Chương 15 - Những Người Giao Hàng Ở Xứ Punt.
Bên ngoài Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên, Rick kêu lên:
“Jason, chúng ta không thể!”
Jason ngừng việc tra cứu bản đồ thành phố Punt vẽ trên cuốn sổ ghi chép của Ulysses Moore.
“Tại sao cậu không thôi than vãn đi và thử giúp tớ một tay với tấm bản đồ này? Tớ chẳng hiểu gì cả. Đưa tớ cầm cái bọc chết tiệt đó nếu cậu muốn.”
“Nhớ là ‘cái bọc chết tiệt đó’ chứa những thứ đồ duy nhất mà chúng ta có về Kilmore Cove. Và nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì chúng sẽ là những thứ duy nhất mà chúng ta có. Trái lại, có khả năng lớn là vài nghìn năm nữa một nhà khảo cổ sẽ khai quật được nó dưới lớp cát sa mạc và sẽ chẳng hiểu gì hết!”
Jason thở hắt.
“Ồ, xem cậu nổi giận kìa! Giống hệt như chị tớ vậy.”
“Có thể bởi vì chị cậu có chút muối trong đầu đấy14.”
“Chúng tớ là chị em sinh đôi.”
“Thế thì sao?”
“Thế thì có khả năng rất cao là lượng muối đó chúng tớ đã chia đều cho nhau.”
“Vậy thì chắc hẳn nó vô cùng ít ỏi!” Rick càu nhàu, chỉnh lại chiếc bọc trên vai và dùng tay kiểm tra chiếc bọc mới đeo ở thắt lưng.
“Được, ngay khi gặp lại Julia, tớ sẽ nói điều này với chị ấy…”
“Cậu dám sao, Jason!” Rick kêu lên, cầm lấy cuốn nhật ký của Ulysses.
“Hãy cẩn thận với thứ đó! Cậu có nghe thấy những gì ông già đó đã nói với chúng ta không?”
“Có chứ. Ông ấy đã nói: ‘Ha! Ha!’ Và sau đó ông ấy khạc vào cái chậu!”
Đầu tiên Rick nghiên cứu hình vẽ trong cuốn nhật ký, sau đó cậu bực dọc nhìn xung quanh. Người dân tấp nập trong những bộ trang phục rực rỡ đi ngang qua mà không thèm liếc đến bọn chúng. Một cột tháp được dựng thẳng giữa quảng trường đánh dấu chỗ giao nhau của bốn con đường đất, ở giữa có một con kênh chảy qua.
“Giờ chúng ta có thể ở đâu được nhỉ?”
“Ha! Ha!” Jason trả lời.
Rick cố tỏ ra khinh thường, nhưng cuối cùng lại mỉm cười. Sau đó, khi sự bực dọc hoàn toàn biến mất, chân cậu bắt đầu loạng choạng.
“Ha! Ha! Đến đây, Talos! Có thể chúng ta có một nhiệm vụ hay ho cần giao cho hai chàng trai này đây.”
“Ha!”
Hai đứa cười phá lên, sau đó Rick để lại cuốn nhật ký vào chỗ cũ và nói:
“Nếu kia là cột tháp, bến cảng chắc hẳn ở phía kia.”
Thỏa thuận mà bọn chúng thương lượng với ông già ở cửa hàng vô cùng đơn giản: chúng sẽ giao hai đơn hàng trong thành phố cho ông già và ông ta sẽ tiết lộ cho bọn chúng manh mối duy nhất còn sót lại về sự tồn tại của Căn phòng không tồn tại.
“Chỉ hai đơn hàng thôi: các cậu đừng mất quá nhiều thời gian và có thể giữ lại tiền boa. Ha ha! Nhưng, nghe này, ta tin là các cậu hãy cư xử cho xứng là… hai chàng trai xứ Punt nhé.”
Hai đứa đã nhận lời và bây giờ chúng đang mang theo mình hai cái bọc da đựng hai tấm bản đồ. Tấm đầu tiên cần giao cho thuyền trưởng con thuyền Phoenicia, khởi hành đến Mycenae15. Tấm thứ hai thì cần đưa đến cho một semu, tức là một thầy thuốc, người này đang tổ chức một cuộc du hành tìm kiếm nguyên liệu mới cho các đơn thuốc của mình.
Không khó để tìm ra bến cảng. Ở phía Đông cột tháp, thành phố Punt thoải dần xuống khu vực một loạt các kè, bến và cầu tàu san sát trên mặt nước lóng lánh của sông Nil. Khi bọn trẻ đi xuống giữa những ngôi nhà bằng gạch không nung, ngay sát những chiếc xe bò, không khí trở nên mát mẻ và dễ thở hơn nhiều. Sau một ngày nóng nực, mặt trời bắt đầu xuống thấp, từ mặt nước thỉnh thoảng thổi tới một cơn gió nhẹ. Chính cơn gió này đã khiến Jason nảy sinh nghi ngờ đầu tiên.
“Nước mặn,” cậu bé nói, chạy lon ton đến bên cạnh Rick. “Đáng lẽ nó phải không mặn chứ?”
Rick không trả lời. Cậu bé quá tập trung vào việc cố gắng đi theo hướng đi đúng.
“Cậu có lý. Đó là nước biển…” Cuối cùng cậu bé nhận định khi bọn chúng đến mép nước.
Và thế là bọn chúng khám phá ra một điều rằng, Xứ Punt không nằm dọc theo con sông Nil, mà nhìn ra Biển Đỏ.
Con tàu Phoenicia, nơi bọn chúng phải giao đơn hàng đầu tiên, có thân thon và mũi tàu khiến chúng nhớ đến hình dáng mảnh dẻ của con tàu Metis. Thuyền trưởng là một người đàn ông Libi có tóc đen dài và gương mặt cháy nắng, ông đón chúng với một tràng cười sôi nổi.
“Hai cậu bé giao hàng mới của cửa hàng đây rồi! Thế nào, ông già đã sửa được tấm bản đồ của ta chứ?”
Rick giao cho người đàn ông cuộn giấy cói.
“Ngài có một con tàu thật đẹp!” Cậu nói, dùng con mắt chuyên gia nghiên cứu các cột buồm và cọc chèo.
“Nó đi đâu vậy ạ?” Còn Jason thì cất tiếng hỏi.
“Đến cảng Mycenae, men theo các vùng đất thấp hơn…”
Người đàn ông trải cuộn giấy dài xuống tận chân và bình luận:
“Tốt… tốt… Làm tuyệt lắm.”
Một nắm deben bay ra từ túi ông ta và đáp xuống bàn tay của bọn trẻ.
Sau đó, những đồng tiền này được dùng để đổi lấy hai chiếc bánh mì không có men hình nón, nhồi một hỗn hợp bốc khói gồm thịt cừu, gia vị cay, rau và cá Biển Đỏ.
Jason và Rick tự cho phép chúng tạm nghỉ ngơi, thả chân vắt vẻo trên cầu tàu. Trong khi đang ăn ngấu nghiến, bọn trẻ quan sát những con thuyền được chèo lái bằng những sào gỗ dài và đội thuyền được mạ vàng của Pharaon đang thả neo tại chính trung tâm của cảng.
Hỗn hợp nhân bánh mì đó là thứ ngon nhất mà bọn chúng từng được ăn.
Ít lâu sau, với cái miệng khô roong vì khát, bọn trẻ trở về chỗ cột tháp và hướng về khu ông thầy thuốc đang sống.
Rick phát hiện ra rằng rất dễ định hướng tại Punt: có thể nhìn thấy những bức tường khổng lồ của Ngôi nhà Sự sống từ mọi ngã tư đường, với biển ở phía đối diện. Những giao lộ vuông góc với nhau và những con đường lớn nhất phân chia nhiều khu phố. Những ngôi nhà nhỏ nhất thuộc về công nhân xây dựng; những ngôi nhà thấp và trải rộng đến ven các khu dân cư là nơi ở của những người nông dân; những ngôi nhà uy nghi hai, ba tầng, thuộc về những viên chức, thầy tu và, đích thị cả những thầy thuốc nữa.
Trong khi đang tìm người nhận đơn hàng, bọn trẻ tình cờ gặp một đám đông nhỏ xúm quanh hai nhạc công đang biểu diễn một bản tình ca. Một nhạc công, với khuôn mặt sơn trắng, đang kéo một nhạc cụ bộ dây, và thỉnh thoảng lại thổi lên một tiếng sáo ai oán. Người còn lại mặc đồ đen hoàn toàn và khuôn mặt bị lấm thứ đất đen như bùn, khá vất vả khi đánh trống và những chiếc đĩa thiếc, hoặc lắc sistrum16, một nhạc khí thuộc bộ gõ phát ra những tiếng kêu leng keng.
Jason và Rick nghe một vài đoạn và hiểu rằng khúc tình ca đang nói đến truyền thuyết về đôi uyên ương lạc mất nhau trong Ngôi nhà Sự sống.
“Tớ không bao giờ hiểu nổi tại sao những bài tình ca luôn luôn phải bi đát như thế.” Jason bình luận, khi bọn chúng bỏ lại đám đông sau lưng. “Nếu một trong hai người yêu nhau không chết thì hẳn người ta chẳng nghe chúng đâu.”
Rick không bình luận gì cả. Cậu biết rõ mẹ đã đau đớn biết bao nhiêu khi bố cậu mất tích ngoài biển khơi. Và cậu nghĩ bà sẽ không muốn nghe bản tình ca đẹp bi thảm kia một chút nào hết.
Bọn trẻ nhận ra chỗ ở của vị thầy thuốc nhờ hàng người đang đợi đến lượt mình trong mảnh sân bên ngoài ngôi nhà: đàn ông, đàn bà, trẻ em và người già tất cả đều kiên nhẫn đợi khám bệnh và xin kê đơn thuốc.
Rick và Jason tự xưng là những người đưa tin và vượt qua tất cả mọi người, đi vào phòng khám.
Đón chúng là một căn phòng thơm đầy những bồn nước được canh giữ bởi hai chàng trai cạo trọc đầu, một hàng cây lớn nhỏ đủ loại và một loạt đồ đựng bột tán. Những chữ viết tượng hình cho biết chúng là: phèn, đồng, ôxit sắt, đá vôi, natri carbonat và natri hidrocacbonat, lưu huỳnh, thạch tín, than. Ở trong những đồ chứa khác có bia lên men, mật ong, tủy sống và đất sét lỏng.
Vị thầy thuốc, mập mạp và sôi nổi, đang chuẩn bị cao xoa bóp cho một quý bà bị thương ở xương ống chân. Nhìn thấy bọn chúng đi vào, vị thầy thuốc nhận ra tờ giấy cói mà Jason mang theo bên người.
Ông quên luôn quý bà đó và vết thương của bà ta, hét lớn:
“Bản đồ! Bản đồ! Ta không còn dám tin nữa!”
Thầy thuốc giật nó từ tay Jason và không thèm liếc thêm cậu bé, ông ta bắt đầu đọc to và lướt thật nhanh qua tấm bản đồ.
Jason hắng giọng, cho đến khi cậu không thể xen vào cuộc độc thoại của vị thầy thuốc.
“Bọn cháu được nói rằng chúng cháu sẽ được nhận tiền boa sau khi giao đơn hàng này...”
“Tiền boa?” Vị thầy thuốc phun phì phì, trong khi hai má lại đỏ thêm. “Tiền boa cho một tấm bản đồ chưa hoàn thiện… và bị giao muộn sao? Hãy cảm ơn vì ta đã không đánh các ngươi! Biến khỏi đây ngay!”
Hai đứa trẻ tháo chạy ra ngoài. Tuy nhiên, khi đã ra ngoài, Jason thông báo cho tất cả những người đang xếp hàng chờ hãy khẩn trương vào bên trong, bởi vị thầy thuốc muốn chữa bệnh miễn phí cho tất cả mọi người.
“Chúng ta phải leo xuống đó sao…? - Oblivia Newton hỏi, cố kìm nén cơn rùng mình.
Người đàn ông chuột chũi đã dẫn họ đến một hố sâu trong lòng đất, nó là một cái giếng thẳng đứng phình rộng ở phần dưới và không nhìn thấy điểm kết thúc. Từ các phía nhô ra hàng trăm hành lang, nối với nhau bằng những lối đi bằng gỗ hoặc dây, ròng rọc và những mặt nghiêng, treo lơ lửng trong khoảng không giữa một rừng dây rợ nối với nhau.
Oblivia và người dẫn đường của cô ta đứng trước một chiếc xe kéo bằng gỗ, là một mặt phẳng chỉ lớn hơn miệng cống một ít, được nối với bốn sợi dây.
“Đđđúng…, chúng ta sẽ phải sử dụng nó.” Người đàn ông chuột chũi nói và mời Oblivia leo lên chiếc xe chuyển hàng thô sơ đó.
Những sợi dây nối với nó vắt ngang miệng giếng, dẫn đến một đường hầm nằm ở phía bên kia, hứa hẹn còn tối tăm hơn cả đường hầm mà bọn họ vừa từ đó đi ra.
“Thứ mà cô tìm nằm ở đó, ở phía bên kia. Nhưng để sử dụng phương tiện chuyên chở này, cần phải trả tiền.”
Oblivia nhìn cậu thanh niên người Ai Cập đang mỉm cười ranh mãnh:
“Tôi sẽ để cô đi một mình. Như vậy tôi sẽ giúp cô tiết kiệm được tiền.”
“Tử tế đấy! Rất tử tế…” Oblivia căm phẫn nói và tìm kiếm một vài deben. Cô ta mới chỉ lôi những đồng tiền ra khỏi túi là người đàn ông đã chộp lấy chúng với tốc độ chớp nhoáng như tắc kè bắt một con ruồi vậy.
“Đđđược rồi… Bây giờ cô có thể leo lên.”
Oblivia đặt chân lên mặt gỗ, nó kêu cót két và nghiêng sang bên một cách nguy hiểm, như thể sẵn sàng rơi vào vực thẳm tối tăm phía dưới.
“Chết tiệt! Thứ này sẽ không đỡ nổi tôi đâu!”
“Cccó chứ. Nó sẽ đỡ được cô. Hãy bám vào những sợi dây, người đàn ông chuột chũi bỗng thầm thì.”
Oblivia túm lấy một sợi dây, cẩn trọng thử sức bền của nó.
“Bây giờ chúng ta sẽ di chuyển.” Ông ta thông báo, và đẩy cô ả lên chiếc xe chuyển hàng.
Sau đó, không để cho Oblivia có thời gian kịp hét lên, người đàn ông đã đứng cạnh cô ta trên tấm gỗ và tháo chốt chặn, khiến tấm gỗ lao xuống phía dưới. Chiếc xe chuyển hàng cót két và nghiêng về một bên, trượt xuống khó nhọc dọc theo sợi dây chính đang chống đỡ một cách khó tin. Oblivia nhanh chóng nhận thấy mình đã ở phía bên kia cái giếng, trong một đường hầm hoàn toàn tối đen.
Đôi mắt cô ta dần thích nghi được với bóng tối và thấy đường hầm chứa đầy những bình, lọ bằng đất nung.
Người đàn ông chuột chũi hít hít không khí và đi sâu vào hai dãy bình khổng lồ.
“Hãy đến đây nnnếu muốn,” ông ta nói. “Nhưng ccchú ý vào những gì cô giẫm lên đấy.”
Trước khi đi theo ông ta, Oblivia ngoảnh lại. Người dẫn đường trẻ tuổi chào cô ta với vẻ chế giễu từ phía bên kia giếng. Kiên quyết không để hắn thoả mãn khi nhìn thấy mình hoảng sợ, cô ta quay về phía bóng tối, bước theo người đàn ông chuột chũi một cách quyết đoán.
Nhưng bàn chân vừa chạm đất, cô ta đã giẫm lên một cái gì đó lầy nhầy. Thứ đó co rúm lại cùng một tiếng kêu chít chít dưới bàn chân trần cô ta.
Oblivia Newton cố hít hơi để hét lên, nhưng không thể thốt ra bất cứ âm thanh nào. Cô ta đứng bất động, trên một chân, như một con chim cà kheo.
“Đừng sợ,” người đàn ông chuột chũi thầm thì trong bóng tối, cách cô ta vài mét về phía trước. “Chuột ở đây nhỏ lắm… và chúng sẽ bbbỏ chạy nnnếu cô đi thật chậm. Trái lại nhện thì không như thế. Cccô cứ giẫm lên chúng là được.”
“Tôi…” Oblivia thì thào, cô ta bắt đầu nghe thấy xung quanh mình tiếng sột soạt điên cuồng của hàng nghìn bước chân chạy nhốn nháo.
“Những con vật nhỏ đáng thương: bị nhốt dưới này và luôn phải tìm thứ gì đó để ăn,” Người đàn ông nói tiếp. “Nhưng chúng không nguy hiểm đâu!”
“Tôi… tôi muốn đi ra khỏi cái hố kinh khủng này ngay lập tức!” Oblivia Newton nói.
Người đàn ông chuột chũi mở nắp một chiếc chum và kêu lên:
“Đây rồi! Có thể ta đã tìm thấy cái gì đó!”
Nhưng Oblivia đã ngất xỉu, ngã vật xuống đất, bất tỉnh nhân sự.
Khi Oblivia mở mắt ra, việc đầu tiên cô ta làm là nhảy dựng lên để chắc chắn không có con chuột nào bám vào gấu váy của mình. Sau đó cô ta nhìn xung quanh và nhận thấy mình đang ở trong đường hầm đầu tiên, đường hầm được những ngọn đuốc thầu dầu chiếu sáng.
Cậu thanh niên người Ai Cập đứng trước cô ta. Và người đàn ông chuột chũi đang đếm một vài đồng xu.
“Mọi chuyện ổn chứ?”
Oblivia cố gắng bình tĩnh lại.
“Không ổn chút nào! Ta không chịu nổi chuột!”
“Những con vật nhỏ đáng thương.” Người đàn ông thì thầm trong khi đến chỗ cô ta. “Những con vật bé nhỏ.”
Oblivia Newton lắc đầu, cố gắng quên đi kỷ niệm kinh hoàng vừa mới xảy ra với mình…
Sau đó cô ta lục trong túi quần túi áo và nhận thấy mình đã hết sạch tiền.
“Đđđúng thế…” Đoán trước được câu hỏi của ả, người đàn ông chuột chũi tiếp tục thì thào. “Cô đã trả cả chi phí đi về… Nhưng chuyến đi có ích đấy chứ, phải không?”
Ông ta đưa cho cô ả một cái bọc to sẫm màu, trên đó có những chữ tượng hình bằng bút lông đỏ.
“Xuất xứ Kilmore Cove,” Oblivia đọc.
Ả mở to mắt nhìn người đàn ông chuột chũi đang gãi cái đầu hình quả lê.
“Ttta đã biết là có cái gì đó trong Kho Lưu Trữ bị chôn vùi mà.”
Oblivia mở cái bọc ra với những ngón tay bồn chồn, làm bay lên một đám bụi. Phía bên trong chứa một đồ vật nhỏ và mỏng, bằng giấy. Một tấm danh thiếp.
GWENDALINE MAINOFF
Thợ làm tóc cao cấp
Số 1B đường St.Patrick Large, 74B20 Kilmore Cove
“Đây là những gì cô đang tìm sao?” Người thanh niên hỏi.
Oblivia lật tấm danh thiếp. Nó bị cháy ở góc.
“KHÔNG!” Cô ta gào ầm lên. “Đây hoàn toàn không phải thứ ta đang tìm kiếm. Ta đã phải đến tận đây để tìm cái gì cơ chứ? Một tấm danh thiếp rách nát sao? Địa chỉ của Gwendaline ta đã biết thừa, việc quái gì cần phải đến Ai Cập cơ chứ!”
Người đàn ông chuột chũi buồn rầu cúi đầu.
“Tuy nhiên đó là tất cả những gì có trong Kho Lưu trữ…”
Tất cả những gì có trong Kho Lưu trữ? Tấm danh thiếp của một thợ làm đầu sao? Oblivia siết chặt nắm tay, bị cơn tức giận làm lóa mắt: sao cô ta lại nghĩ rằng có thể tìm thấy tấm bản đồ của Kilmore Cove ở dưới đó cơ chứ? Cô ta thật quá ngây thơ! Tấm danh thiếp đó chỉ là một bằng chứng cho việc vợ chồng ông bà Moore thường xuyên lui tới Ngôi nhà Sự sống và những hành lang tối tăm của nó. Đây chỉ là một trò đùa của số phận!
Oblivia quay về phía người đồng hành.
“Chúng ta đi thôi! Ngay lập tức!” Cô ta hét lên. “Ta muốn nói chuyện với chủ nhân của ngươi! NGAY BÂY GIỜ!”