi, mua tơ rồi về Cao Bằng, Lạng Sơn đón người sang Long Châu, dựng khung cửi dệt vải, dệt lụa. Còn Chi đã bỏ đứng máy xay xát. Chi vào hẳn Nam Ninh quan quân học hiệu, trường quân chính của quân phiệt Quảng Đông. Được nhà trường nuôi ăn và cũng vì cách mệnh ta cần biết quân sự. Bây giờ họ đã biết tính chuyện trước mắt và đường dài.
Đã nghĩ kỹ, chuyến này về Lũng Nghìu, Thụ muốn tự mình bắt tay làm một việc cụ thể của cách mệnh. Năm trước, Thụ và Chi cùng Mã Hợp đã ăn thề. Tấm lòng thiết tha vẫn một niềm, nhưng ngày ấy Thụ còn chưa hiểu rộng ra được như bây giờ và lời thề sống chết có nhau trước cái chén đập vỡ, bây giờ Thụ mới hiểu thấm thía hơn.
Hai năm nay, Thụ đã gặp và nghe chuyện nhiều người làm cách mệnh từ trong nước ra hải ngoại. Ông Tôn Thất Thuyết tan mộng phò vua thì cũng vừa hai tay buông xuôi ở Thiền Quan đất khách quê người. Ông Đặng Tử Mẫn bôn ba cả một đời đi khắp Nhật Bản, Xiêm La, Trung Quốc chỉ nghĩ cách nào đánh được cái đồn Tây, rồi vì cả tin, mà nên nỗi chết thê thảm. Ông Phan Bội Châu không đi Nga, ông do dự rồi... Và những người nhụt chí sinh ra há miệng chờ sung, nằm hút thuốc phiện trong buồng riêng quan Tàu chờ thời như Nguyễn Hải Thần. Còn những người ngã lòng, tìm đường yên thân, làm thợ may thợ mộc, lấy vợ có con, lấy nghề nuôi thân nương náu quê người. Đồng chí ngày trước có đi qua vẫn mời vào nghỉ chân, nhưng khi nghe kể lể hoàn cảnh bây giờ trói buộc thì đồng chí cũng không nỡ nhắc chuyện cũ...
Tất cả chỉ càng khẳng định cho Thụ bước vào con đường cách mệnh của quần chúng và càng nghĩ càng biết yêu quý người anh em kết nghĩa của mình. Và Thụ đã gọi Mã Hợp lên Long Châu. Để Thụ nói rằng: Chúng ta sẽ thực hiện lời thề năm trước, con đường cách mệnh chúng ta sẽ cùng đi. Quần chúng thì to rộng cả nước, hôm nay hãy còn đau khổ lặng im, nhưng khi đã biết vùng lên rồi... Những ngày Long Châu sôi sục hôm qua đấy. Những anh em ở xưởng Nam Hưng đều chỉ biết lo chạy máy lên Nam Ninh mà chưa thấy được sức mạnh của quần chúng trước khi họ đứng dậy.
Thụ về Lũng Nghìu.
Ba năm trước, qua biên giới, chưa nghĩ ra như bây giờ, nhưng trong lòng đã cảm thấy mơ màng cách mệnh cũng là một cái gì giống như những người nghèo đương ở cái xóm người Nùng khổ cực này. Vì thế, đã cùng Mã Hợp kết nghĩa.
Tối hôm ấy, Thụ ngồi sưởi lửa với Mã Hợp và Khén Chang, Khì Chang. Nực cười, ba năm trước, mình náo nức đi tìm “lớp huấn luyện”. Cái lớp huấn luyện rất ao ước, mình không gặp và chắc cũng không bao giờ có như mình tưởng tượng. Nhưng cái lớp huấn luyện rộng lớn và dữ dội của đời sống ba năm nay đã dạy mình biết cách hôm nay mở lớp huấn luyện ba quần chúng cách mệnh đầu tiên cho cách mệnh Việt Nam của mình.
Thụ xúc động nói:
- Chúng ta là cách mệnh cộng sản, các đồng chí ạ.
Khì Chang nói:
- Tôi muốn rủ Nông Chảo Pin vào cách mệnh cộng sản có được không?
Thụ đáp:
- Người tốt thì được.
- Thế nào là người tốt?
- Người tốt không bao giờ đi bán cách mệnh cho quan Tàu, quan Tây lấy tiền, lấy tạ muối. Người tốt là người nghèo, biết giữ bí mật việc cách mệnh không nói ai biết. Người tốt là người biết làm việc cho cách mệnh, sống chết vì cách mệnh.
- Thế thì Nông Chảo Pin được.
Mã Hợp nói:
- Mỗi tổ cách mệnh chỉ được có ba người để giữ cho bí mật. Bây giờ thêm Chảo Pin thì một mình Khì Chang đi lập tổ với Chảo Pin rồi đứng đầu bên tổ ấy.
Khì Chang nói:
- Chảo Pin cùng hay chăn trâu xuống Nam Quan, cho nó công tác mò thám thằng lính ở Nam Quan.
Thụ nói:
- Phụ nữ mà đi giao thông cho cách mệnh thì khéo lắm, quân địch không biết được, ta phải chú ý tổ cách mệnh có phụ nữ.
Rồi Thụ xoè hai bàn tay, nói:
- Các đồng chí à, khắp nơi, ở đâu cách mệnh ta cũng có tổ chức ba người, làng nào cũng có, tổ nào cũng lập ra việc trinh sát, bảo vệ, giao thông, huyện nào cũng có, khắp tỉnh Lạng Sơn có, khắp tỉnh Cao Bằng, cả nước có, rồi cả nước đứng lên đánh thằng Tây, thế là cách mệnh ta thắng.
Hôm sau, lúc nhà vắng, mẹ hỏi Thụ:
- Mẹ già thế này mẹ có vào cách mệnh cộng sản được không?
Thụ nói:
- Được, mẹ ạ. Cả nhà ta đã được hơn một tổ. Nhà nào cũng thế thì cả nước thành tổ cách mệnh đấy mẹ ạ.
Mẹ nghĩ đuổi theo câu Thụ nói. Cách mệnh của mình, có cách mệnh thì cái gì cũng của mình làm nên. Khác bây giờ đời mình cũng không phải của mình, bởi vậy làm nên cái gì cũng bị mất, đến quê mình cũng không được ở.
*
* *
Vừa bảnh mắt đã nghe lao xao trước cửa nhà Mã Hợp. Cái xóm thường lặng lẽ, bỗng đầy tiếng trẻ con cười ngặt nghẽo. Một lũ trẻ xúm xít quanh một đứa khác đương ngồi chầu hẫu trên một mẩu gỗ cao. Thụ đứng xoay quanh, nghiêng ngả, ngắm nghía. Tay cầm con dao, vênh cong hai ngón út, điệu khi cạo đầu. Tiếng dao đưa sồn sột. Mỗi lần rơi xuống một nạm tóc bết dầy kệp lộ mảng đầu trọc hếu, lũ trẻ lại cười om. Hai đứa khác, đầu đã sạch trũi, cứ đứng giũ tóc con rồi cười, xoa lẫn đầu nhau một lúc.
Thụ mới về được một hôm mà đã quen khắp mặt trẻ con và ngoài cửa cứ ríu rít từ sáng sớm như thế.
Đột nhiên, ở đâu về, Khén Chang bước vào, ghé tai Thụ:
- Sen cháng (1) sắp đến hỏi giấy...
Thụ nói:
- Đã có cái bịt mắt nó rồi, không lo.
Mã Hợp bàn:
- Bảo là anh em ở Long Châu về bắt tắc kè ngâm thuốc mà.
Thụ vẫn thản nhiên, còn cạo rốn cho xong nốt cái đầu một em bé nữa rồi mới xếp dao và hòn đá mài bọc cẩn thận vào khăn tay, xách lên như chiếc khăn gói cơm nắm.
- Ừ, cứ bảo là anh em Long Châu về bắt tắc kè.
Nói đến tắc kè bao giờ Mã Hợp cũng hào hứng. Thấy Thụ đã bằng lòng nói như thế, Mã Hợp thích chí nói, quên cả xung quanh:
- Bây giờ đương mùa tắc kè bò trong hang đá ra gọi nhau đi chơi rồi, anh Năm à. Anh Năm nghe tiếng tắc kè gọi nhau kìa. Con non chỉ có sức tắc lưỡi năm tiếng là cùng. Con to hai lạng trở lên thì kêu được bảy tám, chín tiếng... Nghe tiếng tắc kè cũng đoán được nó đương đứng trong hang hay ngoài hang. Tắc kè kêu nhiều, thì trời sắp mưa... Chốc nữa đi bắt tắc kè thật nhé. Anh biết đấy. Thò cái que, có khi thò ngón tay vào hang cho tắc kè cắn mà lôi ra. Cứ nhanh là được!
Mã Hợp đương nói, thôn trưởng tới. Thôn trưởng này coi mấy xóm dân. Thôn trưởng không ở Lũng Nghìu, chắc hôm qua nhân việc vào gọi phu nên biết có người lạ mà đến tra xét. Thôn trưởng xách cái gậy gỗ, làm vẻ oai. Nhưng cũng không thấy oai. Quan trong xóm, chẳng có một mống lính hầu, lại mặc cái áo chàm vá một miếng bằng cái quạt giữa lưng, không khác người dân mấy. Có lẽ thôn trưởng cũng cảm được thế. Khi trông thấy Thụ mặc áo dạ, tóc cắt gọn kiểu người thị trấn, mặt thôn trưởng không còn nghênh nghênh như lúc mới bước vào.
Thôn trưỏng hỏi:
- Ở đâu về trộm đây?
Thụ lách tay lên túi áo lấy giấy. Thôn trưởng cầm tờ giấy xoay lên xuống, hó háy mắt đọc mãi chưa vỡ hết chữ. Thụ nói như đọc hộ:
- Lưu Minh Hạ, công nhân xưởng cơ giới, người chính phủ Long Châu.
- À, đọc thấy thế rồi, mình cũng đọc thấy thế... Lưu Minh... không, đừng oán nhé việc của tôi cứ thấy người lạ thì hỏi, không ghét ông đâu.
- Tôi không có tờ giấy thế này thì ông có ghét tôi không?
Thôn trưởng cười hề hề. Thụ lại nói:
- Chính phủ Long Châu có cho ông đồng nào mà ông đi tra xét giấy người ta. Đừng làm ác nữa nhé. Ác quá, bao giờ Hồng quân trở về, lại vào Long Châu thì ông theo ai?
- Ông là người Chính phủ mà ông doạ tôi thế a?
- Tôi không doạ, tôi bảo thật, đừng mất công đi hỏi giấy, đừng đi báo hương trưởng, báo quan nữa. Ai đến ai đi, mặc người ta. Tôi ở thị trấn, được nghe nhiều tin tức lắm rồi. Bây giờ Hồng quân như năm trước chiếm Long Châu thì nhiều nơi nổi lên cũng như Long Châu rồi. Nhỡ một cái, mất đầu dễ như bỡn. Ở Bó Cục này đấy, Hồng quân đã nhổ tiệt giống địa chủ, ông biết rồi.
Mã Hợp vào trong hóc cột lấy ra hai cái dây thép dài. Thôn trưởng không biết nói thế nào nữa, quay sang, lẩn thẩn hỏi Mã Hợp:
- Làm gì đấy?
Mã Hợp cười, trả lời để đuổi thôn trưởng:
- Ngưòi anh em này ở Long Châu về muốn đi lấy tắc kè ngâm rượu thuốc. Ta lên núi bắt tắc kè bây giờ đây.
Ngồi ngẩn thêm một tí rồi thôn trưởng lẳng lặng đứng dậy. Bỏ quên cái gậy gỗ.
Thụ và Mã Hợp trèo lên dãy núi ngay trước nhà. Bấy giờ đã bắt đầu mùa tắc kè rời bỏ những khe đá sâu thẳm, bò ra tìm đôi đi kiếm ăn. Con đực gọi con cái cách rừng, khắc khoải thâu ngày thâu đêm.
Nhưng trèo ba quả núi vẫn chưa được con nào. Có lẽ những con tắc kè ở quanh nhà đã bị bắt cả, còn sót con nào đều sợ Mã Hợp mà chạy xa cả. Phải leo một đỉnh núi nữa mới móc được có chú tắc kè bằng hai ngón tay. Mã Hợp nói:
- Hôm nay mát trời, tắc kè không ra.
Thụ gọi:
- Mã Hợp này.
Mã Hợp quay lại, hỏi:
- Muốn về à?
Thụ đáp:
- Ta trèo một lát nữa, tìm phía nhìn về Đồng Đăng xem.
Hai người chuyển sang mỏm núi khác.
Thụ nói:
- Đường cách mệnh cũng khó nhọc như leo núi thế này, nhưng hết khó sẽ đến chỗ nhìn thấy Đồng Đăng, chỗ ta muốn xem, Mã Hợp nhỉ. Người Nùng Cháo, Nùng Phàn Sình, Nùng Inh, Nùng Ang... người Nùng ta đã bao đời lang thang xuống phía nam, đến cùng người Tày làm ăn trong một cánh đồng, một cái nương, một con suối. Nhưng nào có tìm ra chỗ ở đâu được. Lại đói, lại giặc, lại đi, chẳng đi chỗ nào đến chỗ thoát cái khó nhọc. Mã Hợp có thấy người nghèo bỏ đi chỗ nào cho được yên?
Mã Hợp đáp thật thà:
- Phải bỏ bên Ma Mèo sang đây mới yên đấy.
- Không yên đâu.
- Thì đi cách mệnh.
Thụ nói:
- Mã Hợp nói phải lắm. Có đi cách mệnh, mai sau mới yên vui được.
Những dây phong lan hoa vàng thõng xuống treo mùi thơm lửng lơ trước cửa hang. Chấm cứt tắc kè đã khô trắng bệch như ai quệt vệt vôi vào chỏm đá. Mã Hợp lúi húi, lại móc được một con tắc kè. Ngón tay trỏ của Mã Hợp bị tắc kè cắn đã thành chai dày cộp. Ngón tay thò vào hang, từ từ rút ra, chú tắc kè còn đương cắn, chưa kịp nhả, đã bị ghì cổ, cong cả bốn chân lên.
Thụ trông ra xa, hỏi:
- Phía nào thấy Đồng Đăng?
Mã Hợp xâu chân con tắc kè vào sợi dây thép rồi ngẩng lên, trỏ tay:
- Phía này.
Hai người men sang vách núi trước mặt, đứng tựa vào tảng đá nhìn xuống phía nam. Đằng ấy, trời xanh trong veo, hé một mảng nắng trên những cánh rừng hồi Văn Uyên đằng chân trời, tưởng như đứng tận đây cũng thoáng ngửi mùi thơm cây hồi chín.
Mã Hợp trỏ tay:
- Anh có trông thấy đường cái quan Đồng Đăng đi lên Nà Sầm kia không? Cả đường xe lửa bên cạnh nữa. Như cái thang ngoằn ngoèo trắng đấy. Chỗ ngắt quãng bên này là đường hầm tàu hoả cầu Tà Lài phu dưới xuôi lên phá núi làm đường hầm chỗ ấy chết nhiều lắm.
- Có phải Ma Mèo xế dưới.
- Cốc Nam thì chỗ này. Tết năm kia, hôm cuối năm kia chúng mình về Phạc Lạn, phải cúng thằng xã đoàn Cốc Nam hai chai rượu chỗ ấy...
Thụ lặng im, không nói. Nhưng trong lòng bồi hồi. Cánh rừng hồi Văn Uyên vẫn hoe nắng đằng ấy tưởng in như ba năm trước. Nhưng những bâng khuâng dần nén đi. Ai bây giờ thế nào. Chuyện đã qua rồi. Thụ bỗng nói to hẳn, như reo:
- Ừ nhỉ, tớ nhìn rõ cả cái bót trước cửa đồn thằng quan hai trên đồi Đồng Đăng trông ra Cốc Nam kìa.
- Trông suốt lên tận Khơ Đa được đấy. Nó cốt làm đồn trên đồi cao để canh đường mà.
Thụ nói:
- Nhưng không bao giờ nó canh nổi cách mệnh đâu. Đường cái ở trong bụng cách mệnh, thằng Tây không thể nhìn thấy mà đường cái kia cũng không phải của thằng Tây. Chúng ta sẽ làm được như thế.
Thụ ngắm kỹ ngọn núi tròn lù lù vờn bóng xuống che kín một quãng đường số 4, chỗ xóm Khơ Đa lên.
Thụ nhìn một lát, rồi hỏi Mã Hợp:
- Núi đá kia có hang không?
- Hang Áng Cúm đấy.
- Mã Hợp lên hang Áng Cúm bắt tắc kè bao giờ chưa?
- Nghe nói ngày xưa các cụ có chạy loạn lên thôi, nói hang to lắm, cả làng vào được, bắc cối giã gạo đấy, lại có suối trong hang, tha hồ ở hàng tháng cũng được.
- Hay!
- Hay gì kia?
Thụ bảo Mã Hợp:
- Mai ta lên hang Áng Cúm.
Hôm sau, Thụ và Mã Hợp đi sớm.
Những cái hang trong các ngọn núi đá rỗng ở Lạng Sơn có một cuộc sống nghìn năm, đã nhà khảo cổ nào hiểu hết chưa, không biết, nhưng người ta chỉ biết những toà nhà của con người thời tiền sử, đến bây giờ vẫn là nơi cho ngừời ta chạy cướp, nơi giấu của, nơi âm thầm và trung thực giữ những của cải còn lại, che chở cho lòng mong muốn và chí khí, tinh thần không chịu khuất phục của con người sống vất vả chống thằng Tây, thằng kẻ cướp và các quan quân trên biên giới.
Người bắt tắc kè hay trèo lên hòn đá tảng cao để tìm ra hang mới. Lên chỗ thật hóc hiểm, tưởng chưa ai vào bao giờ, nhưng đến khi đốt đuốc dọc các khe, thấy cái cối đá, cái chày gỗ đã mủn và đá xếp bậc thành giường cẩn thận. Có khi còn xương người -người lớn, trẻ con, xương dài ngắn chồng đống. Trông vẫn nguyên, nhưng động đến thì nát rơi ra như bụi. Đấy là hang mà người cả làng chạy vào rồi bị cướp lấp cửa. Đấy là ngày xưa, quan quân đánh nhau, đám thua chạy vào hang, bị chẹn cửa. Hay đấy là những thù làng truyền kiếp, làng được khuân đá lấp cửa hang cho làng thua chết hết. Và những vách đá ẩm ướt kia đã chứng kiến đời này qua đời khác bao nhiêu mưu chước dựng cờ khởi binh, nhưng rồi việc lớn không thành. Người tráng sĩ ở mãi trong hang, chết lặng lẽ.
Trông ngược lên ngọn núi lớn, chỉ thấy cây si, cây duối cằn cỗi mọc từ trong đá, cũng xám màu đá, giữa lưng đá toác một cái miệng lớn, chếch thoai thoải xuống nhưng đứng dưới không trông thấy.
Ở cửa hang nhìn ra người dưới núi trèo lên, nom rõ người đi lom khom từ lúc mới bắt đầu vào chân núi.
Núi đùn lớp lớp như tường thành giăng ngang trời.
Thụ hào hứng nói:
- Mã Hợp à, đứng đây ta mới hiểu chí lớn của cha ông mình. Lịch sử Việt Nam ta từ khi dựng nước, đời nào cũng coi Lạng Sơn vừa là nơi thủ hiểm lại là cửa ngõ đi ra với thiên hạ... Quỷ môn quan, đi không bao giờ về... đất Chi Lăng trùng điệp kia đã thành tên trong lịch sử từ khi nước ta có sử. Chỉ đến nhà Nguyễn hèn hạ mói để mất nước. Nhưng đất Lạng Sơn chúng ta, Mã Hợp biết không, thằng Tây lên chiếm Lạng Sơn cũng không dám qua Chi Lăng, nó phải luồn phía Đình Lập lên. Nó sợ mà. Quỷ môn quan, đi không bao giờ về... Đất Chi Lăng ghê thật, Mã Hợp ạ. Chúng mình phải lấy lại được đất Chi Lăng lịch sử, chúng mình là người mang tiếng thơm của cha ông...
Đường ô-tô Nà Sầm như cái máng nước sáng nắng loáng qua dưới chân. Tưởng như đứng trên này, chỉ một phát súng bắn xuống có thể trúng đỉnh đầu người đi.
Mã Hợp bảo Thụ:
- Đứng đây trông thấy từng mái nhà xóm Khơ Đa, ở bên ấy nhà ai mở cửa dóng cửa nặng tay trên này cũng nghe tiếng, thế mà bảo là hai nước thì buồn cười!
Rồi Mã Hợp hỏi Thụ:
- Có phải cách mệnh cộng sản thì ta không chia ra các nước nữa, phải không anh Năm?
*
* *
Các vùng núi Lạng Sơn đều có nhiều hang. Mỗi quả núi đá như cái chuông úp rỗng lòng. Các làng ven núi đều biết với nhau những hang kín, khi có loạn, có cướp, thường cả xóm, cả làng chạy vào hang to, có suối, có lối ra lối vào và ngách thượng thông lên tầng khác.
Chẳng bao lâu rừng hồi chín đã lại sẫm xanh và thơm cả mùa thu Lạng Sơn rồi. Những cơn heo may sớm từ phương bắc xuống tràn vào vùng thảo nguyên lòng chảo Lộc Bình, làm úa vàng từng trái đồi trơ trọi.
Mã Hợp đến bảo Khì Chang:
- Hôm nay có công tác tiếp tế. Khì Chang xay ngô nhé. Ngày kia thì đi.
Khì Chang mang cái tay nải chàm đựng ngô xay đến nhà Mã Hợp từ sáng sớm.
Mã Hợp ghé tai:
- Lên Áng Cúm. Đừng cho ai thấy. Vào đằng cửa hang thấp. Đi ngay đi.
Khì Chang lên hang Áng Cúm.
Trèo nửa buổi tới cửa hang, mồ hôi còn đương chảy loá cả mắt, đã thấy Thụ ra tươi cười đứng đấy, giơ tay đỡ cái túi trên vai Khì Chang xuống.
Khì Chang ngơ ngác hỏi:
- Anh Năm ở hang à?
Thụ nói:
- Mình làm cách mệnh đánh thằng Tây nên phải bí mật thôi.
Khì Chang mới nhớ dạo trước đã học bí mật. Khì Chang không hỏi nữa. Bây giờ để ý, thấy Thụ mặc cái áo Nùng cũ, như người Lũng Nghìu đi lấy củi. Cách mệnh phải bí mật như thế. Trong hang, có mấy người đã ở sẵn đấy. Mỗi bước, Khì Chang lại thấy nhiều cái lạ lùng hơn. Hình như có người đến thì cái hang đỡ lạnh. Cũng có thể vì có một đống củi đương cháy đỏ ngòn giữa hang. Ánh lửa nhảy giỡn làm cho Khì Chang lúc đầu tưởng trong hang có nhiều người. Dần dần lại càng thấy thêm nhiều cái thật đặc biệt. Chỗ này, những thân cây kê rất gọn thành cái giường lát cỏ tranh. Bên nhũ đá, tiếng nước nhỏ lách tách, có cái bếp đèn cồn đặt đấy để đun nồi gì không biết. Bình đựng dầu vàng nhoáng màu đồng. Ngọn lửa bốc xanh lè. Cách đấy, một phiến đá đẽo phẳng như mặt bàn. Một chồng giấy xén đều như thấy vàng hương trên chõng hàng của người hàng xén chợ Đồng Đăng. Một người ngồi gò lưng cặm cụi đặt từng tờ xuống mặt cái hộp vuông tối om lem nhem, xoa mấy cái rồi nhấc lên, đã thấy những chữ đen líu ríu dính vào tờ giấy. Một người khác nằm phủ phục cầm bút đương nắn nót viết. Chăm chú đến nỗi tưởng không biết có người vào. Tờ giấy có chữ đen để trên mặt ván gỗ, sát ánh lửa.
Cái cảm tưởng của Khì Chang là thấy cách mệnh thật đẹp và gọn ghẽ. Ở trong hang khúc khuỷu, tối tăm thế, có người cách mệnh, đã ra một vẻ công việc nền nếp, đâu vào đấy, lạ lùng.
Từ hôm ấy, cứ vài hôm một lần, Khì Chang được phân công đem ngô lên Áng Cúm. Dần dần, trời trở lạnh. Mọi công việc trong hang quây quanh vào đống lửa to. Vẫn thế, có người viết, có người in tờ giấy. Có khi Khì Chang thấy vắng Thụ. Có khi thêm người lạ khác. Nghe tiếng nói, đoán người Hạ Đống, người Kinh hay người Cao Bằng. Họ đi lối nào lên hang, chưa lần nào gặp. Chỉ biết bao giờ cũng thấy trong hang sẵn người. Chắc vì Khì Chang chưa biết hết các lối lên. Đường tắt từ các làng xung quanh Áng Cúm, còn Bó Sa, Ải Khẩu và Khơ Đa bên Lạng Sơn sang, nhiều phía lên được, nhưng xóm nào biết xóm ấy, không ai rõ hết. Thế mà những người cách mệnh đã thông tỏ.
Một hôm, Thụ quảy hai chiếc bồ trúc, chặp tối về đến Lũng Nghìu. Vào đến trong nhà mà cũng không ai biết. Không phải vì trời tối, mà cả nhà tưởng lão vá chảo về muộn, ghé vào Lũng Nghìu ngủ nhờ. Đến khi Thu giơ tay, lột cái khăn quấn to như cái rế vòng trên đầu vắt xuống vai, rnọi người mới reo lên: Anh Năm! Anh Năm!
Thụ bảo Mã Hợp:
- Có công tác mới đây. Chú cầm ba đồng bạc làm vốn, với quang gánh và đôi bồ này. Từ nay tới cuối năm, Cốc Nam, Khơ Đa, Tà Lài, mỗi xóm ta phải lập nên một tổ cách mệnh, công việc bắt đầu mở mang rồi.
Thụ bàn với Mã Hợp cách thức lập tổ.
Rồi Mã Hợp xuống trấn Lũng Vài hỏi mua miến và hai hũ rượu ngon. Thụ cẩn thận cạo cho Mã Hợp cái đầu trọc mới, trắng phốp. Người già trong xóm vui vẻ nói: “Anh Năm bây giờ cấp vốn cho thằng Mã Hợp đi buôn, lại làm cho cái đầu mới thế kia thì phát tài rồi”. Mã Hợp muốn nói: “Mình đi buôn cho cách mệnh đấy thôi”, muốn nói lắm, nhưng nhớ công tác bí mật anh Năm dặn, lại không dám nói.
Mã Hợp nhanh nhẹn quảy gánh, quần xắn móng heo quá gối, chiếc nón cói rộng vành úp kín lưng như ngưòi buôn bán đổi vai thường qua lại các làng.
Mã Hợp sang Cốc Nam trước tiên.
Mấy hôm sau về, Mã Hợp bảo Thụ:
- Được cả rồi. Nhưng cái gánh hàng này khó đi lắm. Đến khi không ai mua nữa cũng hết hàng rồi thế mà chưa làm tổ cách mệnh xong cứ ở trơ đấy thì xã đoàn nghi ngay. Tôi phải nghĩ ra cách khác đây. Bây giơ được làm người Nùng có nghề vá chảo thì tha hồ đi, đi đâu ở đâu cũng được mà không phải bỏ vốn cho bán chịu bán tiền ngay lôi thôi, anh Năm à.
- Ừ nhỉ. Thế mà mình không nghĩ ra.
- Bây giờ anh Năm dạy tôi vá nồi vá chảo nhé.
Cơ chừng Mã Hợp tưởng đã là người cách mệnh thì cái gì anh Năm cũng phải biết. Nhưng may, anh Năm biết vá chảo thật. Vốn tay thợ chữa súng thì việc hàn nồi vá chảo có coi mùi gì.
Thụ đi mấy hôm rồi khuân đâu về ít chì vụn, miếng tôn, miếng kẽm, cái bễ con, cái búa, cái kìm mỏ dài. Hai anh em ngồi kì cạch tập vá. Cứ đem vá nồi hộ khắp xóm Lũng Nghìu. Những mảnh chảo gang đun cám lợn để gác bếp cũng lấy xuống vá. Chẳng mấy lâu, Thụ và Mã Họp đã thạo nghề. Thụ cùng Mã Hợp quảy gánh đi vá chảo trong vùng mấy hôm. Để nghe tình hình làm ăn ra sao. Và dạy Mã Hợp vá thật thạo đã. Sau đó Mã Hợp đi một mình. Quang gánh bồng bềnh len lỏi các làng. Anh người Nùng vá chảo. Người các làng nhớ anh vá chảo vai to, lưng phẳng, đi nhanh như chạy. Vá giỏi mà lấy tiền rẻ. Xóm nào cũng biết tiếng.
Cứ theo gánh đồ nghề vá chảo, tổ cách mệnh phát triển ba người một từ Cốc Nam xuống Tà Lài, lần lần rộng ra thêm.
*
* *
Cách mệnh đã phát triển như con nhện chăng lưới, mạng dần dần lan ra khắp nơi. Công tác cách mệnh mỗi lúc bước vào sâu, màng lưới càng chồng chất. Như thế là cơ sở đã có người, có việc như một hình thù cụ thể trên một dọc làng biên giói. Bây giờ là lúc vào những thử thách - những thử thách mới trong bước tiến lên của cách mệnh.
Từ bao nhiêu năm nay, thằng Tây chỉ biết chặn đường không cho cách mệnh ta qua biên giới. Bây giờ thằng Tây sẽ được biết cách mệnh ta sinh ra ngay ở các vùng biên giới, đứng ngay ở đây mà đương đầu với chúng nó. Những người hàng ngày nó thấy, nó khinh rẻ hoặc nó hành hạ đã trở thành những người cách mệnh, sẽ khiến nó phải lo lắng, phải khiếp sợ. Cảm động biết bao nhiêu, khi ta chuẩn bị, sắp sửa đội ngũ cách mệnh bước vào đấu tranh với quân thù. Công phu suy nghĩ, sức lực bấy lâu nay sắp được thử thách. Thụ cẩn thận cân nhắc đi lại rồi hồi hộp, hăng và quyết tâm bước vào cuộc thử thách của keo đầu trận đánh.
Có một cuộc họp tổ trưởng. Các tổ trưởng ở Cốc Nam, Ma Mèo, cả Lũng Nghìu. Còn bên Khơ Đa thì Mã Hợp đương sang rủ. Phải xem tinh thần anh em mình đã được như thế nào đây.
Vào cuộc họp, Thụ lấv trong tay nải chàm ra một tệp truyền đơn.
- Các đồng chí ạ, đây là những tờ giấy có tiếng nói của cách mệnh, gọi là tờ truyền đơn. Tờ truyền đơn này có sức mạnh làm cho trăm nghìn vạn người ở rất xa ta cũng biết đến cách mệnh. Thằng Tây sợ cái truyền đơn này nhất. Trong truyền đơn, cách mệnh viết rằng: Nước Việt Nam ta đông hơn hai mươi triệu người. Thế mà thằng Tây và bọn vua quan phong kiến là một số ít người mà chúng dám chiếm hết đất, lại còn bóc lột người ta đến lòi xương tuỷ, nghèo khổ suốt đời không ngóc đầu lên được, cả nước bây giò đã nhất quyết đứng lên theo cách mệnh, đánh bọn Tây và bọn phong kiến lấy lại đất nước, lấy lại sô phận mình, làm cho cách mệnh thành công. Chúng ta có nhiệm vụ đem truyền đơn này phát từng tờ ra khắp mọi nơi, cho ai cũng nhặt được, cứ xem thấy chữ truyền đơn viết như thế mà tỉnh ngộ. Công tác này quan trọng, các tổ phải bàn kỹ rồi đi đấu tranh mới thắng lợi được.
Truyền đơn được chia cho người đi Nà Sầm, xuống chợ Điềm He, người ra Đồng Đăng. Tổ của Mã Hợp, cả ba người đi Kỳ Lừa, xa nhất. Anh Năm bảo: Làm cho Tây thấy khắp Lạng Sơn có vết chân người cách mệnh rồi.
Cả anh Năm cũng đem truyền đơn đi với tổ công tác Nà Sầm.
Bây giờ chúng ta đi theo công tác của tổ Mã Hợp xuống Kỳ Lừa.
Mã Hợp và Khén Chang, Khì Chang sang Đồng Đăng lấy vé tàu đi Kỳ Lừa. Anh Năm dặn thế. Anh Năm cứ cẩn thận dặn kỹ thế chứ có gì đâu, đưa cho người ta cầm, nói cho người ta nghe hiểu mới khó, chứ đem truyền đơn đi đêm tối rồi đặt mỗi nơi một tờ, ai làm việc ấy chẳng được. Mã Hợp nghĩ thế.
Họ vào tỉnh ngay từ chập tối, như những người về chợ sớm. Khén Chang thì đi thong dong thả từng tờ quanh trại lính khố đỏ ở Tểnh Tống. Như người hóng mát!
Khì Chang vào trường học Pháp Việt phố Đông Kinh. Cửa mỗi lớp đặt mấy cái. Còn thừa mấy cái. Viết nốt đi. Không, mình đứng ở ngoài đường. Cái tờ giấy viết công phu của cách mệnh, không được vứt. Những chiếc đèn điện gió đánh lúc lắc nhấp nháy. Khì Chang cầm nốt truyền đơn đem ra, vừa đi vừa nghĩ rồi nghĩ ra mẹo đút mỗi tờ vào khe cửa từng nhà ngoài phố. Cửa nhà đốc học Tây, nhà chánh kho bạc còn đèn sáng và con chó lài sủa ông ổng. Cóc sợ! Khì Chang mò đến ném một tờ vào tận trong cửa sổ nhà lão chánh kho bạc!
Xong việc, hai người lần lượt quay lại chợ - như người các châu xa về chợ sớm thường hay suốt đêm nằm ngồi chen chúc trong các cầu chợ đợi phiên mai.
Các quán chợ Kỳ Lừa trong tỉnh, hai cánh mái dài thượt, đêm trông càng lùn tịt xuống thấp lúp xúp. Trong bóng tối nghe ơi ới bay ra những câu hát tỏ tình tiếng trai ề à, tiếng gái thanh thảnh, nhũng nhẵng, buồn bã. Quanh chợ, những hàng phở chua, đèn điện đỏ đục, loé như thắp dưới nước, đèn măng xông trắng phếch và ánh đèn hơi đất xanh xanh lung lay, mùi hôi hắc. Người tấp nập cả đêm như con thiêu thân bay quanh ánh sáng. Nếu để ý nhìn kỹ thì thấy ra vào các hiệu cao lâu, các nhà chứa thổ, gá bạc toàn khách buôn xuôi ngược và những người được bạc, người thua bạc.
Trai gái các châu về chợ không đem theo tiền chỉ có những câu than vãn, tình tứ, ôi thôi cũng dỗi bõ và đợi chờ, tiếng hát cứ đối đáp kéo lê suốt đêm lủng củng trong quán chợ tối om. Nghe giọng biêt góc này đám trai Lộc Bình, bọn Điềm He. Cầu chợ bên kia nữa đương vẳng lại tiếng Chi Lăng nằng nặng. Lại nghe người Đông Khê nói hơn hớt nhẹ, đã ra giọng Cao Bằng rồi. Có đàn tính phảy phảy chỗ ấy, thong thả, từng tiếng lững lờ. Cánh Đông Khê về chợ bao giờ cũng xách đàn theo.
Chẳng có gì mà phiên chợ nào cũng đông. Mùa đào Mẫu Sơn, các làng Dao xuống chợ. Lê vườn Thoát Lãng, mật ong rừng Bình Thành, mận vườn Tràng Định theo trai gái Tày về chợ. Những cô Nùng đất đồi trọc Lộc Bình khéo tay, đem về tấm vải chàm mới. Mấy anh trai Đông Khê chịu khó quảy ghế trúc bên Cao Bằng về tranh khách nghề trúc Cao Lộc. Mùa nào thức ấy, họ đem các thức ra chợ bán lấy cái ăn đường. Chẳng có gì thì ngày mùa cũng đeo túi đi tay không về. Tuổi trẻ bao giờ cũng ao ước vui chơi.
Hai anh thanh niên Nùng đi rải truyền đơn qua chợ, bảo nhau: “Đứa vui hay đứa buồn thì rồi cũng thấy giấy của cách mệnh gọi cả”. Nói thế rồi thích chí, hai chàng Khén Chang và Khì Chang cũng chen vào hát đối đến tận sáng. Cũng để đợi Mã Hợp nhân thể. Tiếc không còn tờ truyền đơn mà cho anh nào ở đây biết chữ đem về đọc to lên cùng nghe. Tối như bưng mắt, chẳng ai trông thấy ai, giá có mật thám ngồi lẫn cũng không thể biết ai đưa cách mệnh đến được.
Tảng sáng, đông người các nơi đến đã ồn ào cả bốn nách chợ. Sao chưa thấy Mã Hợp trở lại. Rồi sáng bạch ra hẳn.
Bỗng xôn xao đằng kia tiếng ai nói: “Có giấy hội kín! Cồ giấy hội kín!”. Rồi ầm ầm như vỡ chợ. Những người nhút nhát nhớ chuyện năm nào quân ông đội Ấn vào đánh tỉnh cũng bắn súng đánh nhau với Tây từ sáng sớm thế này. Càng rối lên. Cả bốn cầu chợ Kỳ Lừa tan tác, không nghe tiếng súng mà sao nhốn nháo thế. Rồi vỡ chợ.
Tiếng đồn khắp Lạng Sơn có cộng sản đưa giấy về lấy tỉnh như bên Long Châu rồi.
Trong khi đó, hai người bình tĩnh chạy len chân ngược sang tỉnh. Chỉ để tò mò xem lại những chỗ đêm qua rải truyền đơn. Vừa qua cửa ga, thấy đám lính bồng súng rầm rập toả ra. Trông lên đầu đường đã thấy đội cu-lít đứng dăng hàng liền khít khuỷu tay. Không dám đi nữa, không chờ Mã Hợp nữa, họ tạt vào nhà ga, đợi tàu ngược.
Lúc ấy, Mã Hợp đã bị khoá tay nằm trong nhà giam bên quan châu, cũng ngay cạnh nhà ga ấy.
Mã Hợp đem mỗi cái truyền đơn bỏ vào một cửa từng nhà khắp các phố bên tỉnh, cửa Nam, cửa Bắc, Ba Toa bỏ hết, cả tỉnh sẽ được đọc. Về đến đầu cầu thì đã khuya quá nửa đêm. Lúc ấy, bên tỉnh đã động. Nhưng chưa phải động vì truyền đơn. Mà vì đêm ấy, đằng cuối tỉnh, có cướp về đốt cháy cả xóm Đồng Trận. Trại lính khố đỏ, lính cơ, cả lính gác phủ Cao Lộc, lính gác cầu Kỳ Lừa đều phải báo động ngay từ nửa đêm.
Bọn lính gác cầu bật đèn pin soi vào mặt Mã Hợp. Mã Hợp chạy. Lính đuổi, túm được, bắt luôn về dinh quan tuần.
Quan châu xách ba-toong đến. Vừa thấy Mã Hợp, quan vụt luôn một thôi rồi mới hỏi:
- Những đứa nào với mày dám to gan về tỉnh giết người đốt nhà? Bọn mày đâu? Vờ đi một mình à? Che thế nào được mắt quan.
Nó hỏi thế thì Mã Hợp biết mình không có gì đáng nghĩ. Hai cái vai vác củi đã thành chai của Mã Hợp mà bị đánh thì chỉ thấy ê đi, cũng không sao cả. Còn công tác cách mệnh của Mã Hợp không phải việc thằng kẻ cướp, không có gì đáng nghĩ mà trả lời. Mã Hợp nói:
- Không phải tôi.
- Thế mày biết thằng nào?
- Không biết.
- Mày còn cái tội tại sao trông thấy lính lại dám chạy?
- Từ thuở mẹ tôi đẻ ra tôi, lúc nào trông thấy lính tôi cũng vẫn phải chạy thế. Tôi sợ nó bắt tôi về hầu. Tôi thấy lính ở Đồng Đăng, tôi phải chạy. Lính Tàu bên Nam Quan tôi cũng phải chạy. Chẳng tin quan lên chợ Đồng Đăng, chợ Ái Khẩu hỏi xem có phải thế không?
Quan châu lại gặng:
- Thằng này đêm qua về tỉnh giết người. Đúng mày. Tao biết rồi. Khai cả bọn ra thì tao tha.
Cái gậy quan châu dí xuống đầu. Nó hỏi thế thì nó cứ hỏi và hỏi đến sáng, hỏi đến rời quai hàm mồm nó ra cũng thế thôi. Thỉnh thoảng Mã Hợp quát trả lời nhát gừng:
- Không phải tôi.
Một trận gậy lại vút vút.
Đến sáng, quan tuần vào buồng giam. Quan tuần khác quan châu, không đánh. Quan tuần bảo:
- Ông biết rồi. Thằng này còn gan to hơn kẻ cướp. Thằng này về tỉnh ném truyền đơn cộng sản. Ông biết rồi. Bọn mày mấy thằng đi ném truyền đơn?
Mã Hợp im. Bây giờ quan tuần này mới nói đúng. Có thế chứ. Việc mình là việc cách mệnh, một tay cách mệnh rải ra một tờ giấy, mỗi tờ giấy cách mệnh cho bao nhiêu người cả nước được trông vào đấy mà thức tỉnh dậy. Nghĩ thế, Mã Hợp thấy bình tĩnh hẳn và lại cứ dửng dưng, không để ý câu doạ “ông biết rồi” và cũng không lo sợ gì. Hỏi mãi Mã Hợp mới thong thả nói:
- Tôi đi bán củi. Cả đời tôi chỉ đi bán củi. Các quan mày cứ lên chợ Đồng Đăng mà hỏi thằng Mã Hợp bán củi thì khắp chợ ai cũng biết.
- Mày ở Đồng Đăng mà về tận đây bán củi à? Láo!
- Tao về nhà thương xin thuốc.
- Đồng Đăng cũng có thằng phiếc-me (2) rồi.
- Nó đéo có thuốc!
- Mò