Chương 3.
III
Đôi vợ chồng trẻ cùng ở một tầng với Cachelin và cô Charlotte, trong một gian nhà giống như của họ, người thuê nhà ở đó đã bị tống đi nơi khác.
Nhưng một mối lo lắng day dứt tâm trí Lesable: bà cô không làm giấy dứt khoát cam đoan để lại gia tài cho Cora. Tuy nhiên cô ta đã bằng lòng thề “trước Chúa” rằng chúc thư của cô ta đã làm rồi, đăng ký ở phòng giấy viên quản lý văn khế Belhomme. Ngoài ra cô ta đã hứa rằng tất cả tài sản của cô sẽ về tay cháu gái, duy với một điều kiện. Người ta thúc cô nói rõ điều kiện ấy thế nào, thì cô từ chối không nói, nhưng cô lại mỉm cười ra vẻ hiền hậu mà cam đoan rằng điều kiện cũng dễ thực hiện thôi.
Trước những lời giải thích đó và tính ương ngạnh của mụ già mộ đạo, Lesable nghĩ cũng chẳng làm thế nào được hơn, vả lại anh chàng đã phải lòng cô thiếu nữ, nỗi khát khao thắng mọi sự ngờ vực, cho nên anh ta đã ngả theo ý muốn khăng khăng của Cachelin.
Bây giờ thì anh ta lấy làm mãn nguyện, tuy vẫn còn luôn luôn bị mối ngờ vực kia ám ảnh. Anh ta thương yêu vợ, nàng không có điều gì trái với sự mong đợi của anh. Cuộc đời anh trôi qua, bình yên và bằng phẳng. Vả chăng, chỉ sau vài tuần lễ anh đã quen với hoàn cảnh mới của người có vợ, và anh tiếp tục tỏ ra là một viên chức mẫn cán như xưa.
Năm cũ trôi qua. Ngày đầu năm lại tới. Anh ta hết sức ngạc nhiên thấy mình không được thăng chức như đã dự tính. Chỉ có Maze và Pitolet là được lên một bậc; và Boissel tuyên bố riêng với Cachelin rằng lão ta dự định một buổi chiều nào đó sẽ choảng cho hai bạn đồng sự kia một trận, ngay ở trước cửa lớn, lúc tan sở, trước mặt mọi người. Nhưng rồi lão ta chẳng làm gì hết.
Ròng rã tám ngày liền, Lesable không sao ngủ được, lòng thắc mắc vì thấy mình tích cực công tác đến thế mà không được thăng chức. Thật sự anh ta làm việc đầu tắt mặt tối; anh cứ phải làm thay hoài viên phó chủ sự Rabot, một năm thì ốm đến chín tháng, nằm ở nhà thương Val-de-Grâce; sáng nào anh cũng đến sở từ tám giờ rưỡi; chiều nào cũng tới sáu giờ rưỡi anh mới ở sở về. Người ta còn muốn thế nào nữa? Nếu người ta không biết đến công anh làm việc như thế và cố gắng như thế, thì anh sẽ làm như mọi người cho rảnh. Đãi ngộ thì phải tuỳ theo công lao chứ. Ông Torchebeuf xưa nay vẫn đối đãi với anh như con, mà tại sao bây giờ có thể hy sinh anh như thế? Anh muốn biết rõ. Anh sẽ tìm đến ông sếp để trình bày.
Thế là một buổi sáng thứ hai, trước khi các bạn đồng sự tới sở, anh đến gõ cửa phòng lão sếp hống hách đó.
Một tiếng the thé kêu lên: “Cứ vào!” Anh ta bước vào.
Ông Torchebeuf đang ngồi viết trước một cái bàn lớn đầy những giấy má, người ông bé choắt mà cái đầu thì to, tưởng như đặt ngay lên trên tờ giấy thẩm. Nhìn thấy người viên chức trọng dụng của mình, ông nói: “Chào anh Lesable; thế nào có khoẻ không?”
Chàng trẻ tuổi đáp: “Bẩm chào ông sếp, tôi vẫn mạnh giỏi, thưa còn ông ra sao?”
Ông sếp ngừng viết và xoay chiếc ghế bành đi. Thân hình ông mảnh khảnh, gầy còm, bó trong một chiếc rơ-đanh-gốt đen kiểu đứng đắn, trông thật không tương xứng với chiếc ghế to lớn chỗ tựa bằng da. Một tấm huy chương Bắc đẩu bội tinh hạng tư to tướng, chói lọi, to gấp nghìn lần so với thân hình người đeo, như một hòn than hồng rực rỡ trên bộ ngực lép, bị đè nặng dưới chiếc sọ kếch sù, dường như toàn thể con người chỉ phát triển ở trên ngọn, giống một cây nấm.
Cằm thì nhọn, má hóp, mắt lồi, và cái trán quá khổ, che mớ tóc bạc hất lại phía sau.
Ông Torchebeuf nói: “Mời anh bạn ngồi xuống, và cho biết đến có việc gì.”
Với tất cả các nhân viên khác ông ta đối xử một cách bốp chát kiểu nhà binh, tự coi mình như một thuyền trưởng trên tàu, là vì ông coi cơ quan bộ như một chiếc tàu lớn, chiếc tàu chỉ huy của toàn thể hạm đội Pháp.
Lesable, có phần bị xúc động, mặt hơi tái đi, ấp úng: “Bẩm ông sếp, tôi đến xin ông chỉ giáo cho rằng tôi có làm điều gì sai phạm chăng?”
“Kìa, anh bạn, có chuyện gì đâu, tại sao anh lại hỏi tôi điều đó?”
“Thưa vì tôi hơi thắc mắc tại sao năm nay tôi không được thăng chức như mọi năm. Bẩm ông, cho phép tôi được trình bày hết và xin ông tha cho tội đường đột của tôi. Tôi biết rằng tôi đã được ông chiếu cố nhiều và ban cho nhiều đặc ân. Tôi biết rằng thường thường thì phải hai, ba năm mới được thăng chức một lần; nhưng cũng xin phép ông cho tôi được lưu ý ông một điều, là tôi làm việc cho cơ quan gần bằng bốn lần công việc của một nhân viên thường, nếu tính về số thì giờ thì ít ra cũng gấp đôi. Như vậy nếu đem mà bắc cân công việc tôi làm và sự đãi ngộ, thì quả là bên này kém xa bên kia!”
Anh chàng đã chuẩn bị rất cẩn thận câu nói mà anh cho là tuyệt diệu.
Ông Torchebeuf ngạc nhiên, tìm câu trả lời. Cuối cùng, ông ta nói bằng một giọng hơi lạnh nhạt: “Tuy rằng nguyên tắc không cho phép được bàn cãi về vấn đề này giữa thủ trưởng và nhân viên, nhưng lần này tôi cũng sẵn lòng trả lời anh, là vì chiếu cố đến những công lao rất xứng đáng của anh.
“Tôi đã có đề nghị cho anh được thăng chức như những năm trước. Nhưng ngài giám đốc đã gạch tên anh đi với lý do là cuộc hôn nhân của anh đã bảo đảm cho anh một tương lai tốt đẹp, quá phong lưu, một tài sản mà không bao giờ các bạn đồng sự nghèo của anh có thể ngõm ngọi được. Tóm lại, có nên công bình mà chiếu cố một phần đến hoàn cảnh của mỗi người không? Anh sẽ trở nên giàu có, rất giàu. Tăng lên cho anh ba trăm quan một năm thì đối với anh có bõ bèn gì, nhưng món tiền nhỏ đó rất đáng kể so với túi những người khác. Anh bạn ạ, đó là lý do tại sao anh phải lưu lại năm nay.”
Lesable, bẽ bàng và cáu tiết, rút lui.
Buổi tối, trong bữa ăn, anh ta tỏ vẻ khó chịu với vợ. Chị ta thường ngày tính tình vui vẻ và khá hồn hậu, nhưng ương ngạnh, khi đã muốn cái gì thì không bao giờ nhượng bộ. Đối với chồng, chị ta không còn cái sức cám dỗ xác thịt buổi đầu nữa, và tuy lửa lòng anh ta luôn luôn được khêu gợi vì, của đáng tội, chị ta cũng xinh tươi, nhưng cuộc sống chung giữa hai con người chẳng bao lâu làm cho anh ta lắm lúc vỡ mộng, gần như chán ngấy. Hàng nghìn chi tiết tầm thường hay thô lậu của cuộc sống, phấn son biếng nhác lúc buổi sáng, chiếc áo mặc trong nhà bằng thứ len tầm thường, cũ nát, chiếc áo choàng bạc màu, là vì nhà cũng không dư dật, và tất cả những việc làm thiết thực, ở nhà nghèo thì nó bày ngay ra trước mắt, hết thảy đã làm bong lớp sơn hào nhoáng lúc cưới xin, làm tàn úa đoá hoa thơ mộng, từ xa, cám dỗ cặp tình nhân.
Bà cô Charlotte lại làm cho gia đình anh thêm khó thở, là vì mụ ta bám lấy họ; mụ xen vào tất cả mọi công việc, muốn chỉ huy hết thảy, việc gì cũng bắt bẻ, mà vì người ta lo sợ làm mụ phật ý cho nên người ta đành cắn răng nhịn nhục, tuy nhiên lòng phẫn uất cứ ngấm ngầm và càng ngày càng tăng.
Mụ ta lê bước già yếu đi lại khắp trong nhà; tiếng nói hổn hển mà lải nhải: “Làm thế này này; làm thế kia kìa.”
Khi hai vợ chồng ngồi riêng với nhau, Lesable cáu kỉnh gắt: “Bà cô của chị quá quắt lắm. Tôi thì tôi xin vái. Chị biết chưa? Tôi xin vái.” Nhưng Cora bình thản trả lời: “Thì anh bảo tôi làm thế nào bây giờ?”
Thế là hắn phát khùng lên: “Có cái gia đình nào mà khả ố như thế này!”
Nhưng chị ta vẫn bình thản đáp lại: “Phải, gia đình này thì khả ố, nhưng món gia tài kia thì đáng yêu phải không? Thôi đừng làm trò khỉ. Nhịn nhục cô Charlotte, chẳng lợi riêng gì cho tôi đâu.”
Thế là anh chàng cứng họng, không biết trả lời ra sao.
Bây giờ thì bà cô luôn luôn thôi thúc họ, nhăm nhe cho có một đứa cháu. Mụ ta ấn Lesable vào góc tường và hà vào mặt: “Cháu tôi đâu, tôi truyền cho anh phải có con trước khi tôi chết. Tôi muốn trông thấy mặt đứa kế thừa của tôi. Anh đừng có đổ cho Cora không sinh nở được. Cứ nhìn nó mà xem. Này, ông cháu tôi ơi, lấy nhau là để có tông, có giống. Đức Mẹ không ưng những cặp vợ chồng không sinh đẻ đâu. Tôi vẫn biết anh chị không được phong lưu, đẻ con ra thì thêm tốn kém. Nhưng tôi mà nhắm mắt đi thì anh chị chẳng thiếu thốn gì nữa. Tôi muốn có thằng Lesable con, tôi muốn thế, anh nghe chưa!”
Họ lấy nhau đã được mười lăm tháng rồi mà ước nguyện của mụ vẫn chưa đạt được, cho nên mụ sinh nghi và càng thúc bách; và mụ thầm mách Cora đủ ngón, những ngón thực dụng, rõ ra một người đàn bà xưa kia thành thạo đủ nghề, bây giờ có dịp vẫn còn nhớ lại.
Nhưng rồi một buổi sáng, mụ ta giở giời không dậy được. Vì mụ xưa nay không ốm cho nên Cachelin rất xúc động, đến gõ cửa buồng chàng rể: “Anh chạy mau tìm bác sĩ Barbette, và anh trình hộ với ông sếp rằng, vì hoàn cảnh, hôm nay tôi không đến sở được nhé.”
Lesable qua một ngày thấp thỏm, không làm việc được, chẳng viết lách nghiên cứu được cái gì hết. Ông Torchebeuf ngạc nhiên hỏi: “Thế nào anh Lesable, hôm nay anh mải nghĩ chuyện gì thế?” Lesable, bực dọc, trả lời: “Bẩm ông sếp, tôi mệt lắm, cả đêm hôm qua tôi phải thức bên cạnh bà cô tôi ốm nặng.”
Nhưng ông sếp lạnh lùng nói: “Đã có ông Cachelin ở bên cạnh bà ấy là đủ rồi. Tôi không thể để cho phòng tôi hỗn độn vì những lý do cá nhân của nhân viên.”
Lesable đã để đồng hồ của mình lên trên bàn ở trước mặt và anh ta sốt lòng sốt ruột chờ cho đến năm giờ. Tiếng đồng hồ lớn ngoài sân vừa đánh, anh chạy liền, lần đầu tiên anh ở sở về đúng giờ quy định.
Anh ta lại đi xe ngựa về, vì lòng áy náy quá sức; và anh ta thoăn thoắt chạy lên cầu thang.
Con ở ra mở cửa, anh ấp úng hỏi: “Thế nào, bà ra sao?”
“Thầy thuốc bảo bà nguy kịch lắm.”
Tim anh đập, anh ngẩn người xúc động: “À, ra thế thật.”
Không biết chừng cô ta sắp chết chăng?
Anh ta bây giờ không dám vào buồng người ốm, và cho mời Cachelin ra.
Liền đó ông bố vợ rón rén mở cửa bước ra. Ông ta mặc áo trong nhà và đội chiếc mũ nồi như những buổi tối ông ngồi bên lò sưởi êm ấm; và ông nói thì thầm: “Nguy rồi, nguy kịch. Từ lúc bốn giờ cô ấy mê man đi. Quá trưa đã phải đổ thuốc.”
Bấy giờ Lesable thấy mỏi chân và ngồi xuống.
“Nhà tôi đâu?”
“Chị ấy ở bên cạnh bà cô.”
“Thật sự bác sĩ bảo thế nào?”
“Ông ta bảo đây là một chứng đột phát. Có thể hồi lại, nhưng cũng có thể chết đêm nay.”
“Ông có cần đến tôi không? Nếu không thì tôi khỏi phải vào. Tôi không lòng nào nhìn thấy cô như thế được.”
“Thôi. Anh cứ về buồng bên ấy. Nếu có chuyện gì, tôi cho gọi anh ngay.”
Thế là Lesable quay về buồng mình. Gian nhà như biến đổi hẳn, rộng hơn ra, sáng sủa hơn ra.
Nhưng vì anh ta không thể ở yên một chỗ, anh liền bước ra ngoài hiên gác.
Bấy giờ vào những ngày cuối tháng bảy, mặt trời lộng lẫy, đang lúc khuất đằng sau hai ngọn tháp điện Trocadéro, trút ánh nắng xuống lớp lớp mái nhà.
Khoảng không đỏ rực dưới chân anh, đượm màu vàng nhạt ở quá trên, rồi ngả màu vàng thắm, rồi xanh lá cây, một màu xanh nhẹ sáng óng, rồi lên phía trên đầu thì biến thành màu xanh lơ, trong và tươi.
Những con chim nhạn vụt qua như những mũi tên, không nhìn rõ, vẽ lên nền trời đỏ nét cánh cong nhọn hoắt. Và trên đám nhà trùng điệp, trên vùng thôn dã xa xa, là là một đám mây hồng, một làn hơi lửa trong đó vươn lên, như trong hiển hiện, những mũi nhọn của tháp chuông, tất cả những nóc nhà mảnh dẻ của các dinh thự. Khải hoàn môn Ngôi Sao đen lù lù và to lớn trong đám cháy ở chân trời, và mái tròn điện Invalides trông như một vùng dương khác từ trên trời rơi xuống úp lên một dinh thự.
Lesable hai tay nắm lấy gióng sắt, hớp không khí như người uống rượu, chỉ những muốn nhảy lên, thét lên, vùng vẫy lên, vì lòng tràn ngập một niềm vui sâu xa và đắc thắng. Cuộc đời hiện ra với anh ta phơi phới, tương lai đầy hạnh phúc! Anh sẽ làm gì? Và anh ta mơ mộng.
Một tiếng động ở đằng sau làm anh chàng giật mình. Đó là chị vợ. Mắt chị ta đỏ, má húp lên, vẻ mệt mỏi. Chị ta đưa trán ra cho chồng hôn, rồi nói: “Ta sang ăn ở buồng ba để được gần cô. Con ở sẽ túc trực trong khi chúng ta ăn.”
Và anh chàng theo vợ sang nhà bên.
Cachelin đã ngồi vào bàn, chờ con gái và chàng rể. Một món gà nguội, một món trộn khoai tây và một đĩa cao chân đựng dâu tây đặt trên tủ bát, và xúp nghi ngút khói trong mấy chiếc đĩa.
Mọi người ngồi vào. Cachelin nói: “Tôi không mong có những ngày như thế này luôn. Chẳng vui tí nào.” Ông ta nói với một giọng thản nhiên và trên mặt có vẻ hài lòng. Và ông ta hùng hục ăn rất ngon lành, khen món gà ngon tuyệt và món khoai trộn thật mát ruột.
Nhưng Lesable thì lòng bồn chồn thấp thỏm, ăn qua loa, tai vểnh về phía buồng bên cạnh, bên đó im phăng phắc như không có ai cả. Cora cũng không thấy đói, lòng xúc động, sụt sịt, thỉnh thoảng lại lấy góc khăn ăn lau mắt.
Cachelin hỏi: “Thế nào, ông sếp bảo sao?”
Thế là Lesable kể lại từng chi tiết, vì ông nhạc muốn biết cặn kẽ, bảo kể đi kể lại từng ly từng tí, làm như ông ta vắng sở đã hàng năm rồi.
“Ở sở mà họ biết tin bà cô ốm, chắc dư luận xôn xao lắm nhỉ?” Và ông ta nghĩ đến cái lúc bà chị đã chết rồi, ông ta sẽ hãnh diện tới sở, lên râu với các bạn đồng sự; tuy nhiên, dường như để phân bua vì một chút hối hận ngấm ngầm nào đó, ông ta nói: “Chẳng phải là tôi muốn điều không hay cho bà chị tôi đâu. Chúa chứng minh rằng tôi hằng cầu mong cho bà chị ở lại mãi với tôi, nhưng dù sao, nếu có sự chẳng may thì chắc ảnh hưởng nhiều lắm. Lão Savon cũng đến quên cả Công xã.”
Người ta vừa bắt đầu dùng món dâu tây thì cửa buồng người ốm hé mở. Như bị điện giật, cả ba người đang ăn đứng phắt dậy một lượt, ngơ ngác. Và con ở nhỏ bước ra, vẻ mặt vẫn bình thản và đần độn như thường. Nó thản nhiên nói: “Bà tắt thở rồi.”
Thế là Cachelin, ném khăn xuống đĩa, nhảy xổ vào như một thằng điên; Cora theo sau, tim đập mạnh; duy Lesable đứng lại bên cạnh cửa, từ xa nhòm vào cái vệt nhờ nhờ của chiếc giường trong ánh chiều mờ nhạt. Anh ta nhìn thấy lưng ông nhạc nghiêng về phía giường, không nhúc nhích, xem xét; và bỗng chốc anh nghe tiếng nói của ông ta như từ xa, xa lắm, từ bên kia thế giới đưa lại, một thứ tiếng nghe trong cơn mộng và nói lên những điều quái gở. Tiếng đó nói: “Thế là xong! Không còn nghe thấy gì nữa.” Anh ta thấy vợ ngã khuỵu xuống, trán đè lên đệm và khóc nức nở. Thế là anh quyết định bước vào, và vừa lúc Cachelin ngẩng lên thì anh ta trông thấy, trên nền gối trắng, mặt bà cô Charlotte, hai mắt nhắm nghiền, mặt hốc hác, cứng đờ, nhợt nhạt đến mức tưởng như một người bằng sáp.
Anh băn khoăn hỏi: “Đi thật rồi à?”
Cachelin, cũng đang ngắm bà chị, quay lại, và họ nhìn nhau. Ông ta đáp: “Ừ”, mặt cố làm ra vẻ thiểu não, nhưng cả hai người chỉ một cái đưa mắt là thông cảm nhau ngay, và rất tự nhiên, không hiểu tại sao, họ đưa ra bắt tay nhau, như để cảm ơn lẫn nhau về những sự người này đã giúp người kia.
Thế là, không mất thì giờ, họ tích cực thu xếp mọi việc cần thiết cho một người chết.
Lesable tự nhận đi tìm thầy thuốc và, rất khẩn trương, chạy đi những nơi cần gấp.
Anh ta lấy mũ, chạy xuống cầu thang, mau cho ra đến ngoài phố để được một mình thở khoan khoái, suy nghĩ, một mình hưởng nỗi sung sướng của mình.
Sau khi làm xong mọi việc, anh không về nhà vội để đi ra phía đại lộ, ý muốn ngắm nhìn thiên hạ, hoà mình vào mọi hoạt động, vào cuộc sống vui nhộn buổi tối. Anh ta muốn thét vào tai mọi người qua lại: “Tớ có năm vạn li-vrơ lợi nhuận”, và anh bước đi, hai tay đút túi, ngừng lại trước các cửa hàng, ngắm nghía những loại vải đắt tiền, những đồ tư trang, những đồ đạc sang trọng, với ý nghĩ vui vui: “Bây giờ ta có thể sắm những thứ này được rồi.”
Bỗng anh đi qua một cửa hiệu bán đồ phúng viếng và một ý nghĩ đột nhiên thoáng qua óc: “Ngộ nhỡ bà cô chưa chết thì sao? Nhỡ họ lầm thì sao?”
Thế là anh quay về nhà, đi vội vàng, với mối nghi ngờ phấp phỏng đó.
Về đến nhà, anh hỏi: “Bác sĩ đã đến chưa?”
Cachelin đáp: “Đến rồi. Ông ấy chứng nhận đã chết và nhận việc khai báo.”
Họ trở vào buồng người chết. Cora ngồi trên một chiếc ghế bành, vẫn khóc. Chị khóc rất dịu dàng, nhẹ nhõm, bây giờ gần như hết buồn rồi, với nước mắt dễ dàng của người đàn bà.
Khi cả ba người đều ở trong buồng, Cachelin khẽ nói: “Bây giờ con ở nó đi ngủ rồi, ta thử xem có cái gì giấu ở trong các đồ đạc không.”
Thế là hai người đàn ông tiến hành công việc. Họ moi móc các ngăn kéo, lục lọi các túi, bất cứ một mảnh giấy nào cũng mở ra. Cho đến nửa đêm chẳng tìm thấy cái gì đáng chú ý. Cora đã thiu thiu, chị ta khẽ ngáy, đều đều. César hỏi: “Ta có ở đây cho đến sáng không?” Lesable, phân vân, cho rằng như thế thì phải hơn. Tức thì ông bố vợ nảy ra ý kiến: “Nếu thế, ta khuân những ghế bành sang đây.” Và họ sang buồng đôi vợ chồng trẻ, kiếm nốt hai chiếc ghế đệm sang.
Một giờ sau, ba bố con đều ngủ, mỗi người ngáy theo một điệu, bên cạnh cái thi hài giá lạnh trong giấc ngủ ngàn năm.
Sáng ra họ sực tỉnh, lúc con ở vào buồng. Cachelin liền thú thật, tay còn dụi mắt: “Tôi vừa chợp mắt độ non nửa giờ.”
Nhưng Lesable, trấn tĩnh được ngay, tuyên bố: “Đúng thế đấy. Còn tôi, thì chẳng thiếp đi được một giây; tôi chỉ nhắm mắt lại cho nó đỡ mệt.”
Cora trở về buồng mình.
Bấy giờ Lesable làm ra điệu dửng dưng hỏi: “Thế bao giờ ông định đến phòng quản lý văn khế xem chúc thư?”
“Thì… ngay sáng hôm nay có được không?”
“Có cần để Cora cùng đi không?”
“Có lẽ thế thì hơn, đằng nào thì nó cũng là người thừa kế.”
“Nếu thế thì tôi đi bảo nhà tôi sắm sửa.”
Và Lesable nhanh nhẩu bước ra.
Phòng giấy của chưởng khế Belhomme vừa mở cửa thì Cachelin, Lesable và vợ đã tới, mặc đồ đại tang, bộ mặt đau đớn.
Viên quản lý văn khế tiếp họ ngay, mời ngồi. Cachelin cất tiếng nói: “Thưa ngài, chắc ngài biết tôi: tôi là em bà Charlotte Cachelin. Đây là con gái và chàng rể tôi. Bà chị tôi xấu số vừa qua đời hôm qua; ngày mai thì chúng tôi làm lễ an táng. Vì ngài là người được ký thác chúc thư của chị tôi, cho nên tôi đến để hỏi xem chị tôi có dặn lại ý muốn gì về việc chôn cất không, hay ngài có điều gì thông báo cho chúng tôi chăng.”
Viên quản lý văn khế mở một ngăn kéo, lấy ra một chiếc phong bì, xé ra, rút một tờ giấy, và nói: “Thưa ngài, đây là một bản kép của bức chúc thư ấy, mà tôi có thể để ngài biết nội dung ngay bây giờ.”
“Bản kia, cũng y như hệt bản này, tôi phải giữ.” Và ông ta đọc:
“Tôi, tên là Victorine-Charlotte Cachelin, bày tỏ ý muốn cuối cùng của tôi như sau:
“Tôi để lại toàn bộ tài sản của tôi, tổng số chừng một triệu mười hai vạn quan, cho những đứa con đẻ ra do cuộc hôn thú của cháu gái tôi là Céleste-Coralie Cachelin, bố mẹ chúng được hưởng lợi tức cho đến khi đứa con lớn nhất trưởng thành.
“Những điều khoản nói sau đây quy định phần của cải chia cho mỗi đứa con và phần dành cho bố mẹ chúng cho đến ngày họ qua đời.
“Trong trường hợp tôi chết trước khi cháu gái tôi có con, tất cả tài sản của tôi vẫn sẽ đăng ký ở phòng viên quản lý văn khế của tôi trong ba năm, để cho ý muốn của tôi ghi trên được thực hiện, nếu một đứa con đẻ ra trong thời gian đó.
“Nhưng trường hợp trời không cho Coralie có con trong ba năm sau khi tôi chết, thì tài sản của tôi sẽ do viên quản lý văn khế của tôi chia cho người nghèo và các cơ quan từ thiện, danh sách kể sau đây.”
Tiếp theo là một chuỗi dài những tên các đoàn thể, những con số, những khoản mệnh lệnh và những điều dặn dò.
Rồi chưởng khế Belhomme trịnh trọng trao tờ giấy vào tay Cachelin, đang chết điếng người.
Ông ta lại thấy cần phải giải thích thêm: “Cô Cachelin lần đầu tiên bày tỏ với tôi dự kiến làm chúc thư theo hướng đó, có ngỏ ý thiết tha muốn được trông thấy mặt kẻ thừa kế cùng máu mủ của mình. Mặc dầu mọi lý lẽ can ngăn của tôi, cô vẫn tỏ rõ ý muốn càng ngày càng dứt khoát của cô, dựa trên một cảm tính tôn giáo; theo cô thì mọi cuộc hôn phối không sinh nở đều là dấu hiệu Trời trừng phạt. Tôi không làm thế nào thay đổi được ý muốn của cô. Xin ngài hiểu cho rằng tôi rất lấy làm tiếc.” Rồi ông ta lại quay về phía Coralie, mỉm cười và nói thêm: “Tôi tin chắc rằng điều mong mỏi của người đã khuất sẽ mau chóng thực hiện được.”
Và cả ba bố con bỏ đi, tâm trí hoang mang chẳng còn nghĩ tới điều gì nữa.
Họ quay về nhà, đi bên cạnh nhau mà không nói một lời, vừa xấu hổ vừa tức giận, dường như họ đã đánh cắp lẫn nhau. Bao nhiêu nỗi đau đớn của Cora bỗng dưng tiêu tan, sự bội bạc của bà cô miễn cho chị khỏi phải khóc lóc. Lesable, hai môi nhợt nhạt mím chặt lại vì hờn giận, cuối cùng nói với ông nhạc: “Ông đưa tôi tờ chúc thư để tôi xem tận mắt ra thế nào.” Cachelin trao cho anh ta tờ giấy, và anh chàng chăm chú đọc. Anh dừng lại trên bờ hè, và mặc cho người qua lại va phải, anh cứ đứng nguyên một chỗ, bằng con mắt sắc sảo và thiết thực tra soát lại từng chữ. Hai người kia đứng chờ, cách đó hai bước, vẫn im bặt.
Rồi anh ta trả lại tờ chúc thư và tuyên bố: “Chẳng làm gì được nữa. Bà ấy chơi xỏ bọn mình một vố!”
Cachelin, cáu tiết vì bao nhiêu hy vọng tiêu tan, trả lời: “Cái đếch gì! Còn anh đấy, làm thế nào cho có con thì làm. Anh đã biết bà ấy mong muốn điều đó từ lâu rồi.”
Lesable nhún vai không đáp lại.
Về đến nhà, họ thấy một đám đông người đang chờ họ, đó là những phu đám ma. Lesable vào thẳng buồng mình, chẳng thiết mó đến việc gì nữa, còn César thì hục hặc với hết mọi người, kêu la xin để cho ông yên thân và yêu cầu họ làm thật mau tay cho cái xác chết kia khuất mắt đi.
Cora chúi vào buồng, chẳng thấy động tĩnh gì, Nhưng một giờ sau, Cachelin đến gõ cửa buồng con rể, và nói: “Này anh Léopold, tôi đến bày tỏ với anh vài ý kiến, vì đằng nào thì chúng ta cũng phải nhất trí với nhau. Tôi nghĩ rằng dù thế nào ta cũng phải chôn cất cho tươm tất, đừng để cho đằng bộ người ta nghi ngờ gì cả. Chúng ta thu xếp với nhau để trang trải mọi phí tổn. Vả lại, cũng chưa mất đi đâu. Anh chị lấy nhau cũng chưa lâu la gì, phải bất hạnh như thế nào thì mới không có con chứ. Rồi anh chị cứ cố gắng vào là được. Thôi mau lên. Lát nữa anh lại đằng bộ được không? Để tôi đi biên địa chỉ vào giấy báo tang.”
Lesable cay đắng nhận thấy ông nhạc nói có lý, và hai người ra ngồi đối diện nhau ở hai đầu một chiếc bàn dài để ghi chữ vào những tờ thiếp có khung đen.
Rồi họ ăn cơm trưa. Cora bước ra, dửng dưng với mọi việc không can gì đến mình, và chị ta ăn thật nhiều vì tối qua nhịn đói.
Ăn xong, chị lại trở về buồng. Lesable đi đến Bộ Hải quân còn Cachelin ra hiên gác, cưỡi lên một chiếc ghế để làm một mồi thuốc. Mặt trời oi ả của một ngày mùa hè rọi thẳng xuống muôn ngàn mái nhà, những mái có kính sáng loáng như lửa, hắt lên những tia chói loà, mắt không chịu được. Và Cachelin, bận sơ-mi trần, mắt nhấp nháy trong ánh nắng chan hoà, nhìn những ngọn đồi xanh ở xa kia, tít xa, phía sau thành phố, sau khu ngoại ô bụi mù. Ông ta mường tượng đến con sông Seine chảy thênh thang, êm ả và tươi mát, ở chân những ngọn đồi phủ cây kia, và ông nghĩ nếu được sống dưới bóng cây xanh, lăn mình trên cỏ, ngay bên bờ sông, liền với nước, chắc chắn rằng thú vị hơn là ở trên cái nền đá nóng bỏng của gác sân này. Và một nỗi tức tối làm ông nghẹn ngào, với cái ý nghĩ day dứt, cái cảm giác đau xót về mối tai hoạ kia, về điều bất hạnh không ngờ, hy vọng trước kia càng mãnh liệt và kéo dài bao nhiêu thì nay nó càng thêm cay đắng và tàn nhẫn bấy nhiêu, và như trong cơn hoảng hốt mất trí, trong cơn ám ảnh của những định kiến, ông văng ra: “Đồ đểu!”
Đằng sau ông, trong buồng, nghe tiếng hoạt động của những phu đám ma, và tiếng búa liên hồi đóng đanh vào áo quan. Ông ta không nhìn mặt bà chị nữa từ lúc ở nhà quản lý văn khế về.
Nhưng rồi dần dần tiết trời ấm áp, không khí vui tươi, ánh trời trong đẹp của ngày mùa hè sáng sủa đó thấm vào da thịt, vào lòng ông, và ông nghĩ rằng chưa phải là đã tuyệt vọng hẳn. Thì tại sao con gái ông lại không có con? Chị ta mới lấy chồng chưa đầy hai năm! Chàng rể ông ta có vẻ rắn rỏi, khoẻ mạnh, tuy có bé nhỏ một chút. Rồi chúng nó sẽ có con, lo quái gì! Vả lại, nhất định là phải như thế kia mà!
Lesable đi len lén vào bộ rồi chạy tọt vào phòng mình. Anh ta thấy ở trên bàn một mảnh giấy có viết mấy chữ: “Ông sếp gọi ông”. Thoạt tiên anh ta vùng vằng bực tức, phản đối cái lối độc đoán nó lại sắp đè lên cổ anh, nhưng rồi một ý muốn được đề bạt đột nhiên và mãnh liệt kích thích anh ta. Rồi sẽ đến lượt anh làm chủ sự, mà mau chóng; và anh ta sẽ còn nhảy cao hơn nữa.
Anh ta cứ mặc nguyên chiếc rơ-đanh-gốt đi phố để đến phòng ông Torchebeuf. Anh bước vào với bộ mặt thiểu não như người ta thường có trong những dịp buồn rầu, mà hơn thế nữa, trên nét mặt anh vô tình lộ ra một nỗi phiền muộn, chán nản thực sự và thấm thía do những điều bất mãn sâu sắc gây nên.
Cái đầu to tướng của ông sếp đang vẫn ngả trên giấy; chợt ông ta ngẩng lên và xẵng giọng hỏi: “Tôi cần đến anh suốt cả buổi sáng. Tại sao anh không đến?” Lesable đáp: “Bẩm ông sếp, bà cô chúng tôi, cô Cachelin, chẳng may qua đời, và tôi cũng định đến kính mời ông dự lễ an táng cử hành vào sáng mai.”
Mặt ông Torchebeuf lập tức bình tĩnh lại. Và ông ta trả lời có vẻ vì nể: “À anh bạn, nếu thế thì lại là chuyện khác. Cảm ơn anh và xin để anh được nghỉ, chắc anh bận lắm đấy nhỉ.”
Nhưng Lesable cố ý tỏ ra chăm chỉ: “Xin đa tạ ông sếp, mọi công việc đều xong xuôi rồi và tôi định ở đây làm việc đến hết giờ.”
Rồi anh ta quay về phòng mình.
Tin ấy lan đi, và từ khắp các phòng người ta đổ xô đến, để chúc mừng hơn là để chia buồn, và cũng để xem thái độ của anh ta thế nào. Anh chàng chịu đựng những lời nói và những con mắt nhìn với bộ mặt nhẫn nhục của người đóng kịch, với một thái độ làm người ta phải ngạc nhiên. Người này nói: “Hắn ta gìn giữ ý tứ khá lắm.” Người khác nói thêm: “Chẳng lạ gì, trong thâm tâm thì hắn mãn nguyện lắm rồi.”
Maze, bạo hơn mọi người, với vẻ trơ của một kẻ giao du nhiều hỏi: “Thế cậu có biết đúng con số tài sản là bao nhiêu không?”
Lesable trả lời bằng một giọng hoàn toàn không quan tâm: “Không, không rõ. Chúc thư nói vào khoảng một trăm hai mươi vạn quan. Mình biết được là vì viên quản lý văn khế đã báo ngay cho biết những điều khoản về lễ an táng.”
Theo dư luận chung thì Lesable sẽ thôi việc ở bộ. Khi người ta có sáu vạn tiền lợi nhuận thì chẳng ai còn đi làm nghề cạo giấy nữa. Người ta có vai vế rồi; người ta muốn trở thành ông gì mà chả được, có người nghĩ rằng anh ta nhằm một chân trong tham chính viện; kẻ khác cho rằng anh ta nghĩ đến một ghế trong nghị trường. Ông sếp thì đinh ninh rằng sẽ nhận được đơn xin thôi việc của anh ta để chuyển lên ngài giám đốc.
Toàn bộ cơ quan bộ đều đi đưa ma, và người ta thấy đám tang xoàng quá. Nhưng có dư luận: “Đó là ý của cô Cachelin muốn như thế. Chúc thư có ghi điều đó.”
Ngay ngày hôm sau Cachelin lại đi làm, còn Lesable thì vì mệt nghỉ mất một tuần, rồi cũng lại đến sở, người anh ta xanh đi một chút, nhưng vẫn siêng năng chăm chỉ như trước. Dường như không có sự gì xảy ra trong cuộc đời của họ. Người ta chỉ nhận xét thấy họ hút thuốc có ý phô trương những điếu xì gà gộc, họ bàn tán về lợi nhuận, về công ty hoả xa, về những giá khoản lớn, với tư cách của những người có cổ phần trong túi, và ít lâu sau người ta lại được biết họ có thuê một biệt thự ở thôn quê, vùng ngoại ô Paris, để qua mùa hè.
Người ta thầm nghĩ: “Bọn họ cũng keo kiệt như mụ già trước đây; đó cũng là gia truyền; gần mực thì đen; dù thế nào, giàu có như thế mà còn ở lại bộ thì chẳng oách tí nào.”
Qua một thời gian, người ta không nghĩ đến chuyện đó nữa. Họ đã bị xếp loại và phê phán dứt khoát rồi.