← Quay lại trang sách

Chương 14 - Người Tìm Kiếm.

Gõ chân vào chiếc chậu gần như trống không tạo ra tiếng kêu xủng xẻng, ông già bắt đầu kể:

“Trước đây, ta từng là một trong những người Bảo vệ được tín nhiệm nhất… và tất cả những học giả vĩ đại nhất đã đến tìm ta, chỉ ta thôi… để tìm những bản viết cổ xưa nhất, những tấm bản đồ ở nơi chốn xa xôi nhất, và để khám phá ra bí mật của thế giới những vì tinh tú… Cho đến một ngày nọ, một người đàn ông xuất hiện trước mặt ta… Ha! Ta còn nhớ người đó rất rõ, làm sao mà ta quên được chứ! Ông ta đã nghiên cứu Bản viết trên giấy cói về sự thành lập của thành phố Punt được một thời gian, bản tường thuật về những con người đầu tiên đặt chân đến đây bằng đường biển, và với sự giúp đỡ của thần linh, họ đã xây dựng lên Ngôi nhà Sự sống. Ha, đúng vậy, cậu bé, Ngôi nhà Sự sống là tòa nhà lâu đời nhất của Punt, lâu đời hơn cả chính những hạt cát được đưa đến đây bởi lòng đố kỵ của những cơn gió nhiều năm sau đó, khi những Người Sáng Lập đã ra đi… Ha! Ra đi! Nhưng trên Bản viết về Thời lập quốc…”

“Trên đó viết gì ạ?”

“Có một lỗi sai. Bản viết chứa danh sách những căn phòng của Ngôi nhà và từ danh sách đó thấy được có một phòng bị thừa ra. Một nơi mà không người Bảo vệ nào khám phá ra. Một căn phòng mà dường như cả những Bậc thầy Thư lại cũng không hay biết về sự tồn tại của nó. Bằng cách tra cứu những danh sách cổ, ta đã đi đến một kết luận rằng Bản viết hẳn đã sai sót, và ta đã thông báo điều này cho vị học giả. Nhưng người đó không tin. Ông ta nói căn phòng đó chắc chắn có thật và sự tồn tại của nó hẳn đã bị che giấu bởi một điều bí ẩn có khả năng bảo vệ nó. Nhưng điều bí ẩn ư? Ha! Không có. Chẳng có bí ẩn nào cả. Các cậu hiểu không? Không có bí ẩn, bởi vì không có căn phòng nào cả. Đó chỉ là một sai sót trên Bản viết về Thời lập quốc thôi. Đó là Căn phòng không tồn tại.” Ông già trầm ngâm gãi mũi. “Ha! Ta đã tưởng rằng học giả đó nói đùa và rất nhiều ngày sau đó ta thực sự đã lãng quên ông ta. Nhưng người đó trở lại và… nói cho ta rằng đã tìm thấy căn phòng. Người đó nói đã giải mã được điều bí ẩn bảo vệ căn phòng. Ta đã hỏi ông ta ‘Điều bí ẩn gì vậy?’ Ha! Nó ở trên miệng và dưới mắt của tất cả mọi người! Ha! Người đó nói với ta như vậy đấy. Các cậu biết vì sao không? Để thách thức ta! Vì ta là người Bảo vệ giỏi nhất.” Ông già sải rộng cánh tay. “Và để tìm kiếm căn phòng đó, ta đã biến thành một ông già ốm yếu sống cùng với con cá sấu của mình như thế này đây.”

“Nhưng làm thế nào mà người đàn ông đó khiến ông tin rằng ông ta đã tìm thấy Căn phòng không tồn tại?” Jason hỏi.

“Ha ha! Người đó đã nói với ta rằng: ‘Khi ngươi tìm thấy căn phòng và bước vào đó, ngươi sẽ thấy bên trong một biểu tượng ba con rùa. Khi đó ngươi sẽ hiểu rằng ta đã nói với ngươi sự thật.’”

“Ba con rùa sao?” Jason hỏi, nhớ lại biểu tượng tương tự cậu tìm thấy trên thanh dầm cánh cửa mà bọn chúng đã đi qua khi ra khỏi cái hang của Biệt thự Argo.

“Cậu biết nó sao, Lưỡi Sắc? Cậu đã nhìn thấy nó rồi sao?”

“Chỉ một lần thôi ạ,” Jason thừa nhận.

“Vậy là cậu may mắn hơn ta rồi đấy, bởi ta vẫn chưa tìm ra nó. Mặc dù ta đã tìm kiếm hàng tháng, hàng năm trời, lơ là công việc của một người Bảo vệ và việc đó đã khiến ta bị đồng nghiệp ghét bỏ… Ta đã tìm kiếm căn phòng chỉ để chứng minh cho người đó... cái gì chứ? Rằng ta cũng giỏi như ông ta? Rằng ta là người tìm kiếm giỏi nhất thế gian? Lúc này ta cũng không biết trả lời các cậu như thế nào nữa, nhưng lúc đó thời gian của ta bị đốt cháy vội vã, bị nuốt trọn bởi cơn giận dữ từ những thất bại của ta, trong khi ngày đêm ta đi khắp những hành lang vô tận của Ngôi nhà, cho đến lúc phác thảo được mọi lối đi và hành lang bí mật của nó, cho đến lúc biết rõ mọi chỗ trú ẩn và mọi cánh cửa.

Ông già dường như đắm chìm trong hồi tưởng, đều giọng kể lại:

“Và nhờ vào những năm tháng điều tra đó, giờ ta hiểu rõ Ngôi nhà Sự sống như trong túi áo của mình vậy. Nhưng giờ đôi chân ta đã sưng lên và mắt cá chân của ta rên lên vì đau đớn mỗi lần đi bộ, ta không thiết đến những bí mật đó nữa. Ha ha! Nhưng ta có thể cử người vào trong đó mỗi lần ta muốn… Ta có thể cử họ đến bất cứ đâu, tới mọi hành lang, qua hàng trăm lối đi… Thứ duy nhất ta có thể đảm bảo với các cậu là không có Căn phòng không tồn tại nào trên đời hết!”

“Còn đám cháy thì sao ạ? Nó có liên quan gì đến câu chuyện không?” Jason hỏi.

Ông chủ cửa hàng quay đầu chầm chậm, như thể câu hỏi đó bất chợt khiến ông nhớ ra tất cả những gánh nặng tuổi tác của mình.

“Lần cuối cùng ta vào bên trong Bộ sưu tập với tư cách một người Bảo vệ, ta nghĩ mình đã tìm ra điều bí ẩn. Nó ở trên miệng của tất cả mọi người, người đó đã nói như thế… Ta đã tìm thấy một thứ ở trên miệng của tất cả mọi người, và không hiểu sao ta đã nghĩ đó chính là thứ mà người đó đã khám phá ra. Vậy là ta vội vã đi vào Ngôi nhà Sự sống, nơi mà ta đã ngây thơ đến tội nghiệp nghĩ mình tìm ra được lời giải đáp… Ồ, đúng vậy, ha!” Ông già kêu lên, lắc tay vịn của chiếc ngai đang ngồi một cách giận dữ. “Ta đã nghĩ mình biết phải làm gì! Ta đã chắc chắn mình sẽ tiến thêm một bước đến với đáp án!”

Giọng điệu ông ta bỗng chốc trở nên buồn rầu.

“Ta đã ngủ trong Ngôi nhà Sự sống và chờ bình minh lên. Lúc đó ta đã di chuyển những chiếc gương. Những chiếc gương đón lấy ánh sáng mặt trời và đã đốt cháy những tờ giấy cói. Và thế là hỏa hoạn bùng lên. Đúng vậy. Là lỗi của chính ta và cuộc tìm kiếm của ta! Ngay khi những tờ giấy cói đầu tiên bắt lửa, một cơn gió độc ác đã tiếp thêm sức mạnh cho ngọn lửa, làm đám cháy lan rộng từ hốc tường này sang hốc tường khác, từ tờ giấy này sang tờ giấy khác, từ chiếc bàn gỗ này sang chiếc bàn gỗ khác. Nói ngắn gọn, toàn bộ một khu của Bộ Sưu tập bốc cháy. BỐC CHÁY!” Ông già tiếp tục thầm thì. “Ta bị buộc rời khỏi Ngôi nhà Sự sống mãi mãi, và thế là ta ẩn náu tại đây, tạo ra bộ sưu tập những bí ẩn của riêng ta. Một bộ sưu tập những giấc mơ tan vỡ, để phân phát cho những kẻ mơ mộng điên khùng như ta…”

Khi nói những lời cuối cùng một tia sáng lấp lánh của sự sống trở lại đôi mắt ông già.

“... Với điều kiện là họ sẵn sàng thanh toán cho công cuộc tìm kiếm của mình.”

Tiếp đó là một khoảng lặng kéo dài.

“Điều bí ẩn đó… là gì ạ?” Rick cất tiếng hỏi. Cậu đã lấy lại được sắc mặt bình thường và rõ ràng là trông có sức sống hơn lúc trước.

“Ha! Ha!” Ngồi trên chiếc ngai, ông già rên rỉ. “Tim Đá nghe nhưng không hiểu… Không có bí ẩn nào cả. Và không có bất cứ Căn phòng không tồn tại nào cả!”

“Nhưng ông đã nói rằng người đó đã tìm thấy nó…”

“ÔNG TA KHÔNG TÌM THẤY BẤT KỲ CĂN PHÒNG NÀO CẢ, BỞI VÌ CĂN PHÒNG ĐÓ KHÔNG TỒN TẠI!” Ông già hét lên, làm rung sợi dây của Talos.

“Nhưng người đó nói rằng căn phòng được bảo vệ bởi một điều bí ẩn, rằng nó ở trên miệng của tất cả mọi người…” Rick khăng khăng. “Và ông nghĩ rằng chính ông đã tìm ra nó. Vậy điều bí ẩn đó là gì?”

“Có thể cậu quá ngốc nghếch để có thể hiểu điều này, cậu bé: không có bất cứ bí ẩn nào cả!”

Jason đứng dậy khỏi chiếc ghế đẩu.

“Nếu vậy, chúng cháu đang làm ông mất thời gian rồi. Cám ơn ông vì câu chuyện. Chúng cháu sẽ tìm đọc Bản viết về Thời lập quốc.”

Ông già cười phá lên.

“Bằng cách nào chứ? Bản viết đó đã bị cháy rụi do vụ hỏa hoạn, cùng tất cả những thứ liên quan đến Căn phòng không tồn tại…”

“Vậy thì chúng cháu sẽ đi tìm ở nơi khác,” Jason đáp.

“… ngoại trừ một thứ,” người chủ cửa hàng ranh mãnh nói thêm.

Sau đó ông ta bắt đầu chầm chậm gãi đầu Talos.

Trong khu vườn của Biệt thự Argo, Manfred đang giận dữ la hét và đe dọa.

Julia bịt tai lại.

“Tại sao hắn lại la hét thế? Chúng ta đã làm gì hắn sao? Người đàn ông này là ai hả ông Nestor?”

Manfred chạy như một kẻ điên xung quanh căn nhà, tìm mọi cách để vào bên trong. Hắn đá vào cánh cửa phòng bếp, vào cánh cửa chính, vào cửa kính ở sân hiên. Tất cả đều đóng kín.

Hắn càng đá, ông Nestor càng bừng bừng lửa giận. Nhưng ông lão làm vườn biết rõ, nếu đối mặt với kẻ cục súc đó thì ông chắc chắn sẽ thua.

Julia và ông Nestor đành chấp nhận ở yên trong căn nhà như hai người bị vây hãm, trong khi Manfred trút cơn giận dữ lên những cánh cửa của Biệt thự Argo.

Mọi việc còn tệ hơn khi hắn dừng la hét.

Họ không nhận ra điều đó ngay, nhưng khi sự im lặng kéo dài quá lâu, Julia đánh bạo nói:

“Có thể hắn đi rồi!”

Nhưng chỉ cần nhìn qua sân hiên, cô bé đã thấy chiếc xe hơi vẫn còn đỗ trong sân.

Không nói năng gì, Nestor đi theo sau cô bé như một chiếc bóng. Ông buông hai cánh tay cứng nhắc dọc bên hông và khuôn mặt đanh lại vì giận dữ. Những cảm xúc đó, thực tế, lại khiến ông trông vô cùng yếu đuối, và lần đầu tiên kể từ khi đến Biệt thự Argo, Julia nhận thấy ông như vậy.

“Hắn sẽ làm gì ạ?” Cô bé hỏi.

Nestor không trả lời, ông đi lên cầu thang và mở cánh cửa gương của tòa tháp canh. Ông đi vào căn phòng và bắt đầu nhìn kỹ khu vườn từ mọi cửa sổ.

Julia đi theo ông đến cánh cửa. Có cái gì đó kêu cọt kẹt trên mái. Hoặc có thể ở tầng gác mái.

Cô bé nhận thấy ai đó đã gia cố khóa cửa sổ hỏng của tòa tháp canh bằng một cái nêm gỗ.

“Ông Nestor, người đàn ông đó là ai thế?” Cô bé thầm thì hỏi lại.

“Đó là một câu chuyện xưa rồi.”

“Hãy kể cho cháu đi.”

“Không phải bây giờ, cô bé à… không…”

“Hãy kể cho cháu đi mà, ông Nestor!” Julia nài nỉ.

Cơn gió rít xung quanh tòa tháp canh như thể muốn cuốn nó đi theo cùng mình.

“Đó là một sai lầm,” ông Nestor nói. “Một sai lầm của bà Moore, từ rất lâu rồi. Đó là khi bà ấy muốn mang một chút hiện đại đến Kilmore Cove.”

“Hiện đại ư? Khi đến đây lần đầu tiên, Jason và cháu nghĩ rằng thời gian đã dừng lại ở đây từ thế kỷ trước.”

Người làm vườn cười khô khan, sau đó tập tễnh rời khỏi tòa tháp canh và đi về phía những cánh cửa sổ khác của ngôi nhà.

“Ta rất tiếc khi làm cháu thất vọng, nhưng mọi việc hoàn toàn không phải như thế đâu. Không may là thời gian luôn chạy như một gã điên vậy.”

Julia bắt kịp Nestor tại căn phòng của bố mẹ cô. Ông đã mở cửa chớp và đang nhìn ra ngoài, trong màn mưa, và chờ ánh đèn ngọn hải đăng đi qua để nhìn rõ cảnh vật.

Julia nhìn chăm chăm vào căn phòng bị bóng tối bao phủ, nhớ xem nó được trang trí như thế nào: một chiếc giường lớn có màn che màu ngọc lục bảo và những bức tranh phong cảnh cổ treo trên tường, màu vàng mặt trời.

“Sai lầm nào ạ?” Cô bé hỏi.

Nestor nán thêm một chút để nhìn ra bên ngoài cửa sổ, trước khi quyết định đóng cửa chớp lại và trả lời:

“Bà Moore đã mời vài người đến dùng trà. Ngài Moore không đồng ý, nhưng bà ấy… À, bà ấy lại vô cùng ngây thơ trong một số việc… Chỉ với một lời mời đó mà bà ấy không thể tống khứ những người đó ra khỏi ngôi nhà được nữa.”

Julia gật đầu.

“Người đàn ông này là một trong những người đó ạ?”

“Đúng vậy, hắn là tài xế… Nhưng hắn chỉ là một con rối vô giá trị thôi, ít nhất thì ông nghĩ vậy…”

Nestor băng qua căn phòng và nhìn hé qua từ phía bên kia của ngôi nhà.

“Hắn đã ở đây ạ?”

Gió rít lên, mang theo mưa.

“Nhiều lần, nhưng hắn không bao giờ được phép vào trong. Hắn hộ tống cô chủ của mình, Oblivia Newton. Cô ta thì đã vào đây. Chỉ một lần duy nhất. Sau đó cô ta không bao giờ được phép nữa. Và đều do một nguyên nhân.”

Julia tiến lại gần ông và cùng nhìn ra bên ngoài. Bất chợt cô bé hiểu ra tất cả.

“Ông Nestor, cháu sẽ nói điều này với bố mẹ. Ông yên tâm. Chúng cháu sẽ không bao giờ bán ngôi nhà này đâu.”

“Nói hay lắm, cô bé. Nói hay lắm.”

Trong vườn có tiếng nổ lớn.

“Kho dụng cụ,” người làm vườn thốt lên, nhận ra tiếng động. “Hắn đang cố gắng đi vào đó!”