Chương 13 - Bên Ngoài.
Ba đứa trẻ đi qua khu vườn và quay lại con đường với những bức tượng nhân sư đặt hai bên. Rick và Jason kể lại cho Maruk nghe làm thế nào mà bọn chúng đến được xứ Punt, đồng thời bắt cô bé thề không được kể chuyện này cho bất cứ ai. Chúng kể cho Maruk về Julia và việc cô bé đã biến mất ở phía bên kia Cánh cửa Thời gian như thế nào. Chúng cũng kể lại những gì chúng biết về vị chủ nhân cũ. Jason còn tiết lộ rằng cậu vẫn ngờ ông ấy vẫn còn sống, và hiện đang ở đâu đó, có thể ở Kilmore Cove, hoặc bị cầm tù tại một nơi nào đó mà chẳng ai biết được.
Maruk kinh ngạc đến nỗi không thể thốt ra một từ nào. Ngay từ đầu cô bé đã nghi ngờ Jason và Rick đang giấu cô chuyện gì đó, nhưng câu chuyện này thực sự vượt xa trí tưởng tượng của cô bé. Nhưng không hiểu lý do vì sao, hai cậu bé khôi hài này khiến cô cảm thấy tin tưởng…
Bọn trẻ dừng lại tại cầu thang đi xuống nhà kho của Nhà khách để quyết định xem chúng cần phải làm gì.
Một bên là cầu thang sẽ đưa bọn trẻ trở lại chỗ Julia, bên kia là lối ra khỏi những bức tường thành, đi về phía thành phố bên ngoài. Về phía Cửa Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên.
“Nếu các cậu muốn đi tìm tấm bản đồ thì tớ không thể đi cùng các cậu được,” Maruk nói. “Tớ không được phép rời khỏi khu vườn của Ngôi nhà Sự sống.”
“Thật là ngớ ngẩn,” Rick lầm bầm.
Và vì Jason không có vẻ sẽ đáp lại, cậu lớn tiếng nhắc lại:
“NGỚ NGẨN.”
“Có thể như thế là ngớ ngẩn,” lúc này Jason mới đáp lại. “Nhưng Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên là manh mối duy nhất chúng ta có. Và chúng ta biết rằng cần phải nhanh lên!”
Rick lắc đầu, nghi ngờ.
Có vẻ như mọi việc rất khó khăn… Sau tất cả, bọn chúng chỉ có duy nhất một manh mối, một dòng chữ Tái bút: Tôi thích cất giữ tấm bản đồ trong Căn phòng không tồn tại.
Hơn nữa điều này còn có chút gì đó kỳ lạ, so với những dòng chữ được viết cùng kiểu chữ cái mà chúng đã tìm được trước đó: câu viết này không có vần, chẳng có vẻ gì như một bài thơ. Nó nhạt nhẽo và vô vị. Đúng thế đó.
Nhưng không vì thế mà nó trở nên kém phần bí ẩn.
Chính Maruk là người đập tan vẻ do dự của bọn chúng.
“Nghe này, chúng ta có thể làm thế này: tớ sẽ ở lại đây, trước kho của Nhà Khách để đợi Julia, trong trường hợp cậu ấy đến khi các cậu ở ngoài đó. Các cậu chỉ việc gợi ý cho tớ nói điều gì đó để cậu ấy hiểu rằng tớ thực sự ở phe các cậu.”
Đó có thể là một giải pháp. Không có sức thuyết phục, không hoàn chỉnh, nhưng dù sao vẫn là một giải pháp.
“Được rồi,” sau một lúc, Jason lên tiếng. “Chúng ta có thể làm như thế. Nếu Julia trở lại, chị ấy sẽ đến từ đúng căn phòng mà chúng ta đã gặp nhau.”
Maruk mỉm cười.
“Điều đó thì tớ hiểu rồi.”
“Cậu có thể nói với Julia rằng… rằng Rick và em trai chị ấy đã đi thực hiện một nhiệm vụ. Cậu có thể bảo chị ấy không phải lo lắng đâu, chúng tớ vẫn ổn.”
“Và rằng các cậu đã rất lo lắng cho cậu ấy.”
“Đúng thế,” Jason nhắc lại. “Hãy bảo chị ấy rằng chúng tớ đã lo lắng cho chị ấy. Và rằng trong mọi trường hợp chị ấy không nên chạy nhanh như thế mỗi lần tớ bảo chị ấy làm vậy.”
Jason vỗ nhẹ vào vai cô bé người Ai Cập.
“Cảm ơn Maruk. Cậu đúng là bạn tốt.”
Trước khi đi khỏi, Rick nói thêm:
“À này, Julia nhìn y chang Jason. Rất dễ nhận ra cậu ấy, bọn họ là chị em sinh đôi mà. Chỉ có điều cậu ấy,” cậu bé giữ lại trong cổ từ dễ thương. “cao hơn.”
Không nói một lời nào, hai đứa trẻ chìa ra hai con bọ cánh cứng là thẻ thông hành cho những người lính canh, đi ra khỏi Ngôi nhà Sự sống và quay lại thành phố Punt. Những con đường đằng sau các bức tường thành bị xâm chiếm theo đúng nghĩa đen bởi những quầy hàng đầy ắp các loại hàng hóa. Có tất cả mọi thứ: đủ loại động vật đang kêu be be, đang rống lên, cào xới và kêu ăng ẳng trong những chiếc lồng bằng liễu gai. Rồi những bức tượng và bát đĩa bằng thạch cao, những chiếc nón sơn tỏa ra mùi hương ngọt ngào, đám bình chứa đầy dầu thầu dầu, những ván bánh mì giòn, những giỏ chà là và vả, những chiếc thảm đan bằng lau sậy, áo choàng không tay bằng len và vải lanh, những người phụ nữ đang bày ra đủ các món đồ trang sức bằng đá quý để bán cho đám người giàu có hay lui tới khu chợ.
Jason băng qua giữa đám đông hỗn loạn đó mà không hề liếc mắt, trong khi đằng sau cậu, Rick dừng lại quan sát tất cả và bị những người bán hàng dè chừng. Cậu nhìn đâu cũng thấy cơ man là người, màu sắc, tiếng hét, lều bạt, tiếng gọi nhau, kêu la, huyên náo om sòm.
Và có quá ít thời gian để quan sát tất cả mọi thứ.
Bỗng Jason dừng lại khi đến một đoạn mở rộng của khu chợ. Trước mặt cậu là một người khổng lồ, da đen bóng như gỗ mun đang trông coi bốn người nối với nhau bằng một sợi xích ngồi buồn bã dưới đất.
“Ôi không!” Rick rên rỉ, nhớ lại những gì cậu bé đã được đọc trong cuốn nhật ký. “Chúng ta đang ở chợ nô lệ!”
Thực vậy, xung quanh đoạn đường mở rộng là những gian hàng nhỏ giống nhau, hàng hoá trong các cuộc mua bán là những con người bằng xương bằng thịt.
Đi quá lên một chút, con đường chuyển thành một con hẻm nhỏ bị tắc nghẽn bởi những quầy hàng đủ màu sắc sặc sỡ, giữa hai tòa nhà xiêu vẹo.
“Rick ơi,” Jason đột nhiên kêu lên. “Cửa hàng… Liệu kia có phải là nó không?”
Cậu bé chỉ một tòa nhà hình vuông, trông như được xây dựng từ gạch tái chế của Ngôi nhà Sự sống. Trên bức tường ngoài là những chữ tượng hình về biển, về bầu trời và về cuộc hành trình ban đêm của mặt trời.
Một bia đá trên mảnh đất trước lối vào ghi:
TIỆM NHỮNG TẤM BẢN ĐỒ BỊ LÃNG QUÊN
Những cơ hội độc nhất vô nhị để tìm lại đường đi.
“Tớ nghĩ là nó đấy,” Rick trả lời.
“Vậy chúng ta thử vào trong xem.”
Jason và Rick bước bốn bậc một xuống cầu thang dẫn đến lối vào và vén tấm rèm cửa lên. Mùi trầm hương và các loại hương thơm khác đang cháy rừng rực trong một lò than xồng xộc bốc ra. Trên trần nhà của căn phòng, có treo hàng chuỗi dây xích mạ bạc, trên đó lủng lẳng hàng trăm tấm bản đồ. Một chiếc bàn thấp lớn phủ những tấm giấy cói vẽ hình bờ biển, thành phố, sông ngòi, cảng và rừng cây với những cái tên kỳ lạ và huyền bí.
Bọn trẻ ngập ngừng tiến vào giữa những tấm bản đồ tưởng tượng, được vẽ bởi những nhà du hành phương Đông điên rồ, và những bản nhỏ bằng gỗ sơn trắng mà trên đó những người hay mơ mộng khác đã đánh dấu những chặng đường trong các chuyến du hành của mình. Bọn chúng lướt qua những tấm bản đồ chi tiết về thành phố Babel, nơi sử dụng tất cả những ngôn ngữ trên thế giới, và bọn chúng cũng thấy thành phố Ur, thành phố cổ xưa nhất của con người, được hình thành như thế nào. Ở một bên tường có treo một tấm bản đồ với những bức tường thành đen của một thành phố bị nguyền rủa, được những người có sừng ở giữa trán xây dựng lên. Trên một bức tường khác là những tấm bản đồ về một đất nước được xây trên bầu trời, chỉ có thể đến được đó vào mùa đông, khi cơn mưa bị đóng băng và tạo thành một cây cầu cực kỳ mỏng manh nối liền những ngọn núi cao ngất và những đám mây. Con sông Nil, ngoằn nghèo và vô tận, có mặt ở phần lớn những bản đồ về sông ngòi, các chỉ dẫn trên đó được viết kiểu bình dân hay với những chữ cái tượng hình mạ vàng thanh lịch. Một vài tấm bản đồ được viết bằng bảng chữ cái của người Phoenicia, những thương gia lớn từ phương Bắc, các tấm khác thì được viết bằng những ngôn ngữ xa lạ. Trong cửa hàng, dường như tất cả mọi thứ hòa lẫn vào nhau, khiến những thế giới cách xa vô cùng được xích lại gần nhau.
Ngay khi tấm rèm che lối vào đóng lại sau lưng bọn trẻ, những âm thanh từ khu chợ bị thế chỗ bởi những tiếng nói tưởng tượng đến từ những tấm bản đồ. Hai đứa trẻ lập tức cảm thấy bị thu hút bởi những địa danh, những cái tên và câu chuyện bất tận ẩn giấu trong nét mực. Không có bất cứ hành lang nào của Ngôi nhà Sự sống vĩ đại mang một không khí bí ẩn mạnh mẽ như thế này.
Đi sâu vào trong cửa hàng, Jason lướt qua lớp vải thô ráp của một tấm bản đồ mô phỏng hàng trăm căn phòng của một cung điện, được nối với nhau bằng cầu thang và hành lang. Rick thì bị cuốn hút bởi một tấm bản đồ vẽ trên mặt bàn gỗ, mô tả những hành trình và bến tàu biển.
Hai đứa trẻ giật mình hoảng sợ khi một giọng nói khàn và mạnh mẽ cắt ngang một cách cộc cằn.
“Này! Các cậu bé, các cậu đến đây chỉ để ngắm nghía và sờ mó, hay là muốn mua một trong những tấm bản đồ của ta?”
Jason lập tức quay về hướng phát ra tiếng nói, và trong góc cạnh lối vào, cậu nhìn thấy một ông già với ánh mắt trắng đục và mái tóc lưa thưa, đang ngồi lọt thỏm trên một chiếc ngai đầy gối.
Ông ta ngâm chân trong một cái bát lớn đầy nước đang bốc hơi nghi ngút, bên cạnh là một bức tượng cá sấu được buộc vào chiếc ghế bằng một sợi dây chắc chắn.
“Buổi sáng tốt lành, thưa ông!” Jason lắp bắp, tiến thêm một bước về phía ông già.
Nhưng ngay khi cậu bé chuẩn bị bước thêm bước nữa, thứ mà cậu bé nghĩ là một bức tượng cá sấu chầm chậm mở mắt. Nó có hai con ngươi khổng lồ màu vàng, chẻ đôi bởi mống mắt thẳng đứng, đen tối. Jason sững người, trong khi ở phía sau cậu bé, Rick cất giọng run rẩy:
“Thứ đó còn sống sao ạ?”
Ông già cười khẩy với giọng khàn khàn.
“Ha ha…” Ông ta vừa cười vừa đặt tay lên mõm con cá sấu, bàn tay to đùng, béo đến mức thịt của các ngón tay nuốt chửng những chiếc nhẫn. “Cậu ta hỏi xem mày còn sống không đó, Talos.”
Talos, như để nhấn mạnh sự vô lý của câu nói, ngay lập tức mở rộng miệng, để lộ ra ba hàng răng sắc nhọn.
Jason và Rick sợ hãi lùi lại.
Con cá sấu đóng hàm lại, tạo ra âm thanh của một chiếc bẫy bị sập còn chủ nhân của nó động đậy chân trong chậu nước.
“Vậy, các cậu… hãy cho ta biết hai người ngoại quốc như các cậu làm gì trong một cửa hàng như của ta vậy?”
Thấy hai cậu bé do dự, ông nói thêm:
“Chỉ cần nhìn chóp mũi là đủ để biết các cậu là người nước ngoài và có thể đã lạc đường. Vì vậy, theo một nghĩa nào đó thì các cậu đã đến đúng chỗ rồi đấy…”
Jason hít thật sâu, sau đó quyết định trả lời:
“Thực ra ông nhầm rồi ạ. Chúng cháu hoàn toàn không phải người nước ngoài và cũng không bị lạc đường. Chúng cháu đến từ Punt… và đang tìm kiếm một thứ rất đặc biệt. Phải vậy không?” Cậu vừa nói thêm vừa quay sang phía Rick.
“Chính xác. Ừm… Chúng cháu đang tìm một… tấm bản đồ.”
“Một tấm bản đồ! Ha ha ha!” Ông già ho húng hắng và chỉnh lại tư thế trên chiếc ngai. “Hôm nay hẳn phải là một ngày may mắn của ta. Vậy, ta có thể hỏi… các cậu đang tìm loại bản đồ nào không?”
“Chúng cháu đang tìm tấm bản đồ Kilmore Cove.” Jason trả lời với vẻ cực kỳ nghiêm túc.
“Lạy tất cả các vị thần của Thượng và Hạ Ai Cập!” Ông già kêu lên, vỗ vỗ lên Talos bằng bàn tay múp míp. “Đây thực sự là ngày may mắn của ta. Có tới hai người hỏi ta về cùng một tấm bản đồ chỉ trong nửa ngày! Nó hẳn là một tấm bản đồ vô cùng quan trọng khi cả phụ nữ và trẻ em đều tìm kiếm.”
Jason và Rick bỏ qua lời châm chọc đó và hỏi:
“Ý ông là đã có ai đến hỏi tấm bản đồ đó rồi sao?”
“Ha ha! Chính thế!” Ông già nhấc một bàn chân khỏi cái chậu, kiểm tra với một sự chú tâm đáng kinh sợ rồi sau đó nhúng nó trở lại nước. “Người phụ nữ đó đến đây cùng với một người của ta… Đáng lẽ các cậu phải nhìn thấy cô ta: một nữ tu cuồng loạn, đã khiến cho Talos ngay lập tức bị kích động… Và các cậu nên biết là nó không chịu đựng được những con người vô cùng điên khùng.”
Jason và Rick nhìn nhau: là Oblivia Newton và cậu thanh niên người Ai Cập.
“Ông đã nói gì với cô ta ạ?”
“Những gì mà ta sẽ nói với các cậu. Rằng ta không sở hữu tấm bản đồ đó, và thành thực mà nói, ta tin là nó hoàn toàn không tồn tại. Nếu nó đã từng ở bên trong Bộ sưu tập, và có giá trị nào đó… thì một trong những người của ta đã báo cho ta biết rồi. Hoặc ít nhất đã sao chép cho ta một bản.”
“Cho dù ông thích ăn cắp những bản gốc hơn, đúng không ạ?” Jason bật thốt ra.
“Ha ha! Miệng lưỡi cậu sắc bén đó, cậu nhóc! Nhưng hãy chú ý: ai muốn cắt quá nhiều thì cuối cùng sẽ tự làm mình bị thương…”
Ngay khi ông già dứt lời, Talos quẫy đuôi đằng sau chiếc ghế.
“Và… ‘ăn cắp’ là một từ xấu xí. Các cậu không nghĩ rằng đó là một sự lãng phí trí tuệ và sức lực khi để mục rữa tấm bản đồ nào đó trong Ngôi nhà Sự sống, khi mà nhiều người khác sẵn sàng trả số vàng bằng cân nặng của các cậu chỉ để sở hữu nó ư?”
“Ngôi nhà Sự sống mở cửa cho tất cả mọi người,” Rick đáp lại.
“Nhưng những tấm bản đồ thì không. Những tấm bản đồ được vẽ ra chỉ để cho ai biết đọc chúng. Mỗi người đều có tấm bản đồ của riêng mình. Mỗi người, cậu bé ạ, đều có con đường riêng của mình để tìm ra…”
Rick và Jason đợi một vài giây trước khi lặp lại lời yêu cầu.
Khuôn mặt ông lão bị che khuất một phần do bóng tối trong cửa hàng, một phần bởi những nếp nhăn xô nhau: chỉ có thể nhìn thấy miệng của ông, thường bật ra những tiếng cười kỳ cục đi kèm lời nói.
“Nhưng chúng cháu tin là tấm bản đồ đó tồn tại…” Jason nói.
“Ngay cả nữ tu cuồng loạn trước đó không lâu cũng nói như vậy với ta. Ha ha! Và ta đã bảo cô ta tự đi tìm nó, bằng cách hỏi những người Bảo vệ, hoặc tìm trong những Kho Lưu Trữ Bị Chôn Vùi, nơi lưu giữ những thứ vẫn chưa được phân loại, hoặc đã hết hạn thanh toán. Ta đã cử một người của ta đi cùng cô ta, dĩ nhiên là với điều kiện nữ tu cuồng loạn đó trả công cho dịch vụ trợ giúp…”
“Cháu không nghĩ là tấm bản đồ đó nằm trong Kho Lưu Trữ Bị Chôn Vùi, và những người Bảo Vệ sẽ không thể nói cho cô ta biết thêm điều gì đâu.” Jason tuyên bố.
“Đó cũng là những điều ta đã nói với cô ta, cậu nhóc bẻm mép ạ, nhưng cô ta nổi điên lên và muốn trả công ai đó giúp cô ta tìm kiếm tấm bản đồ đến nỗi ta không thể không mời chào một lời đề nghị giúp đỡ nho nhỏ. Ha ha ha!”
“Chúng cháu biết chắc chắn là tấm bản đồ đó nằm trong Bộ sưu tập,” Rick xen vào. “Nhưng ai đó đã chuyển nó đi chỗ khác.”
“Ha! Ha! Và người đó đã để nó ở đâu?”
Jason và Rick nhìn nhau một hồi lâu. Sau đó, Jason gật đầu, thở dài và Rick nói:
“Nó đã được chuyển tới Căn phòng không tồn tại.”
Ông già ngừng cười ngay lập tức và có vẻ như sắp đứng dậy. Ông ta cúi đầu về phía trước, để lộ hoàn toàn khuôn mặt dưới ánh sáng.
“Cậu nói gì?”
Lần này Rick lặp lại với giọng hơi run rẩy.
“À!” ông già kết luận, nặng nhọc thả mình xuống lưng ghế. “Vậy thì đấy lại là chuyện khác.”
“Tại sao vậy?”
“Các cậu còn nhỏ, quá nhỏ để bắt đầu cuộc tìm kiếm này,” ông già thốt lên với giọng kích động. “Hãy ra khỏi đây mau! Tìm những đứa tầm tuổi các cậu rồi rủ nhau ra hồ mà chơi ném thia lia. Hoặc lấy một bàn cờ mà chơi trò senet. Chơi súc sắc, cứ làm tất cả những gì các cậu muốn, nhưng hãy quên tấm bản đồ này đi! Và trên hết là quên Căn phòng không tồn tại đi!”
“Chúng cháu không thể. Nó rất quan trọng với chúng cháu.”
“Chỉ có một điều duy nhất quan trọng với các cậu thôi…” Lúc này ông già gầm lên, “đó là thời gian! Các cậu có thời gian! Và đừng lãng phí nó bằng việc theo đuổi một thứ không tồn tại! Đi! Đi khỏi đây! RA NGOÀI!”
Rút chân ra khỏi cái chậu, ông già giật mạnh đuôi Talos, con vật bò lồm cồm trên mặt sàn, lao về phía trước.
Rick không di chuyển một phân. Ngay cả khi cái chậu đổ ngang ra sàn nhà, Jason hét lên và con cá sấu - với ba mươi nghìn cái răng nhọn hoắt - lao vào cậu, Rick vẫn không di chuyển một phân. Trái lại, cậu còn nhận thấy con vật với lớp da rắn như bọc sắt đó di chuyển thật quá ư vụng về.
Và khi hàm răng của Talos táp vào không khí cách mũi cậu bé một bàn tay, cậu vẫn đứng im như tượng.
Sau đó, cuộc tấn công kết thúc bất ngờ như khi nó bắt đầu.
Ông già hét một câu ra lệnh khô khốc và con vật lùi lại một cách tiếc nuối, bò lại chỗ náu mình dưới chân ông chủ.
Trong không khí vẫn còn lưu lại mùi chua chua ghê tởm bốc ra từ hơi thở của con vật.
Rick không hề nhúc nhích lấy một bước, và rất lâu sau này, khi tình cờ nghĩ lại khoảnh khắc đó, cậu cũng không thể giải thích được chính xác điều gì đã xảy ra với mình lúc đó. Có lẽ cậu thực sự tin rằng mình có thể bị một con cá sấu, nuôi trong phòng khách và bị buộc vào chiếc ghế của tên trộm già bằng một sợi dây, nuốt chửng. Hoặc cậu sợ hãi đến nỗi đã lựa chọn một cách vô thức con đường nhanh nhất để thoát khỏi chuyện này: bị nuốt gọn bởi một miếng ngoạm và kết thúc sự đau đớn.
Chuyện là ngay khi Talos bình tĩnh lại, ông già loạng choạng tiến lại gần cậu bé tóc đỏ. Trên gương mặt nhăn nheo của ông hiện rõ vẻ ngạc nhiên, khâm phục thực sự.
“Lạy những vị thần của Thượng và Hạ Ai Cập!” Ông kêu lên, chầm chậm di chuyển trên đôi chân tật nguyền cho đến khi chạm nhẹ vào khuôn mặt bình thản của Rick.
“Ta thề trước mẹ ta đang được thần Anubi và những vị thần dưới địa ngục phù hộ, rằng ta chưa từng thấy một điều gì tương tự như vậy. Cậu là ai? Một anh hùng hay một kẻ điên?”
Con mắt bên phải của Rick khép lại rồi mở ra. Tấm áo giáp bóng loáng điên rồ đã khiến cậu không thể thực hiện bất cứ cử động nào giờ bắt đầu từ từ vỡ vụn và nhận thức về thực tại mà cậu đã trốn tránh trước đó từ từ trở lại trong tâm trí.
Ở đằng sau cậu, Jason ló đầu ra khỏi những tấm bản đồ cổ chất đống dưới bàn. Nhìn thấy Rick vẫn bình an vô sự, cậu bé phủi qua quần áo rồi đến bên cạnh bạn mình.
Ông già cũng nhìn cậu bé với ánh mắt khâm phục.
“‘Lưỡi Sắc’ và ‘Tim Đá’,” ông nói. “Ta chưa từng thấy điều gì tương tự! Ha! Giỏi lắm! Ta thích các cậu rồi đấy!”
Dứt lời, ông già quay lại ngồi thọt lỏm trên chiếc ngai của mình, lấy chân khều lại chiếc chậu đã cạn rọt.
Jason nhận thấy Rick sắp sửa ngã quỵ xuống, cậu nhanh chóng chạy đến đỡ, kéo cho cậu bạn một chiếc ghế đẩu để ngồi.
Sau đó cậu cũng lấy một chiếc ghế cho mình và nhìn chăm chăm vào khuôn mặt ẩn trong bóng tối của người chủ cửa hàng.
“Vậy thì,” cậu thì thầm, “bây giờ chúng ta có thể tiếp tục cuộc nói chuyện chứ ạ?”
“Lưỡi Sắc và Tim Đá…” Ông già lầm bầm, vừa nói vừa xoa đầu con cá sấu. “Chưa ai dám làm như vậy trước Talos! Có vẻ như ta đã đánh giá sai các cậu. Các cậu nghĩ sao về việc hợp tác với ta? Đúng lúc ta đang cần thay thế một số người.”
Jason quyết định thử tận dụng đến cùng chút tín nhiệm mà bọn chúng vừa tạo ra được, buông ra một câu với giọng điệu kẻ cả:
“Chúng cháu không có hứng thú, thưa ông. Chúng cháu đến đây vì muốn biết làm thế nào để tìm thấy Căn phòng không tồn tại.”
“Ha! Căn phòng đó là nỗi ám ảnh của ta đó, Lưỡi Sắc! Mỗi lần ta nghe nói về nó… ta như thể lại ngửi thấy mùi lửa và nhìn thấy những ngọn lửa, cao, rất cao, thiêu thành tro hàng năm trời lao động, ý tưởng, ý tưởng, ý tưởng…” Ông ta lặp lại những từ cuối cùng với giọng càng lúc càng nhỏ.
“Ông đang nói về trận hỏa hoạn nào vậy? Trận hỏa hoạn ở Bộ sưu tập vài năm trước ư?”
Trên gương mặt của người đàn ông lớn tuổi bỗng chốc lóe lên một tia sáng.
“Cậu Lưỡi Sắc đây đã biết câu chuyện đó rồi sao?”
“Có thể chỉ một phần thôi,” Jason trả lời. Sau đó cậu siết chặt tay Rick, để tiếp thêm sức mạnh cho người bạn của mình, và để ngầm nói rằng nếu cậu bạn muốn ngất đi vì sợ, thì cũng phải đợi thêm vài phút nữa.
“Hừ! Hừ! ÁÁÁ!” Oblivia Newton rú lên khi đôi giày cao của cô ta bị gẫy gót.
“Chào mừng cô đến với Kho Lưu Trữ Bị Chôn Vùi, cậu thanh niên Ai Cập đứng bên cạnh cô ta mỉm cười. Cậu đợi cho người phụ nữ rắc rối này ngừng la hét và cởi cả hai chiếc giày ra, sau đó thưởng cho cô ta một điệu cười khiến cô ta phát điên lên.
Oblivia ném đôi giày ra xa và quan sát xung quanh với đôi mắt ngứa ngáy vì bụi.
Đó là một không gian rộng lớn dưới lòng đất, một đường hầm được đào trong núi đá, chiếu sáng tù mù nhờ những chiếc đèn thầu dầu tỏa ra ánh sáng màu hổ phách mà cậu thanh niên vừa đi vừa thắp lên. Cát sa mạc lọt vào đây từ những bức tường và trên trần, chất thành đống trên những đồ vật chồng chất bừa bộn trên sàn đá.
“Thật kinh tởm!” Oblivia bình luận trong lúc cố giữ thăng bằng trên các đầu ngón chân, quá ghê sợ khi phải đặt cả bàn chân xuống đất. “Phải làm thế nào để định hướng ở trong này đây?”
“Cô đưa ra câu hỏi,” cậu thanh niên nói, “và với mỗi yêu cầu…
Oblivia ra dấu cho cậu ta bằng tay.
“Ta biết, ta biết. Ta phải trả tiền cho mỗi yêu cầu.”
May cho Oblivia vì cô ta biết thế giới hoạt động như thế nào và đã xuất phát từ Kilmore Cove với một đống bật lửa loại thường, mà trước đó cô ta đã bán đi với giá đắt như vàng tại chợ Punt. Một nhà buôn sau khi nhìn thấy những chiếc bật lửa hoạt động như thế nào đã đưa cho cô ta một núi deben, đồng tiền địa phương, tin chắc rằng mình đã thực hiện được vụ mua bán của năm. Và bây giờ những đồng deben đó đang mua cho cô ta các dịch vụ của những con người biến chất tại Xứ Punt.
Trong khi bước đi thật chăm chú đằng sau người dẫn đường của mình, Oblivia nghĩ tới mẩu nến mà cô ta tìm thấy trong hốc tường. Càng nhìn nó, cô ta càng tin rằng có ai đó đã đi trước một bước. Ai đó đã mang theo mình một cây nến thời hiện đại sản xuất tại Trung Quốc. Nhưng đó là ai? Và khi nào?
“Chúng ta đến nơi rồi, cậu thanh niên thầm thì, kéo cô ta ra khỏi suy nghĩ. Đây là người đàn ông của chúng ta.”
Oblivia nhướng một bên lông mày.
“Người đàn ông?” Cô ta hỏi.
Cậu thanh niên thì thầm vào tai cô ta rằng đây không phải lúc chỉ trích bề ngoài, bởi vì ông ta đã sinh ra và lớn lên dưới đó.
“Và thêm nữa,” cậu ta hứng thú nói thêm, “ông ta rất kiêu căng.”
Oblivia gật đầu. Có thể con người đứng trước cô ta kia chưa bao giờ soi gương trong suốt cuộc đời mình. Nếu không thì ông ta đã nhận thức được cơ thể mềm oặt và biến dạng của mình, cái đầu hình quả lê và đôi mắt lờ đờ có màu sữa ôi.
Việc giới thiệu diễn ra rất chóng vánh. Người đàn ông sống dưới lòng đất ngửi cô ta, đúng hơn là nhìn, và khi Oblivia đưa tay ra, thay vì nắm lấy, ông ta chăm chú xem xét nó như thể đó là một khoáng vật có giá trị. Oblivia cố gắng kiềm chế vẻ ghê tởm và tự thuyết phục mình rằng, nhờ vào sinh vật yếu ớt này, cô ta sẽ có thể tìm thấy thứ gì đó hữu ích.
“Rrrồi,” người đàn ông chuột chũi thì thào, buông tay cô ta ra. “Chính xxxác thì các vị đang tìm gì?”
Bọn họ giải thích cho người đàn ông mọi chuyện, nhấn mạnh cái tên Kilmore Cove.
Người đàn ông yên lặng một hồi lâu, lúc lắc cái đầu.
Cậu thanh niên ra hiệu cho Oblivia biết rằng đã đến lúc phải rút tiền ra. Đôi bàn tay của ông ta chộp vội những đồng tiền nhanh như con rắn thè lưỡi đớp mồi rồi nhét chúng vào trong túi.
“Ông ta làm gì được với chúng ở dưới này cơ chứ?” Oblivia nghĩ, nhưng quyết định không đào sâu vấn đề.
“Có thể có thứ gì đó cho các vị đấy.” Người đàn ông chuột chũi thì thào, dẫn họ đi giữa những đồ vật chất đống trong Kho Lưu Trữ Bị Chôn Vùi.
Bọn họ đi qua những bức tượng bị mất đầu và đám đồ gỗ cũ kỹ xiêu vẹo, những hộp đá chứa đầy các cuộn giấy da và những chiếc chum từ đó phát ra tiếng chạy láo nháo điên cuồng của lũ chuột.
“Các người cứ bảo dưới đây không có chuột đi,” Oblivia Newton lầm bầm, bất chợt nhận ra đôi chân trần của mình.
“Cccó chỗ này, hẳn phải được trời phú cho thính giác tuyệt vời,” người đàn ông chuột chũi trả lời cô ta. “Cccó rất nhiều chuột, vô cùng nhiều chuột… Lối này, các vị đi theo tôi. Những con chuột to lớn bậc nhất.”
Người dẫn đường trẻ tuổi lại tỏ vẻ nhạo báng, nhưng Oblivia vờ như không thấy. Cô ta đi đằng sau hai người kia, nhợt nhạt như một xác chết, chỉ chú tâm đến mục đích của mình.
Sau đó Oblivia chợt nghĩ đến Manfred. Tại sao cô ta lại không mang hắn đi cùng kia chứ? Manfred là một tay bắt chuột xuất sắc. Cô ta nắm lấy mẩu nến trong túi và bất chợt khựng lại: chỉ ít phút trước khi xuất phát, Manfred nói rằng hắn đã nhìn thấy ánh sáng chói lòa ở vách Salton Cliff, dưới Biệt thự Argo. Và tấm bản đồ Kilmore Cove đã biến mất khỏi cái hốc mà lẽ ra nó phải ở đó.
Có lẽ nào…?