← Quay lại trang sách

- VI -

Có một buổi sáng cuối năm, trên sân ga Nam Ninh.

Chuyến xe lửa giờ sớm đường Quảng Châu - Nam Ninh từ từ tiến vào dưới mái ga. Trong những hành khách sang trọng ở toa hạng nhất xuống có một người cao lớn, đội mũ phớt Mốt-xăng, áo pa-đờ-suy dạ hàng Ăng-lê hạng đắt tiền. Ông khách chỉ xách chiếc va-ly nhỏ đủ đựng mấy thứ cần dùng. Một tay chống chiếc can mun chạm bạc - như cái mốt thời ấy của một ông chủ hiệu ở tô giới Thượng Hải hay một nhân viên đại lý giá trị người châu Á làm cho một công ty tư bản nước ngoài.

Ông khách sang này ở Hồng Kông vào, hẳn đương đi một chuyến ngã giá hàng Tết qua mấy tỉnh nội địa. Cũng có thể đây là một tay buôn lậu quốc tế, buôn súng, kim cương hay thuốc phiện, đã có thói quen hay đi ăn mồi vào những ngày cuối năm, thuận tiện nhiều mặt. Năm ấy cánh quân phiệt Quảng Đông lại rục rịch đánh nhau vói cánh Quảng Tây. Bao giờ bọn quân quan các tỉnh đánh lẫn nhau cũng là dịp làm giàu cho các hãng và công ty lớn nước ngoài.

Tàu cuối năm càng đông khách buôn. Lính hải quan ga xe lửa Nam Ninh làm việc, xem hộ chiếu ông khách nọ thấy đề: Vương Nhất Dân, xuất nhập khẩu ngũ cốc, Hồng Kông.

Nhà buôn Vương Nhất Dân thong thả bước ra cửa ga, lúc người ra đông, đương tíu tít nhất. Tuy nhiên, nếu có lính kín Quốc dân đảng theo dõi sẽ phát hiện thấy ông khách nọ không như lệ thường của mấy người triệu phú ở Hồng Kông vào, bao giờ cũng lấy một chiếc ô-tô con đưa người và hành lý về khách sạn Tân cảnh của người Anh ở giữa thành phố.

Ra khỏi ga, ông Vương nhìn lại một lượt rồi rảo bước thật nhanh. Được một quãng, ông gọi chiếc xe xích-lô. Chiếc xe cũ của một người phu già cứ cọt kẹt, đủng đỉnh cong lưng lên đạp xiêu vẹo như bò ra.

Khách về nhà trọ Nam Ninh lữ điếm nhỏ bé đã cũ ở ngoại ô, phía Tây thị trấn.

Đến năm ấy, xưởng cơ khí Nam Hưng ở Long Châu dọn lên đã được ba năm. Tuy vậy, mới yên chân có ngót năm nay. Bởi vì Nam Ninh cũng không tránh được loạn ở các tỉnh đánh nhau. Hai lần quân Quảng Đông tràn qua Nam Ninh. Bùi sợ phải đốc thúc khiêng máy đi giấu ngoài thành. Anh em lại nương náu người mỗi nơi. Có khi giữa lúc chạy loạn, Hùng và Thụ lên đi tìm thạch, giấy sáp và mọi thứ in truyền đơn, không tìm đâu ra anh em, không gặp ai, tiền hết, Thụ lại phải giở dao kéo, lúc nào cũng giắt sẵn trong mình, vào chợ cắt tóc kiếm tiền ăn.

Tuy chìm nổi, nhưng mỗi lần lắp máy lại thì công cuộc làm ăn có chừng phấn chấn hơn.

Bây giờ xưởng máy Nam Hưng đã cơ ngơi trong một căn nhà ba tầng ở trung Sơn lộ giữa khu phố đông nhất Nam Ninh, ngoài cửa treo ba tấm bảng.

Lập xưởng máy, nhưng nghề may vẫn kiếm ăn được, Bùi không bỏ cái máy khâu, lại mở hiệu may với hai máy Sanh-gie mới.

Lại thêm Nam Hưng thạch ấn điếm. Nguyên do, Trang ở Vân Nam sang. Trang có hoa tay, thạo như Sơn. Máy móc gì, chỉ trông qua, cũng mày mò bắt chước làm được. Trang là công nhân lái tàu công ty hoả xa Vân Nam. Từ trước, Trang theo chí hướng cách mệnh của Đặng Tử Mẫn. Năm ông Đặng kéo quân đánh sang đồn Tà Lùng, một mình Trang ở tận Vân Nam cũng hưởng ứng. Trang lái đẩy cái đầu máy xe lửa của công ty lao xuống khe núi rồi trốn đi Quảng Tây. Lưu lạc tới Nam Ninh với anh em, Trang đi xem xét khắp thành phố tìm cách làm ăn rồi về bày ra nghề in đá. Trang đi quảng cáo nhà buôn, chương trình rạp hát, bao giấy hương, mài đá, vẽ chữ, lăn in, ba người làm ngày đêm không hết việc.

Thế là một Nam Hưng mở ra ba ngành. Xưởng máy lên đây cũng không làm xay xát. Ngoại thành ở xa, không có thóc đem vào. Vả lại, Nam Ninh đã có mấy xưởng máy xay xát rồi. Nhưng thành phố trên bến dưới thuyền, không thiếu việc. Máy điện, máy nổ ca nô, chất đống để chữa. Lúc nào cùng nhộn nhịp.

Nhà ngoài là xưởng máy. Gian trong, lò khâu. Phía sau, bếp và nhà ăn. Trên gác, một phòng là chỗ in đá. Buồng trong dài ra đến sân sau là nhà ở. Hơn hai mươi người trong nhà đều ở cả đấy.

Tầng thứ ba không ở hết, tiếc rẻ, Bùi cho một lão buôn hương liệu người Trung Quốc thuê lại. Lão lái buôn cũng chỉ thuê tầng này lấy chỗ trú chân khi đến Nam Ninh. Lão nay Hồng Kông, mai Nam Dương, không mấy lúc đến ở. Vì vậy, cũng chẳng khác xưởng Nam Hưng chiếm cả ba tầng đàng hoàng.

Hùng ở Long Châu lên Nam Ninh mua tơ cho xuống ca nô về Ngô Châu. Thụ lên tải giấy và mực về. May mắn, được Trang dạy cách in đá. Tờ truyền đơn từ nay ra không phải vất vả với bản giấy thạch và bản in đất nữa. Nam Hưng phát đạt, cách mệnh ở trong nước ra hay ở Xiêm sang có chỗ đi lại. Tiếng tốt đồn đi có khi bọn Nguyễn Hải Thần ở tận Khai Viễn hay Côn Minh đương tự nhiên cũng khiêng bàn đèn đến nằm vạ. Lâu quá, muốn đuổi lại phải cấp thêm tiền, chúng mới chịu đi.

Một buổi sáng, ngoài đường đã tấp nập người qua lại. Trong nhà, ỏ gian dưới, chỗ xưởng máy, đã đến lúc ồn ào nhất như thường ngày, khi các khách hàng ở bến đem máy nổ đến chữa, tiếng thử máy chạy rầm rầm với khói ét-xăng xanh khét lẹt. Gian trong, hai cái máy khâu chạy đều đều như ngựa bỏ nước kiệu, lấp giữa một đống quần áo chất đống cao lù lù trên sàn nhà, phải vào tận nơi mới trông thấy hai người đương đạp máy và một người thùa khuyết ngồi tận giáp tường. Hiệu Nam Hưng may khéo, đã được tiếng vì những bộ nữ kiểu Thượng Hải, vừa làm thầu vừa làm khách lẻ, cứ Tết đến thì đầu tháng chạp đã thôi nhận hàng. Chỉ có chỗ in đá là êm ả nhất. Thỉnh thoảng, nghe tiếng nước rửa đá rỏ lách rách. Và chốc chốc giọng khàn khàn của anh Trang buồn tình đưa mấy câu trống quân.

Cả ba cửa hiệu, hơn hai chục ngưòi đương chăm chú, mê mải.

Bùi ngừng đạp máy, ngước lên. Nhưng không phải người hỏi may quần áo. Một người vào đưa cho “ông chủ” Bùi một cánh thiếp cài trong một phong bì nhỏ, in chữ kim nhỏ, phảng phất mùi thơm giấy và nước hoa. Trên thiếp có mấy chữ hẹn và dưới đề: Vương Nhất Dân. Nam Ninh lữ điếm. Phòng số 6.

Bùi và Tân bàn nhau. Cũng không hiểu ai. Vương Nhất Dân? Bùi nói Tân, đến đấy xem sao. Tân nói để cả Sơn đi cùng. Sơn nó thạo và thuộc Nam Ninh hơn cả. Hai người cùng đi.

Buổi trưa, hai người về.

Tân ghé vào tai Bùi:

- Người quen chúng ta.

- Ai?

- Vương “cao”(1)

- Có thật Vương “cao” không?

- Chính năm ấy tớ may bộ quần áo rét cho cậu ta mặc đi Nga mà. Thợ may mà ngắm người thì quên thế nào được, vả lại, Vương “cao” vẫn nhớ từng đứa chúng mình.

Ngay chập tối hôm ấy, Bùi đến nhà trọ Nam Ninh. Lê Hồng Phong thật. Phong cười, vỗ vai Bùi kêu lên:

- Anh này suốt đời loắt choắt thế thôi!

- Anh thì cao hẳn hơn trước. Ăn mặc diện đến ngất trời thế này thì ra đường không còn nhận ra đâu.

- Mình bây giờ là đại phú thương Vương Nhất Dân có cửa hàng xuất nhập ngũ cốc to nhất Hồng Kông kia. Có phải thợ tiện Vương “cao” ở đây nữa đâu mà anh nhớ được!

Quả như vậy, người ngồi trước mặt Bùi, cách đây ba năm, khác lắm. Chẳng phải vì anh đương mặc bộ quần áo sang trọng, mà cả nét mặt, tiếng nói, miệng cười lanh lợi, đĩnh đạc, hoạt bát, vẻ người lọc lõi khác thường. Trong ba năm xa cách, Vương “cao” đi những đất nước, xa lạ nào mà nên mẽ con người khoáng đạt như thế. Ngày ấy, Lê Hồng Phong sang học bên Nga. Có ngưòi qua Nam Ninh đồn ông Nguyễn Ái Quốc đem Phong đi. Sau lại nghe tin ở đâu về rằng ông Nguyễn bị mật thám Anh bắt ở Hồng Kông rồi mắc bệnh lao đã ốm chết trong nhà thương làm phúc rồi. Không biết thực hư thế nào. Anh em xưởng Nam Hưng thương lắm, đã làm bàn thờ vọng ông Nguyễn. Anh em nghĩ về những người cách mệnh ở trong nước ra, mỗi người mỗi cách: Ông Tôn Thất Thuyết thì cố chấp, ông Đặng Tử Mẫn một mình một tính, ông Phan Bội Châu học rộng tài cao nhưng phải cái cả tin, bọn Hải Thần thì thất vọng rồi, chỉ có ông Nguyễn là khác hơn cả. Tuy không ai được gặp, chỉ có Bùi. Nhưng cái ngày Bùi nghe ông Nguyễn dịch tiếng Nga ra tiếng quan hoả cho cố vấn Bô-rô-đin ở chợ Quảng Châu rồi lại được ông Nguyễn giảng về công tác cách mệnh mà mãi về sau Bùi mới biết đấy là ông Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên ai ở Xiêm đến, ở Thượng Hải xuống, có người ở Nhật hay ở Nga về, nói chuyện cũng chỉ thấy tin tưởng ông Nguyễn hơn cả.

Lê Hồng Phong trở về. Tự dưng, trong người Bùi lại thấy sáng láng và hăng hái hẳn lên, như cái máy nổ được đổ ét-xăng vào, tiếng máy lại giòn giã và khói bốc thật đẹp.

Phong hỏi Bùi:

- Bây giờ anh có còn biết ai bên Xiêm không?

- Tôi vẫn viết thư về bên ấy.

- Vừa rồi mình đên Phi-xít, nhưng xem ra mật thám Xiêm làm ngặt lắm, ngặt hơn nữa, không gặp được ai.

- Đã hai năm nay, thằng Tây đưa tiền cho thằng Xiêm thả ra mua được mấy người mình làm mật thám, thành thử bên ấy bây giờ là người tốt người xấu lung tung cả. Viết thư cũng phải cẩn thận. Tôi viết cho anh em Hoa kiều rồi nhờ họ chuyển tay...

- A ra làm thế.

Bùi hỏi:

- Anh Vương “cao” về đây từ bao giờ?

- Ba hôm nay rồi.

- Anh có chỗ ở chưa?

Phong cười:

- Chưa cách nào đi khỏi đây.

Bùi ngơ ngác không hiểu. Phong vẫn cười, hỏi lại:

- Anh biết tại sao không?

- Chịu.

- Kẻ cắp ngoài Hồng Kông đã nẫng mất ví, tôi mất sạch cả tiền rồi. Trông mẽ người buôn bán lớn cho nên kẻ cắp vây như kiến. Còn có thể chúng ăn cắp vì chính trị nữa. Thế nào thì cũng là mất nhẵn tiền, may lại đi lấy vé tàu rồi nên mới vào được đến đây. Ăn mặc sang thế này có thể ở nhà trọ này người ta tưởng ông đại phú thương Vương Nhất Dân đương mải bận tính toán việc hàng họ cuối năm và có thể ông không thèm ăn ở cái hàng cơm tồi này cũng nên.

- Thế mấy hôm nay anh ăn cơm ở đâu?

- Đến bữa ăn thì đi chơi, chẳng ăn ở đâu cả.

- Chết! Chết!

- Ngủ và đi chơi cũng thú vị như ăn, anh à.

Bùi đi trang trải ngay. Thế là cái nhà trọ Nam Ninh lữ điếm biết rằng ông triệu phú Vương vừa có người thư ký của cửa hiệu đại lý hãng ông ở đây đến cho ông sai bảo. Việc đó có thể khiến những người bồi bếp khách sạn và bọn tôm tép mật thám thường thường đến vờ vẫn làm ở các nhà trọ để nghe ngóng lại tưởng dễ thường đây là lần đầu nhà đại phú thương đến Nam Ninh nhầm nhà trọ, hoặc ông ta có ý thử thách gì trong công việc lừa lọc của một nhà buôn nhiều mánh khoé như thế chăng. Cũng đến tối, Phong mới rời nhà trọ đi trùng vào giờ những người ra bến ca nô chạy Quảng Châu. Anh em đón Phong ở ngã tư gần bờ sông. Từ hôm mất ví, Phong cứ chờn chợn và có cảm giác bọn chó săn bên Xiêm còn lẽo đẽo theo sang tận đây.

Theo chỉ thị và sự phân công của quốc tế, Phong rời trường đại học Hàng không, trở lại Viễn Đông.

Phong về Xiêm mấy tháng rồi sang Hồng Kông. Ở đây, Cục Đông Dương của Quốc tế đã cho thành lập bộ phận hải ngoại của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Phong được phụ trách giữa khi trong khắp nưóc, cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp từ sau Xô Viết Nghệ Tĩnh vẫn kéo dài những bắt bớ tàn sát dã man.

Nhưng trong nước và ngoài nước, Đảng không thể một phút gián đoạn tin tức và lãnh đạo. Ở Hồng Kông, Phong chủ trương đi lần xuống biên giới, rồi tìm cách về cơ sở trong nước. “Phải hiểu hết tình hình tận nơi”.

Phong đến xưởng Nam Hưng, ở luôn đấy. Quần áo tốt, giày, mũ mốt xăng và cái can mun Nhật Bản, Bùi đã nhanh nhảu thu xếp cho đi nằm hiệu cầm đồ Vạn Bảo cả. Như vậy khỏi phải giữ, có món tiêu, mà phòng khi cần đến, lại có ngay được.

Hôm sau, Phong đã khoác cái tạp dề đen xỉn, bê bết dầu, tự nhiên và quen thuộc xuống xưởng đứng máy tiện. Phong vốn tay thợ tiện giỏi.

Mỗi buổi sớm, từ 5 giờ, những tiếng máy nổ đã thi nhau kêu váng và vẫn kẻ ra người vào tấp nập. Khách chữa máy, người lấy bao hương, người may áo. Không có gì khác lạ hàng ngày ở xưởng Nam Hưng.

Nhưng từ hôm Phong đến, trên gác, trong gian buồng ngủ, Phong treo lên cái bản đồ thế giới to mà Bùi mới mua ngoài hiệu sách về. Tấm bản đồ kín góc tường làm cho lúc nào ngang lên cũng trông thấy cả thế giới đấy. Mỗi tối mà tối nào cũng vậy, đúng hai mươi phút trước khi ngủ, lúc mấy người Trung Quốc đến làm công đã về hết, Phong đứng giảng cho anh em nghe tình hình thế giới và trong nước ta. Tay Phong cầm thanh sắt dài... lướt qua châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Đại dương... Phong nói to. Mỗi tối một bài học khác nhau.

Rồi Phong kể chuyện phong trào Xô Viết Nghệ An. Anh em bấy giờ mới hiểu rõ. Phong lại dạy anh em thuộc hết tờ truyền đơn lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương về việc kỷ niệm Lê-nin năm 1931.

Hỡi thợ thuyền, dân cày, binh lính và hết thảy quần chúng lao khổ ở Đông Dương! Ngày 21 tháng Giêng là ngày kỷ niệm ngày chết của Lê-nin tức là người lãnh tụ của vô sản giai cấp và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới...

... “Chiến tranh đế quốc đã dự bị sẵn sàng rồi, nay mai bùng ra.

... “Ở xứ Đông Dương, đế quốc chủ nghĩa Pháp bí mật liên kết với bọn phong kiến Xiêm La, với bọn đế quốc Anh và đế quốc Hoà Lăng làm một cái liên minh phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng ở Viễn Đông.

Đến đoạn sau cùng thì tối nào cũng đọc đều một lượt:

... “Hỡi anh chị em! Hỡi đồng chí!

Ngày 21 tháng Giêng cũng là một ngày tranh đấu cách mạng của chúng ta. Đoàn kết lực lượng lại dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Đông Dương! Vào các đoàn thể cách mạng cho thật đông! Theo khẩu hiệu của Đảng Cộng sản Đông Dương là tranh đấu cho đến cùng!

Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến địa chủ và quan làng!

Đánh đổ bọn cải lương, lập hiến, hội đồng cải cách,, hội đồng hòa giải là bày chó săn của chánh phủ Pháp!

Đổi chiến tranh đế quốc ra làm chiến tranh cách mạng đánh đổ đế quốc.

Đánh đổ bọn phá hoại kinh tế Xô Viết! Bênh vực Liên Bang Xô Viết!

Đánh đổ khủng bố trắng!

Hết thảy ruộng đất về dân cày!

Tăng lương, ngày làm 8 giờ, xã hội bảo hiểm!

Đông Dương cách mạng muôn năm!

Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

Thế giới cách mạng muôn năm!

Quốc tế cộng sản muôn năm!”.

Mỗi lúc đọc lại tờ truyền đơn, mọi người trông lên bản đồ lại thấy mình được đi khắp thế giới và trở về nước nhà đương sôi sục trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa đợt khủng bố điên cuồng của thằng Pháp. Tấm bản đồ, tờ truyền đơn và người cách mệnh Việt Nam ở Nga về giữa xưởng Nam Hưng đương làm ăn phát đạt. Từ hôm ấy, anh em thấy được ý thức làm ăn lâu dài vì cách mệnh của đất nước, khác hẳn những tính toán ăn thua và có lúc cũng hí hum cay cú nhỏ mọn mọi khi.

Phong đương đứng máy.

Một người thanh niên áo chàm, khuy tết, như một người làng xa dưới biên giới phía nam lên. Anh ta bước vào, xô đến, nắm cánh tay Phong. Anh ta hấp tấp quên cả cái máy tiện đương xoèn xoẹt nghiến trên bàn ren trước mặt mà Phong phải cúi xuống, hai tay đương luôn luôn mở hãm. Phong khẽ đẩy tay anh kia rồi cẩn thận đóng máy xong mới quay ra, mặt còn lấm nhờn mỡ.

Phong vẫn chưa nhận được anh thanh niên lạ mặt vừa vồ lấy mình là ai. Anh ta đã nói, tiếng toang toang:

- Tôi là Hùng đây mà.

Phong không thể nhớ có gặp Hùng lần nào không. Hồi ấy, cả ba năm trước, biết bao thanh niên sốt sắng, từ trong nước ra, mà trông nết mặt hăm hở của họ cũng có thể đo được sự sôi nổi trong lòng - kể cả mình cũng dường như thế, Phong nhìn Hùng: cái cằm bạnh, mắt to đen, sâu thẳm, dáng chắc chắn, kiên quyết. Hùng đương là tất cả nhiệt tình ấy.

Vẫn như dạo nọ, cứ cách ít lâu, Hùng lại lên Nam Ninh mua tơ về Long Châu. Nhiều người Cao Bằng có tư tưởng cách mệnh, đã hùn vốn, dựng được mấy khung dệt lụa ngoài Long Châu. Họ đã hiểu cách sinh sống và cơ sở kinh tế đại khái như xưởng Nam Hưng mới có thể không còn tình trạng bơ vơ như năm Thụ và Chi ra Long Châu. Gần đây, xưởng Nam Hưng nhận làm vỏ tạc đạn cho Chính phủ Nam Ninh. Bọn nhà thầu quân khí trực tiếp với những cơ quan hậu cần của quân đội Quốc dân đảng chỉ đấu thầu làm vỏ, tải gang đến cho xưởng đúc, dập kíp rồi bào, tiện đến thành hình bộ máy quả tạc đạn rồi đem trả nhà thầu.

Thế mà lên Nam Ninh, Hùng thường vác được tạc đạn có cả thuốc về. Mỗi lần cứ xách từng bộ phận khác nhau. Dưới buộc tơ nõn là gói vỏ, gói kíp. Người ta không đấu thầu thuốc nổ. Nhưng mua thuốc nổ lậu ở ngoài thì giữa chợ Nam Ninh cũng sẵn nhan nhản người bán. Hoặc có khi về Long Châu nhờ Thụ cho người vào sở tu giới gặp bạn quen, xin đạn thôi, đem về moi thuốc ra trộn lại. Hùng đem về Cao Bằng nhồi thành tạc đạn. Tốt như nguyên. Đã ném thử xuống sông Bằng mấy lần, cá chết nổi, vớt một gánh bán chợ Nước Hai.

Anh em ở châu Hoà An đem cất kỹ những quả tạc đạn ấy vào hang đá. Mỗi lần được tạc đạn về, các tổ cách mệnh lại thì thào đồn thặng lên, vui sướng lạ thường. Có người nói: “Thằng Tây đồn Nước Hai có súng, cách mệnh chúng mình có lựu đạn. Bằng nhau rồi. Muốn đi ném ngay cho nó chết không kịp chạy về nước nữa”. Họ rộn rịch như sắp được đi đánh đồn đến nơi. Họ lại nói: “Năm trước, Đặng Tử Mẫn đem cướp về đánh Tà Lùng thì không xong, bây giờ ta đem cách mệnh đánh thằng Tây đồn Tà Lùng thì nó phải chết”. Có người hăng hái quá, thèm đánh quá, đi đâu cũng bí mật giắt quả tạc đạn trong thắt lưng.

Hai người lên gác, vào ngồi nói chuyện trong buồng vắng vẻ. Phong hỏi tình hình phong trào cách mệnh ở Cao Bằng.

Hùng vẫn cười khinh khích rồi đặt cái tải cói xách dưới tay xuống, mở ra.

- Anh xem này. Cách mệnh Cao Bằng đây.

Trong tải lăn lóc ra mấy mảnh vỏ tạc đạn nhẵn nhụi xám bóng. Phong hỏi:

- Đem những của này đi đâu!

- Về Cao Bằng.

- Làm gì?

Hùng cười to:

- Anh lại hỏi làm gì!

Phong trầm ngâm rồi nói:

- Mình hỏi thật đấy.

Hùng vẫn cười:

- Đem cho Tây ăn chứ làm gì!

- Ừ, thế cho Tây ăn bằng cách nào, hôm nào thì cho nó ăn?

- Hãy cất để dành đấy, cho thật nhiều và đợi thời thế, anh Vương “cao” ạ.

Phong lặng im một lát. Phút lặng im tỏ một ý nghĩ khác mà Hùng cảm thấy. Bởi vì nét mặt Phong đương vui, bỗng nghiêm lại rồi lạnh hơn. Vì vậy, Hùng nín cười, nhìn Phong. Lát sau, Phong nói:

- Cách mệnh cần phải có võ trang thì mới đánh đổ được kẻ thù. Nhưng bây giờ cách mệnh Việt Nam có rất nhiều việc phải làm trước thì rồi võ trang đánh đế quốc và phong kiến mới đổ được. Bài học Xô Viết Nghệ An có nhiều kinh nghiệm cho phong trào cả nước như thế rồi. Anh thấy không, ta đã biết đế quốc và phong kiến cứ khủng bố trắng, bao chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh, nhưng cả nước vẫn sôi sục cách mệnh, cả nước càng đau khổ thì càng có tinh thần cách mệnh, chúng ta hiện nay cần làm cho khắp nước biết Xô Viết Nghệ An, theo gương Xô Viết Nghệ An, chúng ta rất cần phát triển tổ chức thật mạnh, cho đến khi đâu đâu cũng có phong trào, có tổ chức như Nghệ An, cũng như Nghệ An. Cả nước như Nghệ An, chín muồi rồi, bấy giờ toàn xứ đứng lên thực hành chính quyền Xô Viết, võ trang đánh đổ đế quốc và phong kiến, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, đưa cách mệnh Đông Dương đến thắng lợi. Vậy Cao Bằng cũng làm thế, tuyên truyền và tổ chức thật sâu thật rộng rồi bước vào lãnh đạo tranh đấu, thử thách trong tranh đấu. Việc ấy quan trọng trước nhất.

Hùng mải mê nghe.

Rồi Phong tỉ mỉ hỏi phong trào Cao Bằng. Châu nào mạnh, nơi mạnh thì có bao nhiêu người vào tổ cách mệnh, châu nào chưa biết cách mệnh, công nhân mỏ Tĩnh Túc có bao nhiêu người, thằng Tây mới lên Trà Lĩnh làm gì, tìm mỏ gì, Tây đội, và quan châu, quan bang làm ác thế nào, người châu nào khổ nhất, một năm người Cao Bằng đóng những thuế gì, ở Cao Bằng có nghe tin Xô viết Nghệ An không.

Hùng kể Phong nghe mấy năm nay Hùng theo tiếng gọi của non sông, nòi giống, quyết đứng lên làm cách mệnh giết giặc Tây. Nghe có nhiều người cách mệnh các nơi đi tìm phương cứu nước thường qua lại biên giới, Hùng cũng sang Long Châu, các bạn cho đọc báo Thanh niên. Hùng thấy báo nói rõ ràng những điều như tâm sự mình, Hùng mượn về để anh em đọc cùng rồi tổ chức ra các tổ Cách mệnh đồng chí hội ở nhiều châu. Các bạn Hùng đều vào tổ cách mệnh.

Hôm qua, Hùng đến nghe Bùi thì thào anh Phong mới ở Nga về. Hùng chưa được gặp Phong bao giờ. Nhưng những ai, người thế nào qua đây, Hùng đều biết và trong tâm trạng Hùng, vẫn như chờ đợi một điều gì to lớn sẽ đến. Hùng đã nghe nhiều người nói anh Phong, ba năm trước. Lúc ấy, Hùng nghĩ: “Ôi thôi, cách mệnh gốc đây rồi. Gặp gốc cách mệnh rồi”. Và vừa thấy Phong, Hùng đã níu cánh tay, có cảm tưởng gặp rồi, thân rồi.

Nghe Hùng kể, Phong cảm động, bắt tay Hùng rồi nắm bàn tay Hùng trong bàn tay mình và nói:

- Việc bấy lâu Hùng làm rất giỏi. Hùng ạ, Hùng và các đồng chí đã làm như người đảng viên cộng sản từ lâu rồi. Đúng như các đồng chí mong ước, cơ hội đến rồi, cách mệnh nước ta bây giờ có Đảng Cộng sản Đông Dương là kẻ lãnh đạo cách mệnh của công nông mạnh mẽ nhất...

Lúc về, Phong còn dặn:

- Làm tuyên truyền thứ nhất. Được người tốt, đưa vào tổ chức. Nhớ lúc nào cũng giữ bí mật hoàn toàn.

Hùng ra bến xuôi Long Châu luôn hôm ấy. Chưa mua được bó tơ nào, nhưng tưởng nếu không được về kể lại với các đồng chí ngay những điều Phong nói thì không chịu được.

Nhưng đến trưa lại thấy Hùng tò tò quay lại.

Bùi hỏi:

- Quên gì thế?

Hùng nói:

- Không.

Nhưng chính Hùng đã để nhỡ chuyến ca-nô mà trở lại. Chỉ vì một việc quên nói. Hùng kéo anh Phong vào bếp, nói:

- Tôi có hai thằng bạn đã ra đây cũng đương làm cách mệnh như tôi.

Phong cười to:

- Hai thằng đi lính lên Vũ Hán suýt chết phải không?

Hùng sung sướng:

- Thế ra anh biết rồi!

Tiếng đập cửa tầng dưới vang thình thình, rung lên cả các chấn song tầng trên. Lúc ấy đã quá nửa đêm. Những cái máy khâu hay làm khuya cũng nghỉ từ lâu. Tiếng lay gióng cửa rầm rầm tiếp theo. Các nhà to trong phố cũng đều rào một lớp gióng lim chắn ngoài cửa. Đề phòng cướp không thể đẩy thẳng vào tấm cánh cửa phản, ở trong còn kịp tổ chức chống đỡ.

Tiếng búa, lưỡi lê, đại đao nậy đóng bập bập, tới tấp.

Trong khuya, nhà hai bên phố càng tối đen, người ta bàng hoàng chết khiếp những cuộc lùng bắt ban đêm, dù là kẻ cướp hay lính tráng thì cũng đều phải sợ thế cả.

Bùi mắt nhắm mắt mở chạy xuống.

Hai cánh cửa lim đã đổ kềnh ra trong những ánh đèn pin xiên vào. Bọn cảnh sát Quốc dân đảng tràn đầy nhà, trói Bùi lại rồi tuôn thẳng lên ba tầng gác. Gặp ai trói nấy, bắt hết - cả ông lái buôn hương liệu ở tầng ba mới từ đâu về lúc chiều cũng bị điệu đi nốt.

Có đến hơn một tháng.

Hai mươi người, cả xưởng Nam Hưng, bị giữ trong trại giam cảnh sát thành phố. Ngồi trong xà lim, Bùi lo nhất. Nhà cửa tanh bành ở giữa thành phố trộm cắp như rươi thế thì nó vào khuân hết rồi. Phen này lại khánh kiệt. Nhưng không làm thế nào được. Không biết bị bắt vì tội gì, cũng không hỏi được ai. Ngày ngày trông ra chỉ thấy độc một người cảnh sát vác đại đao như ông phỗng đứng canh cửa. Người tù đi đái, có tiền cho, ông phỗng biết chìa tay lấy, người tù đi đái không cho tiền thì ông phỗng đá một cái. Ông phỗng nào canh cửa cũng giống nhau thế.

Một hôm, cảnh sát xuống hỏi:

- Đứa nào đứng chủ hiệu Nam Hưng?

Bùi theo lên phòng làm việc của quan cảnh sát. Trông thấy cảnh sát trưởng Nam Ninh là Châu Bình Nam, Bùi làm quen:

- Quan lớn với ông Đặng trước...

Châu vểnh ria lên, dửng dưng:

- Mày quen thằng buôn hương liệu à?

- Tôi chỉ biết nó ở trên gác ba.

- Tao bắn nó rồi.

Bùi im, tái mặt. cảnh sát trưởng nói để cắt nghĩa:

- Nó buôn thuốc phiện, buôn súng, buôn người, nhiều lắm!

- Chúng tôi thì có nghề lương thiện, đóng thuế đầy đủ cho Chính phủ, xưa nay không làm gì trái phép.

- Tao sẽ tạm tha chúng mày.

Lại nói:

- Phải nộp năm trăm đồng tiền chuộc.

Năm trăm đồng, món tiền to. Vốn tiền mật lúc phát đạt nhất của xưởng Nam Ninh cũng chưa bao giờ được bằng số tiền ấy. Nhưng biết làm thế nào! Nó không nói thế thì ai cũng biết lệ xưa nay hễ bị bắt thì đến khi được ra đều phải mất tiền chuộc người như thế rồi. Dù sao cũng thở phào, vì biết là nó bắt nhầm. Nó cốt bắt lão buôn hương liệu ở tầng ba. Nhưng mà cãi cũng thế thôi. Nhỡ nó ngứa mắt, lôi ra bãi bắn chết, thì cũng vẫn thế thôi.

Bùi nói:

- Bây giờ chúng tôi đương phải ngồi cả ở đây, không ai về chạy tiền nộp quan được.

Bùi được tha về trước.

Bùi đứng trông vào trong nhà, ngơ ngẩn, chưa hiểu ra thế nào. Có phải thật thế này không, giữa đường Trung Sơn đương tấp nập? Suốt ba tầng gác tan hoang như cái cầu lúc tan chợ. Thạp gạo, cái chảo, cái áo, đến mảnh ván làm giường nằm cũng không còn cái gì nữa. Dưới nhà, chỗ thường khi có bể bộn đám máy tiện, máy nổ đen nhoáng chỉ trơ lại đám cọc sắt. Cái bàn cặp kìm nát lụ khụ nằm chỏng bổn cái vó khấp khểnh. Cũng biết trước là sẽ mất, nhưng không ngờ ở giữa phường phố đô hội thế này mà mất trộm nhẵn nhụi đến như thế phải quân cướp ngày dắt nhau đến vơ vét nhiều lần thì mới sạch như lau thế được.

Mấy nhà bên cạnh đến.

Bùi thở dài, ngán ngẩm:

- Chúng tôi mất trộm hết sạch rồi, các ông các bà ạ.

Một người nói:

- Ông Bùi à, không phải trộm đâu.

Bùi ngạc nhiên.

- Cảnh sát cho xe ngựa đến dọn đấy. Cảnh sát dọn đến hôm sau cùng thì thấy có cả người ngoài thành vào, cảnh sát với các ông trong làng có xe vận tải la kéo, họ mặc cả với nhau ngay tại đây rồi cảnh sát nhận tiền bán luôn cả cửa sổ, cánh cửa, ván sàn gỗ và ngói mái hiên... người rỡ người chở ầm ầm mấy ngày mới hết.

Bấy giờ Bùi nhìn lại cái mái hiên đã bị rỡ hết ngói. Thảo nào, từ lúc về cứ ngờ ngợ không biết tại sao cái nhà sáng hơn mọi khi.

Tuy nhiên, Bùi lại phải vội vã đi vay cào cấu được đủ năm trăm bạc mang đến để chuộc người về. Hãy thế đã. Còn vốn. Còn đền khách hàng mất máy, mất áo, mất tiền đặt. Lại khốn khổ như năm trước, bằng mấy năm trước mất trộm ở Long Châu. Thiệt hại và lôi thôi gấp bao nhiêu Long Châu nữa!

Hôm sau, cả bọn về đứng trơ giữa cái nhà không. Sơn tặc lưỡi:

- Còn hai bàn tay này tức là còn máy tiện, máy nổ. Cũng được. Có mất bàn tay như ông Đặng mới thật là hết.

Trang cũng cười:

- May quá, thế nào mà chỉ có hòn đá li-tô mình cất trong nách tường là chúng nó không lục ra.

Phong bảo Bùi:

- Mai mình xuống Long Châu.

Bùi nói:

- Anh đừng ngại, không sợ túng đâu, anh Vương “cao” à.

- Không, tôi có việc đến hẹn phải đi xa ít ngày. Nhờ tìm sẵn cho mình chỗ ở mới, để hôm nào về.

Bùi cười:

- Cái nhà bây giờ rỗng tuếch thế này, cả một “dinh” đến đóng cũng lọt thỏm, anh còn định ở đâu?

Phong lắc đầu.

- Chúng nó đã chụp ảnh, lăn tay chúng mình trong sở cảnh sát rồi. Phải cẩn thận hơn. Ở đâv không tiện nữa.

Bùi mới nghĩ ra.

Mùa xuân đương trở lại trên các vùng biên giới, bên này và bên kia Long Châu.

Những rừng hồi xanh mờ như làn khói thơm. Những đồi trẩu lá non xanh tơ đơm lên như xôi và hoa mơ, hoa đào đã lại chen nhau cười trắng, cười hồng như mọi năm. Cả đến vùng lòng chảo khô cằn đồi trọc Lộc Bình suốt từ Lạng Sơn sang bên kia đã lại chập trùng in nghiêng một màu cỏ tranh biêng biếc.

Trên vách núi cửa ải cũ Quỷ môn, giữa những bụi si già đương chen bật ra một nhánh rễ mới trắng hau.

Chòm phong lan buông một nét vàng hây xuống khe đá.

Chú tắc kè non mới nở, lưng đốm màu rêu đỏ, đứng khệnh hai chân trước lên, ngây như ai tạc nó vào trước hang.

Phong đến Lũng Nghìu.

Thụ không có ở đấy. Mã Hợp xuống bán củi chợ Ải Khẩu chưa về.

Chỉ trông dáng vừa quen vừa lạ, lại thân mật của Phong, mẹ hỏi ngay:

- Cháu đi cách mệnh à?

Mẹ đã trông thấy hàng trăm người cách mệnh đến nhà rồi, mẹ biết nhìn rõ ra mặt người cách mệnh khác, mặt thằng mật thám không giống thế được.

Nhưng Phong không biết đáp lại thế nào.

Mẹ lại kể:

- Cháu ngồi xuống đây, cháu à. Ngày trước, nhà cô còn ở Ma Mèo, có lần cô đã được đưa người cách mệnh từ nhà sang Long Châu. Người ấy cũng cao như cháu, nói tiếng Kinh làm sao mà giống hệt tiếng cháu. Nghe nói là tiếng Nghệ. Chỉ khác là người ấy đội nón chóp, có bộ râu thế này.

Phong cười, bảo mẹ:

- Hay là bố cháu đấy, mẹ ạ.

Nói thế rồi Phong cảm động, nhìn mẹ, âu yếm như chợt gặp lại những ngày thuở bé của mình ở trong làng, đương ngồi nghe mẹ kể chuyện đời xưa.

Phong và Thụ, hai người trước cửa hang Áng Cúm.

Ở đây, đứng hình dung ra cả một dải biên giới phía bắc, trông suốt xuống tận cuối đất nước ngoài khơi mũi Cà Mau. Phong có ngay cảm tưởng ấy.

- Ồ nhỉ!

Tình cảm hết sức thắm thiết ấy đã theo Phong từ Lũng Nghìu lên đây. Lý tưởng, hành động và thực tế cuộc đời phải là ở đây và như đây. Nghĩ như thế, Phong bảo Thụ:

- Hôm trước, mình gặp Hùng, mình đã bảo rằng Hùng và các bạn thực sự đã là những người cộng sản Đông Dương từ lâu rồi, hôm nay và từ khi đến Lũng Nghìu, mình đã thấy sự thật ấy thật mạnh mẽ. Không bao giờ mình quên được vẻ mặt và lời nói của bà mẹ Lũng Nghìu. Vẻ mặt ấy, thiết tha ấy đã tập trung trong đó tất cả những đau khổ và thiết tha của bà mẹ Việt Nam của chúng ta, đương đặt biết bao nhiêu hy vọng của đất nước cho trách nhiệm của chúng ta. Thụ ạ, các đồng chí đã làm rất đúng nguyện vọng của mẹ hiền Tổ quốc đau thương nhưng có sức mạnh vĩ đại luôn luôn cổ vũ chúng ta, dìu dắt chúng ta đên với Đảng của giai cấp, của dân tộc. Đồng chí Thụ xứng đáng người đảng viên đảng Cộng sản Đông Dương mà tôi là người đại diện ở đây và không một nghi lễ kết nạp nào, một lời nào mạnh mẽ, thiêng liêng hơn những việc chúng ta đương làm, với tinh thần Đảng cao nhất, đảm bảo mãi mãi cho lòng trung thực, quyết tâm sống chết vì Đảng và dân tộc trên con đường Đảng đã chỉ cho ta.

Phong về Long Châu đã được ít lâu.

Căn nhà gác bên số lẻ phố Nam Cai, có mấy người Việt Nam làm trong xưởng chữa súng của huyện ở chung nhau tại đấy.

Cái phố Nam Cai lấp ló dưới bóng loáng thoáng những cây phượng. Nhà ở chìa lưng ra bờ sông, lác đác nhà ở và những mảnh đất hoang. Người thị trấn xưa nay ngại ở phố ấy. Những toán cướp ngoài thành có thể lội qua sông vào lấy của đốt nhà phố Nam Cai lúc nào cũng được. Bởi vậy, phố cứ vắng ngơ vắng ngắt.

Nhưng lâu nay có nhiều người hỏi thăm đến cái nhà bên số lẻ ấy. Ai ở Long Châu lâu rất dễ trông dáng, để ý lối trò chuyện và cách ăn mặc của người hỏi thăm mà đoán khách là người buôn thuốc phiện, buôn vàng, buôn hồi, buôn súng, buôn bò hoặc đấy là người của tướng cướp về tìm nhờ chữa súng. Có khi là người quen và họ hàng cũng người Nùng, người Hán, người Tày ở Bình Tường, ở Nam Ninh xuống, hoặc bên Cao Bằng và Lạng Sơn sang. Người nhà hay người buôn, thấy lạ, cứ đoán đại khái. Chẳng biết thế nào chỉ biết cái phố Nam Cai vắng vẻ, lâu nay có nhiều người lạ hay lui tới.

Nhưng cũng còn nhiều khách lạ thì người Long Châu chịu không biết ở đâu tới, bởi họ cũng áo quần như người Bình Tường, người Lạng Sơn.

Vậy mà không phải. Họ ở Hồng Kông vào, có khi Thượng Hải xuống. Còn từ Hà Nội lên hay tận Sài Gòn ra nữa. Người Long Châu ở cái trấn tĩnh mạc cùng kiệt địa đầu biên giới ấy không thể biết hết được mọi khách khứa thường thăm hỏi đến căn nhà cũ kỹ có cái gác xép bên dãy số lẻ phố Nam Cai đâu.

Buồng trên gác mà Phong ở đã có lúc trở thành cơ quan lưu động tiền phương của Ban chỉ đạo hải ngoại của Trung ương Đảng. Ở đấy, hoạt động của Đảng nối cách mệnh Việt Nam với thế giới và con mắt của Đảng nhìn về khắp nước và ra thế giới. Những lóp huấn luyện nhỏ mở ngay đấy. Có khi chỉ năm ba người, và hết hai ba ngày gọn ghẽ. Phong trực tiếp phụ trách việc huấn luyện công phu và tỉ mỉ ấy. Thanh niên Cao Bằng, Lạng Sơn ra tấp nập. Họ thường sang Long Châu, như người đi chợ. Ngày Tết, người qua lại càng dễ che mắt bọn mật thám.

Bấy giờ đương cữ giêng hai, cái Tết vẫn còn kéo dài trong các làng Tày làng Nùng. Người vui xuân cứ theo hội lùng tủng mà đàn hát tràn vùng này vùng khác, ròng rã hàng tháng. Được dịp, những thanh niên có chí hướng cách mệnh cũng trà trộn vào đám hội, xách đàn tính đi chơi, nhưng kỳ tình họ ra Long Châu theo lớp huấn luyện, ra được đông lắm, đến khi về, tay vẫn cầm chiếc đàn tính mà trong túi chàm đeo vai có truyền đơn, có điều lệ Đảng. Nhưng nét mặt vừa hớn hở vừa suy nghĩ của những người thanh niên ấy thì khác lúc đi, không mấy ai có thể hiểu được.

Phong ở Hồng Kông về, cái Tết đương qua Quảng Châu thế mà về Long Châu vẫn thấy cái Tết còn nguyên. Thụ thấy Phong cũng vui như những bạn trẻ ra dự lớp huấn luyện của Đảng. Phong bảo Thụ:

- Trần Minh(2) sắp về.

- Hay lắm, anh Vương “cao” à!

Phong nói:

- Trần Minh đi học quân sự, nhưng hãy để việc quân sự đấy, bây giờ việc gấp là Trần Minh sẽ phụ trách ấn loát. Nhiều tài liệu thời sự ta cần in ngay để chuyển về xuôi mới kịp tung đi khắp nước. Nhưng ở đây mà thêm cơ quan ấn nữa thì kềnh càng quá. Người đến phố Nam Cai nhiều thế kia, nhà mình như họp chợ, lỡ một cái... Bọn Quốc dân đảng không có cố bắt mình, nhưng mình biết thằng này bán tin tức cách mệnh cho Tây lấy nhiều tiền lắm. Phải cẩn thận...

- Hay là ta đưa về hang Áng Cúm.

- Cả bộ phận in ở Áng Cúm cũng không phải là an toàn thật đâu, cần đổi chỗ hoặc chia nhỏ thêm ra. Không nên chủ quan. Hôm nào xuống đấy rồi bàn.

- Tổ chức của ta đã có cơ sở ở cả bốn phía quanh núi, thằng Tây Quốc dân đảng cũng thế thôi, lo gì!

- Đừng khinh địch, Năm à. Trên thế giới, cuộc cách mệnh nào thất bại cũng chỉ vì khinh địch. Phố Nam Cai này có mấy thằng mật thám, liệu ta biết hết chưa. Chắc chúng mình đều phải ngần ngừ, chưa thể biết hết được. Tình hình này, hai kẻ thù của cách mệnh ở hai bên nách thì lại càng không được chủ quan. Cứ xem sẵn nơi nào tiện nữa. Cần có những chỗ dự bị. Nếu được chỗ tốt hơn chúng ta cũng chuyển các lớp huấn luyện ở đây đi.

Thụ hỏi:

- Về Hạ Đống có được không?

- Hạ Đống à...

Thụ nói:

- Hồi Long Châu đỏ, tôi đã tham gia ở Hạ Đống. Người Hạ Đống đến bây giờ gặp tôi vẫn nói: cách mệnh Việt Nam, cách mệnh Trung Quốc là cách mệnh anh em. Ở Hạ Đống rất tiện đường liên lạc các phía. Đi Thuỷ Khẩu, Tà Lùng rồi về Cao Bằng, vào Thất Khê, xuống Bắc Sơn, ra Long Châu, đằng nào cũng gần. Hôm nào đi Áng Cúm chúng ta sang Hạ Đống xem.

Phong bảo Thụ:

- Được rồi. Bây giờ Năm đi trước. Ngày kia tôi xuống. Có tài liệu này rất cần in gấp.

Phong đưa tờ giấy đánh máy cho Thụ:

- In tờ truyền đơn kỷ niệm Xô Viết Nghệ An. Bây giờ tháng ba. Chúng ta in sớm để kịp phân phát đi cho các nơi còn in lại, kịp tháng chín thì toàn xứ cùng tranh đấu một lượt.

Thụ bồn chồn và hào hứng nghĩ: Đấy là tiếng nói quan trọng của cách mệnh truyền đi cho khắp mọi nơi, ai cũng được biết. Xô Viết Nghệ An còn to hơn núi Cai Kinh ở Chi Lăng kia. Hang Áng Cúm được vinh dự nhận trách nhiệm đem tiếng nói cách mệnh in ra rồi phát đi toàn xứ. Xô Viết Đông Dương muôn năm! Xô Viết Đông Dương muôn năm! Trước khi tiếng nói cách mệnh đến với khắp mọi người, chúng ta phải biết ý nghĩa to lớn của nó, trong tờ truyền đơn. Anh em in ở Áng Cúm sẽ in khéo với tinh thần của Xô Viết Nghệ An! Mình sẽ về trình bày với các đồng chí...

Thụ đọc tờ truyền đơn và nghĩ từ Áng Cúm sẽ in ra:

Kỷ niệm Xô Viết Nghệ An

Anh em chị em công nông

Ngày 12 tháng chín 1930, công nông Nghệ An vác súng ống gậy gộc, nổi lên lập chính quyền Xô Viết trong mấy huyện, lấy đất bọn quan lại, địa chủ chia cho nông dân, huỷ hết các món nự, các thứ thuế, tô chức các đội Tự vệ đỏ, lập toà án cách mệnh, cho tất cả đàn ông đàn bà lao động được tham gia chính trị v.v...

Tuy Xô Viết chỉ sống được mấy tháng, nhưng chính quyền Xô Viết đã cho quần chúng hay rằng: chỉ có chính quyền Xô Viết mới đánh đổ được đế quốc và phong kiến.

Kỷ niệm Xỏ Viết Nghệ An chúng ta cần phải kế tiếp tranh đấu thực hành chính quyền Xô Viết toàn xứ, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, tịch ký đất đai địa chủ chia cho cố nông, bần nông, trung nông, tịch ký các xí nghiệp tư bản ngoại quốc làm của công và thực hành ngày làm 8 giờ.

1. Đánh đổ khủng bố trắng

2. Tha hết thảy chính trị phạm

3. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, quan lại, địa chủ, lý hào bản xứ

4. Xô Viết Đông Dương muôn năm

5. Đảng Cộng sản Đông Dương là kẻ lãnh đạo cách mệnh của công nông muôn năm

Ngày 10/9/33

Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm(3)

Núi Áng Cúm sừng sững phơi những mảng rừng phủ trên đá xanh đen lẫm liệt, đổ bóng xuống đường 4, bóng núi che sang tận mái nhà xóm Khơ Đa. Không có cái mốc đá cắm dưới chân, ai biết đấy là biên giới!

Từ Khơ Đa lên, kéo theo những cánh rừng trúc lủa tủa như lưới ngợp bốn phía. Lần đầu đến Áng Cúm, Hùng lạc phải ngủ trong rừng trúc. Hôm sau trèo tới cửa hang, quay nhìn xuống, Hùng ngạc nhiên: “Trời! Đêm qua nằm ngay dưới chân hang mà không biết”. Các tổ cách mệnh ở Khơ Đa, đến kỳ gặp nhau, xách nước vào khe họp. Trong núi không có nguồn nước. Bọn lính canh biên giới không ngờ cách mệnh vẫn ở trong ấy. Tuy vậy, lính đồn Đồng Đăng đi lùng luôn. Anh em ta bước qua cái mốc biên giới, mất hút, thằng lính chưa kịp giơ tay vẫy lại hỏi thẻ, nó ức lắm, mà không đuổi theo được.

Phong đã lên tới cửa hang. Đi từ Lũng Nghìu đến. Nắng sớm vừa lên ngang rừng trúc. Ngoảnh lại thấy Thụ vẫn lúi húi trong cái hõm đá phía dưới. Phong hỏi:

- Làm gì đấy?

Thụ cười, giơ hai nắm nấm trắng phếch:

- Ở châu Văn Uyên, đến cữ tháng tư, có hôm đột nhiên trời đương nắng đổi sang mát, lá cây “phíac đỏ” rụng đầy xuống gốc thì nấm cỏ mọc ra vùn vụt như ai nâng chân nấm lên. Chốc nữa, tôi làm canh nấm cỏ cho anh ăn thử. Có thể hơn món canh nấm hương nấu với da chân vịt của các hiệu cao lâu Thượng Hải nhiều, anh Vương “cao” à.

- Ăn vào lúc này thì nhất định hơn nấm cao lâu rồi.

Hai người cùng cười. Trong hang, mát rợi hơi nắng nhẹ.

Thụ nói:

- Anh Vương “cao” à, năm nay thì từ Đồng Mỏ về suốt Hà Nội đều được kỷ niệm Xô Viết Nghệ An.

- Sao thế?

- Anh em ở Ôn Châu đã đi dán truyền đơn lên các toa tàu xuôi, đến khi tàu chạy, thế là đến đâu tàu cũng tuyên truyền cách mệnh.

- Sáng kiến hay. Còn ở Điềm He, rất hăng, đi rải khắp các chợ.

Hôm trước, Thụ mang truyền đơn về in ở Áng Cúm, in xong, phấn khởi lắm, Thụ đề nghị Phong cho phát động một trận tranh đấu tuyên truyền khắp Cao Bằng, Lạng Sơn. Phong đồng ý, chỉ dặn: cần làm cho thằng Tây không dò được tung tích. Bên Lạng Sơn chỉ được tranh đấu từ Đồng Mỏ, Điềm He, Thất Khê trở xuống, không rải truyền đơn ở biên giới. Đấy cũng là một kinh nghiệm mới mà dạo trước đi rải truyền đơn, Thụ chưa biết.

Thụ đi Thất Khê, xuống Đồng Mỏ. Phong vào tận Điềm He. Đem truyền đơn đến cho các tổ, lại cùng anh em đi rải.

Thụ và Phong trở về Lũng Nghìu, say sưa như những người vừa thắng một trận đánh. Thật thế, họ đã tận mắt thấy rừng núi rung chuyển trong đợt kỷ niệm Xô Viết Nghệ An năm nay. Người các dân tộc hồi hộp đến với cách mệnh. Ở sào huyệt các đồn, các nha quan châu, quan bang, lính với quan xôn xao, cuống quýt.

Phong hỏi Thụ:

- Sáng nay gặp Mã Hợp không?

- Có.

- Mã Hợp đã được tin Hùng về chưa?

- Chưa.

- Ngót nửa tháng rồi. Hùng có lạ đường không?

Thụ lắc đầu:

- Không. Hùng đã xuống Hòn Gai hai lần. Lần này lại đi với Sảo Kinh thì không lo.

Khi anh Phong chưa về, Hùng và Thụ đã bàn nhau phải mở đường cách mệnh xuống vùng mỏ bờ biển. Họ nghĩ một cách đầy hào hứng: “Như vậy, khi cách mệnh cần vượt biển ra thế giới thì đi đằng Hòn Gai nhanh gấp bao lần phải ra Hồng Kông”. Và Hùng đã xuống Hòn Gai hai lần rồi.

Thụ rất tin Sảo Kinh, ngay mới lần đầu gặp Sảo Kinh khi Thụ về họp tổ ở Khơ Đa.

Chu Sảo Kinh người Nùng, tính thẳng, không quen thì thào, nói cái gì thì nói to choang choác và làm ngay. Chân Sảo Kinh bước thật cao, như con gấu sợ bẫy. Đi đường Sảo Kinh thường nhìn xa, để ý cẩn thận trước những chỗ đường rẽ. Cái nghề tải hàng lậu đã thành thói quen cho Sảo Kinh như thế. Có lần lái thuê đuổi hàng trăm con trâu qua Hà Giang xuống Móng Cái để bán lậu sang Đông Hưng. Trăm con trâu đã len lỏi lọt tất cả các đồn. Khi Thụ gặp Sảo Kinh, Thụ nghĩ: “Người này mới đúng người biên giới, thật cùng khổ, thật ngỗ ngược và mưu chước, đã tin chắc tin đến cùng”. Chuyến này Thụ cử Sảo Kinh chịu trách nhiệm đưa Hùng xuống mỏ. Đem theo, mỗi người một tay nải truyền đơn kỷ niệm Xô Viết Nghệ An cho công nhân Hòn Gai.

Phong hỏi sang chuyện khác:

- Mọi việc ở đây thế nào?

Thụ nói:

- Xong rồi.

Phong biết chắc như thế, nhưng vẫn nói như hỏi lại:

- Xong rồi a!

Mọi việc đã xong gọn. Thụ gặp Mã Hợp, gặp Sảo Kinh kết làm anh em và tin tưởng cùng làm cách mệnh. Phong từ khi gặp Thụ, Phong cũng nghĩ: “Người này, đồng chí này, con em của rừng núi phía bắc, sẽ giữ cho Đảng có được tất cả rừng núi biên giới phía bắc đây”.

Hai người đã vào đến giữa hang. Đống lửa của người cách mệnh đốt trên mặt khe đá khấp khểnh, từ mùa đông trước có lẽ không mấy khi tắt, đã làm cho cái hang đá bớt hơi ẩm ướt. Ánh sáng mờ mờ toả trong cái hang đã có nền nếp tương tự như cái nhà. Nhiều tảng đá đã được kê phẳng. Chỗ ăn cơm, bàn viết, nơi làm việc. Cây gỗ chò ngả đều nhau, dài, thẳng, để lót giường, để ngồi họp. Hàng trăm người cũng có thể vun lọt thỏm vào quanh đám lửa giữa bụng quả núi rỗng.

Thụ vào vách đá trong, ôm ra hai cái gói có bọc hai lần mo mai và nhiều lần giấy dầu, mở kêu xoàn xoạt. Đặt xuống bệ đá, Thụ cầm đèn pin rọi vào từng gói, giơ cho Phong xem. Gói to, một chồng giấy bạc Đông Dương. Phong búng ngón tay, tờ giấy kêu tanh tách, đúng giấy bạc mới. Cầm một tờ năm đồng có bóng dầu con đầm lờ mờ dưới hình con công xoè đuôi, Phong nói:

- Tốt lắm! Thế này thì kịp rồi!

Tiếng tu hú phảng phất kêu ngoài kia. Mùa thuế má khốn khổ đã đến khắp mọi nơi trong nước ta, xuôi cũng như ngược. Xa xa, cây vải đội đi đâu một mâm quả chín đỏ gắt. Ấy thật đã vào mùa quan làng thu thuê. Cũng là một dịp cho cách mệnh “làm kinh tế”, cách mệnh bắt ngay thằng Tây phải cung cấp kinh tế cho cách mệnh đó. Bó giấy bạc này sẽ đem về cho các tổ. Cũng có lý trưởng hiểu, vừa nghe nói đã đem tiền thuế đến đổi bạc cho cách mệnh. Có lý trưởng sợ cách mệnh, phải đổi. Thế là tiền giả đem lên nộp quan. Thằng Tây thu về tiền giả mà cách mệnh thì có tiền thật để dùng tự nhiên. Anh Phong bảo ở bên Xiêm, bên Tàu hay bên châu Âu, chỗ nào cách mệnh tranh đấu cũng lợi dụng thuế má của đế quốc mà đánh đòn ấy. Chỉ trừ Liên bang Xô Viết quê hương của cách mệnh và vô sản thế giới thì trong sạch, không có thuế má bẩn thỉu như đế quốc.

Thụ mở đến cái gói nhỏ là một tập giấy thông hành quốc tế. Phong lật từng tờ, xem đi xem lại.

- Cái nền giấy hoa non nét quá. Phải gửi lên Nam Ninh để Trang in đá lại cho mới được. Trên ấy đã thạo làm cái này. Vả lại, cũng còn thong thả.

Phong bàn với Thụ:

- Như vậy, công việc thế là được, xong rồi mai ta đi Hạ Đống. Lớp huấn luyện này thôi ở Long Châu và bắt đầu mở ở Hạ Đống. Mở ở Hạ Đống lại rất tiện đường Cao Bằng và trong nước ra gần hơn nhiều. Nếu Hùng chưa về kịp thì Năm sang Thuỷ Khẩu đón anh em Cao Bằng ra. Đến hẹn rồi. Chúng ta sẽ mở ba lớp, trước khi thành lập ban Tỉnh uỷ. Ba lớp huấn luyện nữa, một đợt truyền đơn tranh đấu nữa chào mừng ban liên Tỉnh uỷ Cao Bằng và Lạng Sơn ra đời. Ta làm thế. Năm sẽ phụ trách việc này. Tuần sau tôi có công tác đi Nam Ninh. Năm ở nhà thay mặt đoàn thể, cứ khai mạc huấn luyện đi.

Một bóng người nhô ngoài cửa hang. Mã Hợp đi chợ Ải Khẩu bán củi về đã lên gác hang ngay. Mã Hợp bước vào, nói:

- Vương “cao” à, Khén Chang chăn trâu xuống Nam Quan nghe vợ khố xanh kể chuyện lính Tàu với lính Tây bên Đồng Đăng sắp cùng nhau họp quân lên vây hang Áng Cúm.

- Bao giờ chúng nó lên vây?

- Hôm nay đấy.

- Khén Chang đâu?

- Khén Chang gác chặng đầu dưới chân núi. Nó bảo mình lên báo cáo các anh như thế.

Thụ nói:

- Cũng vừa xong việc. Ta đi ngay bây giờ được thôi, anh Vương “cao” à.

Thụ cất các gói đồ in vào hốc đá. Lại còn soát cẩn thận, không một thứ gì khả nghi có thể vương ngoài. Hôm ấy thật may, trên hang chỉ còn có Thụ và Phong.

Nhưng Thụ và Phong không ngờ được kẻ địch lại lên núi vây ngay được như vậy, vì Khén Chang mới về đên chân núi và Mã Hợp thì cứ ung dung như không.

Hai người xem lại khẩu súng ngắn giắt trong thắt lưng. Rồi hất ống bương nước vào tắt đống lửa, họ bước mò ra phía cửa hang.

Vừa hay, Khén Chang hớt hải chạy vào, kêu khẽ:

- Sen cháng đưa lính lên!

Thì ra lúc Khén Chang đánh trâu ở Nam Quan về thì cũng một lúc, lính Đồng Đăng rục rịch đi vây.

Đồng Đăng tiến thẳng lên Khơ Đa ngay dưới chân Áng Cúm. Quan cưỡi ngựa, lính chạy, chưa hết một tiếng đồng hồ đã tới. Trong khi ấy bốn con trâu lọ mọ dằng co trong đường núi, kíp lắm, kíp lắm, thế mà Khén Chang còn về qua nhà rồi đi ngay, tới được Áng Cúm chỉ trước chúng nó vài bước.

Trên cửa hang trông xuống đường 4 đã nhan nhản lính khố xanh. Có Tây và khố đỏ dưới tỉnh lên. Quan Tây cưỡi ngựa chạy quay quay trong đám lính. Vó ngựa nện chan chát xuống mặt đường, trên cao nghe như tiếng đập đá sắc lạnh. Tiếng ngựa hí rền rĩ vào lưng núi, bóng sương vùn vụt vừa bay vừa tan, tan đến đâu thì trên này trông xuống thấy chỗ ấy vàng rộm những lính mới đến. Tây vây kín một bên núi Áng Cúm phía đường 4 rồi.

Bọn Quốc dân đảng ở Nam Quan vào chẹn các lối xuống bên này. Không biết chúng nó đã đến chưa. Phía núi ấy còn im phắc.

Thụ nhìn quanh sườn núi một lượt rồi bảo Mã Hợp:

- Không xuống đông được đâu. Chia ra mà đi, Mã Hợp à!

Câu nói là một mệnh lệnh. Rồi tiếp luôn, mọi việc như đã sắp đặt trước cả, Thụ nói:

- Mã Hợp đi với tôi. Anh Vương “cao” với Khén Chang.

Đằng kia có con đường tắt rừng - lối bí mật Thụ tìm ra đề phòng những lúc cần. Tuy lối ấy hóc hiểm, vừa đi vừa trèo cây, qua mấy chỗ đá trọc phải bíu dây đánh đu vào vách núi, trơ lưng ra, nhưng đi đường này địch không biết, không phải biến báo đối phó. Khén Chang đưa Phong xuống tắt đấy.

Thụ hỏi Mã Hợp:

- Sắp sẵn rồi chứ?

- Kia kìa.

Bên cửa hang có mấy bó củi vẫn dựng sẵn từ bao giờ. Mỗi người sẽ vác một bó. Trong phút quyết định, Phong nắm tay Thụ và Mã Hợp. Rồi im lặng Khén Chang và Phong bước khuất vào sườn núi. Mả Hợp và Thụ cúi xuống, ghé vai, xốc bó củi lên, khom khom nặng nề xuống theo đường mòn vẫn đi hàng ngày.

Bọn Tây bên đường 4 đã bắt đầu trèo lên sườn núi, chỗ trên mốc biên giới. Chúng bò lổm ngổm vào từng bụi cây, chỗ nào cũng hô “a-la-xô” rồi xỉa lưỡi lê vào. Vừa làm oai, vừa sợ.

Phía này, lính Quốc dân đảng cũng đương bò lên một hàng dài. Chúng lên tới lưng núi, mới nghe được từ đằng xa tiếng chúng hò hét quát chửi nhau uôm uôm lên vách đá cửa hang.

Thôn trưởng đi trước, tay run rẩy, quờ quạng. Có cả hương trưởng cưỡi ngựa đi theo. Một lính cầm thanh đại đao bước sau lưng thôn trưởng, như giải tù. Chốc chốc, người lính lại dựng con dao to, thúc cái chuôi dài, nghe hự hự vào lưng thôn trưởng. Sau đó mới đến đám lính tiến theo.

Một lúc, Mã Hợp nghe rõ tiếng quát hỏi đằng trước mặt:

- Đi đâu thế nào? Đi làm giặc hay đi hái củi?

Ơ hay, bọn lính gặp ai giữa đường? Có tiếng đáp lại thật to, nhưng nghe không hết câu:

-... Cho kịp buổi chợ Ải Khẩu mà...

Tiếng ai như tiếng mẹ Mã Hợp. Nghe kỹ, thì ra tiếng mẹ thật. Mẹ lên đây từ lúc nào!

Mẹ đi từ lúc sáng sớm. Nhà vắng không có ai. Bốn phía về nói hốt hoảng nói lính sắp lên lùng hang Áng Cúm. Việc bí mật, tưởng không ai biết, nhưng thật thì cả xóm Lũng Nghìu đều mang máng trên Áng Cúm có gì lạ, nên bây giờ người ta lo sợ về kháo lên như thế. Mẹ lật đật đi ngay. Mẹ kiếm bó củi vác như mọi người đi rừng. Mẹ đã lên từ lâu. Nêu lính không đi sớm, có khi mẹ đã tới hang. Bây giờ thấy chúng nó lên nhanh, mẹ mới bước quay lại, tìm cách cản chậm. Mẹ còng rạp. Bó củi trĩu lưng, như đội cái mai rùa. Quả nhiên, một lúc lâu mới thấy bọn lính nhô ra. Chúng vướng bà cụ, chững lại, bây giờ mới đi được.

Cuối cùng, Mã Hợp và Thụ đã tới trước mặt bọn lính Quốc dân đảng. Bài trưởng bước lên, quát:

- Thằng kia...

Mã Hợp dõng dạc:

- Tôi đi hái củi mà.

Hương trưởng dắt con ngựa. Không dám hỏi trước mặt bài trưởng, sợ phạm lỗi, nó cứ lẩm bẩm, cau có một mình:

- Đứa nào cũng hái củi... hái củi... Con mụ già kia...

Tên dinh trưởng(4) sấn tới, hét:

- Hai thằng này làm cộng sản trên Áng Cúm...

Rồi quay lại, túm ngực áo thôn trưởng, hất hàm hỏi:

- Phải những thằng này là cộng sản không?

Bấy giờ thôn trưởng mới ngẩng mặt. Người thôn trưởng trừng trừng nhìn Thụ. Thôn trưởng đã nhận ra đứng trước mặt mình là cái người ở Long Châu dạo trước về Lũng Nghìu tìm tắc kè ngâm rượu. Người này... nhưng rồi thôn trưởng điềm nhiên, quay mặt vào vách núi, nói khẽ:

- Xóm Lũng Nghìu này chỉ có nghề bán củi mà... Những người này ở Lũng Nghìu đi hái củi thôi.

- Câm ngay. Lên đến cửa hang còn xa không?

- Xa.

Dinh trưởng thở hồng hộc, bỗng “hầy” một tiếng, gạt giúi cả hai người và củi ngã vào khe. May, phía ấy không có vực. Mã Hợp và Thụ vờ đứng nép trong củi, áp vách đá, không cựa quậy. Bọn lính hấp tấp trèo lên nữa.

Khi chúng đã qua hết, Thụ và Mã Hợp cẩn thận, còn cất bó củi vào khe đá, rồi mới chạy. Một lát, đã xuống đến chân núi. Có để ý tìm, nhưng không thấy me. Chắc mẹ vẫn còn đứng lẻn lại để nghe ngóng trong rừng đâu đây. Bỗng trên hang, ran lên một loạt súng. Rồi khói bốc từ lưng chừng núi ra, tiếng vó ngựa, tiếng cỏ nổ như cháy rừng. Lại nghe lộp bộp tiếng vó ngựa đuổi xuống.

Nhưng hai người đã tới đường cái. Vết đường dưới này như chỉ rối, chẳng lo. Mã Hợp đoán:

- Chúng nó không dám vào, đương đốt cửa hang.

Rồi họ đi thẳng về Hạ Đống.

Hai hôm sau mới biết trong tiếng súng ấy có loạt đạn tên dinh trưởng bắn chết thôn trưởng. Chúng nó tới cửa hang, không thấy ai, cũng không dám vào thật. Mà mấy người hái củi thật đáng nghi ngờ thì, vì chúng háu lên hang ăn to, nên đã để sổng từ nãy. Tiếc không kịp, lại càng tức. Dinh trưởng bắt lính chất cỏ, hun cửa hang. Rồi quay lại, xỉa luôn cho thôn trưởng Lũng Nghìu một băng đạn. Hưởng trưởng ngơ ngác sợ, kéo con ngựa muốn chạy. Dinh trưởng lại bắn gục nốt hương trưởng. Con ngựa chồ