← Quay lại trang sách

Chương 2 - Rắc Rối Thực Sự.

Jason chờ ô tô của bố biến mất sau khúc cua, rồi quay phắt về phía cô chị song sinh, tuyên bố:

“Em đi đây. Nói đỡ hộ em nhé.”

“Còn lâu!” Julia phản đối. “Em nghĩ gì vậy!”

Cậu bé lo lắng nhìn ngó xung quanh và nài nỉ. “Em đi nhanh thôi, chỉ mười lăm phút là cùng!”

“Jason…” Cô chị thở dài. “Em không thể tới đó trong mười lăm phút được. Ngọn hải đăng tận ở ngoài làng. Xa lắm. Mà em lại đi bộ.”

“Nhưng chỉ là lúc đi. Khi tới đó, em sẽ lấy lại chiếc xe đạp và trở về nhanh thôi.” Cậu giải thích. “Em phải lấy lại nó. Ngay bây giờ.”

“Em có thể làm việc đó sau khi tan học mà!”

Jason lắc đầu, hai chiếc lông chim màu trắng bé tẹo còn sót lại một cách bí ẩn sau những nỗ lực tắm gội bay ra khỏi tóc. Vài vệt nhựa than đen sì cùng vô số vết trầy xước trên bụng là sản phẩm của những ngày phiêu lưu vừa qua.

Julia vẫn cố thuyết phục cậu em nghĩ lại. Cô bé chỉ cho Jason cánh cửa của ngôi trường làng Kilmore Cove đang mở và những bậc thang dẫn vào phía bên trong, rồi nhắc cậu chỉ vài phút nữa thôi chuông báo hiệu giờ học sẽ vang lên.

“Chị phải nói gì với cô Stella đây?”

“Thì chị cứ bịa ra bất kỳ lý do nào đó!” Jason chống chế. “Sau tất cả những chuyện đã xảy ra trong thời gian qua, đừng nói với em là chị sợ bà giáo đấy nhé! Em chỉ muốn…”

“Em muốn cái gì?” Julia công kích, cố đẩy Jason vào thế bí. Cô biết rõ khi nào cậu em song sinh có những suy nghĩ kỳ quái trong đầu. Và cô đã suy luận xa hàng cây số rằng Jason đâu chỉ đơn giản muốn tới ngọn hải đăng của ông Leonard Minaxo để lấy lại xe đạp. Vả lại, Jason ghét chiếc xe đó, chiếc xe màu hồng ông bà Bowen cho mượn có ghi đông hình cánh bướm, rõ là của con gái.

Nhưng có cố gắng tưởng tượng những thứ diễn ra trong đầu Jason tới đâu thì Julia vẫn không thể hiểu nổi cậu em trai.

“Julia… chị phải giúp em.” Jason nhìn chị, đôi mắt long lanh và khẩn khoản.

“Chỉ cần nói cho chị lý do. Tại sao em không thể làm việc đó sau giờ học?”

Cậu bé thở dài. Rồi đếm ngón tay và giải thích:

“Thứ nhất là vì bố sẽ đến đón, thứ hai là bố sẽ đưa chị em mình về nhà, thứ ba, bố mẹ sẽ hỏi han, và thứ tư là sẽ để mắt đến chúng ta. Chị nói xem, làm thế nào giải quyết được tất cả mọi việc của chúng ta đây?”

Julia cắn môi. Chức danh Kỵ sĩ Kilmore Cove mà chúng vừa được ban tặng cũng kéo theo không ít trách nhiệm.

“Bố mẹ cứ quanh quẩn ở nhà xem ra thật là một rắc rối…”

“Chị còn quên cả quý ông chuyển đồ mà bố mẹ đưa từ London về…”

“Chúng ta nên tạm xa Cánh cửa Thời gian một vài ngày vậy.”

Jason giơ phắt một ngón tay lên.

“Không! Việc này không được! Chúng ta không thể cho phép mình làm vậy. Nhất là khi chúng ta vừa biết tới Chiếc chìa khoá đầu tiên!”

“Nhưng nếu chúng ta lại gần cánh cửa, mẹ sẽ phát hiện ra ngay!”

“Phải liều thôi và phải hành động ngay bây giờ, chị Julia.”

“Nghĩa là sao?”

“Nghĩa là em sẽ đi tới chỗ ông Leonard Minaxo.” Jason rút từ túi quần ra một tấm ảnh cũ kỹ đã cháy sém một nửa và chỉ vào khuôn mặt người gác ngọn hải đăng. “Và em sẽ hỏi xem liệu ông ấy có phải là ngài Ulysses Moore hay không.”

Julia ngó chiếc chuông đồng trong trường, ánh mắt lo lắng. “Và em tin ông Leonard Minaxo sẽ nói với em điều đó ư? Ông ấy sẽ nói rằng ‘Phải, ta là Ulysses Moore’ hay sao?”

Jason nhớ lại ngày hôm trước, lúc ông Leonard nắm chặt bánh lái con tàu Metis, vượt biển thời gian và chèo lái trong cơn bão như một vị thuyền trưởng thực thụ.

“Một thuyền trưởng sẽ không bao giờ nói dối thuỷ thủ của mình,” cậu bé đáp. “Có thể chẳng là toàn bộ sự thật nhưng sẽ không bao giờ nói dối.”

Hai chị em song sinh nhìn nhau lần nữa trước khi Julia nhún vai. “Mười lăm phút thôi nhé?”

Jason gật đầu, quay đi tức thì và bắt đầu chạy dọc theo con đường dẫn ra biển.

Julia chờ cho cậu em đi khuất rồi chuẩn bị tinh thần đối phó với bà giáo Stella. Ngay khi cô bé bước lên cầu thang, chiếc chuông đồng bắt đầu điểm.

Ba lô trên vai, Jason chạy tới con đường chính. Cậu bé nép mình vào bức tường gạch và nheo mắt nhìn ra con đường ven biển. Những sạp bán cá xếp san sát nhau, ngay dưới bóng Quán Gió – nhà trọ duy nhất trong làng. Jason ngó quanh tìm kiếm xe của bố và khi không thấy nó, cậu bé dần trấn tĩnh lại.

Định đi ngược lên con đường ven biển hướng về ngọn hải đăng, bỗng cậu dừng lại. Một hương thơm quyến rũ đang lan toả trong không khí như một sự cám dỗ.

Jason hít hà không ngừng: bánh brioche[1] nhân kem và bánh scone[2] vị táo vừa mới ra lò. Không khó để biết mùi thơm khó cưỡng đó bay ra từ cửa hàng bánh ngọt Chubber.

“Tại sao lại không nhỉ?” Jason tự nhủ khi cân nhắc trong giây lát tính cấp bách của nhiệm vụ lúc này.

Cậu cho tay vào túi đầy hy vọng và sau vài giây nhọc công tìm kiếm, cậu lôi ra được một đồng bảng tròn và sáng choang.

“Tuyệt!” Jason thốt lên sung sướng.

Cậu băng qua đường, cố đẩy lùi nỗi lo sợ bị phát hiện xuống dưới đáy dạ dày, đẩy cửa bước vào tiệm bánh ngọt.

Bên trong không khí đượm hương thơm. Trứng đánh bông, kem, cacao, vani, đường xay và nho sultana[3] là những thứ dễ nhận thấy nhất, đang khoe mình trên tủ bày.

Jason như người mộng du băng qua sàn gỗ màu đen ngăn cách giữa cậu và những chiếc bánh ngọt, đặt đồng xu một bảng lên quầy đá hoa cương, không rời mắt khỏi chiếc nơ trên tạp dề màu xanh da trời của người đối diện, cất giọng gọi hai chiếc brioche nhân kem to bự.

“Một cái cho cháu, còn một cái cho chị gái cháu.” Jason nói dối, như để tự thanh minh. Cậu đâu có ý để dành chiếc bánh thứ hai cho đến lúc quay lại lớp học.

“E rằng hơi nóng một chút nhé cháu!” Người bán bánh hỏi.

“Không sao, càng tốt ạ.” Jason nắm chặt túi giấy trong tay, đoạn quay người định bước ra.

Đột nhiên cậu bé nín thở. Bố cậu và một người đàn ông cậu đã từng gặp trước đây đang ở ngay ngoài kia và chuẩn bị bước vào.

Jason đổi ý ngay lập tức, không để cho cô bán hàng nhìn thấy, cậu tung mình vượt qua dãy bàn và mất hút sau tấm rèm kẻ ô vuông kiểu Scotland.

Cửa tiệm bánh mở ra ngay sau đó và giọng ông Covenant vang lên.

Bất động đằng sau tấm rèm, Jason nghe thấy bố gọi hai chiếc bánh cannolo[4] và hai cốc cà phê sữa.

“Ông thật tốt khi đã đến Kilmore Cove trước cả chuyến xe tải…” Cậu nghe thấy bố mình nói chuyện với người đàn ông vào cùng. “Tôi cũng rất lấy làm tiếc vì sự việc tối qua, ông Homer…”

Jason chợt nhớ ra. Đó chính là nhân viên chuyển đồ nổi tiếng đến Kilmore Cove để theo sát giai đoạn cuối cùng của việc chuyển đồ từ London. Cậu đã gặp ông ta tối hôm trước, trong bóng đêm của khu vườn Biệt thự Argo, lúc mẹ cậu đang cho hai chị em một trận nên thân.

“Nếu ngài không thấy phiền, cứ gọi tôi là kiến trúc sư.” Người đàn ông đính chính.

“Ông kiến trúc sư nổi tiếng”, Jason cũng tự sửa lại trong lúc nheo mắt liếc ra từ phía sau tấm rèm.

Cậu thấy họ ngồi xuống bên một chiếc bàn nhỏ và bắt đầu thảo luận với vài tờ giấy đầy những con chữ và hình vẽ.

Trong khi ông kiến trúc sư đang giảng giải điều gì đó về khối lượng và thể tích, Jason lặng lẽ ăn hết nửa cái bánh brioche nhân kem và quan sát họ.

“Chẳng thể nào ra khỏi đây mà không bị phát hiện”, cậu bé nhận định.

Jason ngó về phía hành lang sau lưng mình: tối và bụi bặm, ván sàn gỗ sẫm màu và những bức tường trắng phủ hơi sô-cô-la và vani trong nhiều năm đã kết lại thành một loại xi nhẵn giòn tan và thơm phức.

Trên hành lang có hai cánh cửa. Cánh cửa thứ nhất dẫn vào một nhà vệ sinh nhỏ có ô cửa sổ xinh xắn trông ra khoảng sân bên trong tiệm bánh.

Cánh cửa thứ hai đang đóng.

Jason thử mở nhưng cậu nhận ra nó không có tay nắm. Cúi mình trong bóng tối để quan sát kỹ hơn, cậu chợt rùng mình ớn lạnh dọc sống lưng.

“Ôi trời…” Cậu lẩm bẩm hoài nghi, bỏ bẵng cái bánh trong túi.

Cánh cửa này giống y chang cánh cửa sau tủ ở Biệt thự Argo, giống y hệt cánh cửa hầm rượu của bà Biggles, mà thi thoảng một chút cát sa mạc Ai Cập lại lọt qua. Nó cũng giống y sì cánh cửa của Ngôi nhà gương, nối Kilmore Cove với Venice xa xôi.

Đó là một Cánh cửa thời gian.

Jason giật mình bừng tỉnh.

Cậu nghe thấy tiếng kéo ghế trên sàn tiệm bánh. Và giọng bố cậu nói với ông kiến trúc sư:

“Tôi sẽ trở lại ngay.”

Jason vội tận dụng những giây ít ỏi lao tới lối vào phòng vệ sinh và khoá chốt đúng lúc bố cậu gõ cửa.

“Xin lỗi, có ai ở trong không?”

Jason tuyệt vọng ngó ra xung quanh, để tránh bị lộ, cậu bèn húng hắng ho và mở vòi nước trên bồn rửa.

“À, xin lỗi.” Ông Covenant nói từ bên ngoài. Ông mở thử cánh cửa thứ hai, rồi cất tiếng huýt sáo trong lúc chờ tới lượt.

Jason bắt đầu đổ mồ hôi. Cậu nuốt khan, rồi lại nuốt khan lần nữa và tính xem phải làm gì. Cậu cố giữ bình tĩnh, phân tích và loại trừ các khả năng. Ra khỏi nhà vệ sinh: bỏ qua. Vậy chỉ còn hai khả năng: giam mình trong đó mãi mãi hoặc thử tẩu thoát qua lối cửa sổ.

Cậu chọn phương án hai.

Jason trèo lên bồn rửa và với tới cửa sổ, cậu vẫn để nước chảy nhằm át những tiếng động. Jason mở tấm kính kéo vào phía trong và xem xét ô cửa hình chữ nhật chỉ vừa đủ cho đầu và ba lô của cậu chui qua.

Nhưng Jason tin mình có thể chui lọt.

Cố giữ bình tĩnh, cậu tháo một sợi dây giày, buộc cố định một đầu vào tay nắm cửa sổ và ném đầu còn lại ra ngoài. Làm vậy để khi thoát ra, cậu có thể đóng kín cửa lại.

Sau đó Jason ném ba lô xuống và nghe tiếng nó lăn lông lốc phía bên ngoài. Cuối cùng cậu bám tay vào gờ tường đu mình lên, thò hai tay và đầu ra rồi nhún gót chân để tạo lực đẩy.

Nhưng Jason đã hoàn toàn bị mắc kẹt. Đầu cậu bị ép vào bả vai bên phải, vai bên trái thì bất động, cẳng tay duỗi ra ngoài trong khi đôi chân khua khoắng trên không.

Jason cố hít thở và giữ bình tĩnh, liên tục tự nhủ rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi. Trớ trêu thật! Nghĩ tới việc bố sẽ vào nhà vệ sinh và cầm một chân lôi cậu ra, dù điều này có khả năng sắp thành hiện thực, cậu bật cười mà như mếu.

Rồi Jason phát hiện, nếu thở hết không khí trong phổi ra, cậu có thể cử động bả vai và cánh tay bên trái. Cậu cố với tay tìm kiếm một điểm tựa bên ngoài cửa sổ nhưng không thấy, nên bắt đầu khua chân mò mẫm. Trong cơn tuyệt vọng, cậu chợt thấy gần chân phải có một mấu nhỏ nhô ra.

Có lẽ đây là cơ hội duy nhất để thành công: cậu đặt chân lên đó, hít một hơi thật sâu rồi thở ra tất cả không khí có trong phổi, và đạp mạnh.

Ông Covenant đi ra từ phía sau tấm rèm kẻ ô vuông.

“Cô có chìa khoá dự phòng của nhà vệ sinh chứ?” Ông hỏi người phụ nữ đứng sau quầy. “Tôi tưởng có ai đó bên trong nhưng chắc cánh cửa bị sập chốt…”

“Dĩ nhiên rồi.” Người phụ nữ mở ngăn kéo, lấy ra chiếc chìa khoá bằng đồng, đặt trên một chiếc khăn ăn và đưa cho ông. “Ông dùng nó để mở cánh cửa thứ nhất thôi nhé. Cánh cửa thứ hai chúng tôi chưa bao giờ mở được.”

Ông Covenant quay lại hành lang và tra chìa khoá vào cánh cửa thứ nhất.

“Tôi vào được chứ?” Ông hỏi lần cuối.

Đoạn, ông bước vào. Chẳng có ai cả.

Ông đóng vòi nước ở bồn rửa và bối rối nhìn quanh: giá treo giấy vệ sinh trên tường bị bật một phần ra khỏi gạch ốp, còn có một túi giấy rơi trên sàn, bên trong là một chiếc rưỡi brioche nhân kem.

“Ôi trời ơi, không!” Jason thầm kêu, khi kiếm tìm túi bánh đó ở phía bên kia bức tường.

Cậu đang ở trong một khoảng sân vuông vắn rải sỏi với hai lối đi lát đá tối màu tạo thành một hình chữ X lớn ở giữa. Một chiếc cầu thang nằm hơi chếch về bên trái ô cửa sổ cậu vừa chui ra, và lối vào một hầm rượu. Ở góc sân có một dây leo xanh mướt và giữa những viên sỏi nhú lên những vạt cỏ nhạt màu.

Jason tựa vào tường, bước vài bước thận trọng, cố tìm xem ba lô của mình ở đâu.

“Có lẽ cậu tìm cái này?” Ai đó cất giọng hỏi từ cầu thang phía sau.

Cậu thấy ba lô của mình trong tay một người nhưng không thể nhìn rõ hình dáng vì những bậc thang khá dốc nằm dưới một mái vòm trong bóng râm.

“Ồ vâng, cháu cảm ơn…” Cậu trả lời, mơ hồ lo lắng. “Cháu có thể nhận lại nó được chứ?”

“Đây là ba lô đi học phải không?” Giọng nói đều đều vang lên.

Lần này Jason có cảm giác cậu đã từng nghe qua, dù không biết là khi nào.

“Vâng ạ…” Cậu bé thú nhận.

“Thế tại sao cậu không ở trường?”

“Hôm nay… lớp cháu đi thăm quan. Và cháu không muốn tham gia.”

“Thú vị đấy…” Một tia sáng kim loại loé lên, người đàn ông trong bóng râm đang kiểm tra đồng hồ đeo tay. “Đi thăm quan ở đâu vậy?”

Jason cắn môi. Tại sao ông ta lại hỏi nhiều thế nhỉ?

“Cháu có thể nhận lại ba lô của mình không?” Cậu kiên nhẫn hỏi lại.

“Dĩ nhiên rồi.” Người đàn ông trả lời và cuối cùng cũng bước ra chỗ sáng.

“Ôi trời ơi!” Jason than thầm.

Là ông hiệu trưởng.