← Quay lại trang sách

Chương 10 - Bài Báo Của Raymond Moore.

Jason và Julia chạy lên cầu thang, dọc tường treo chân dung các vị chủ nhân của Biệt thự Argo. Cuộc điện thoại bố cậu vừa nhận đã xoá đi những suy nghĩ mịt mù trong đầu cậu bé và như luồng gió thổi bùng lò than đang âm ỉ, khiến cậu hăng hái trở lại.

“Ở tiệm Chubber, chị hiểu không?” Cậu kể với chị gái trong lúc leo lên phòng tháp.

“Em chắc chứ?”

“Chắc như em đang ở đây.”

“Biệt thự Argo, nhà bà Biggles…” Julia nhẩm tính. “Ngôi nhà gương và tiệm Chubber. Bốn cánh cửa. Nhưng có bao nhiêu cái tất cả?”

Jason lắc đầu. “Chúng ta không biết. Và đó là điều đầu tiên chúng ta phải khám phá ra.”

“Vậy sẽ bắt đầu từ đâu?”

“Từ thư viện.” Cậu em góp ý. “Trên Đảo mặt nạ, ông Peter đã nhắc đến một quyển sách có nói tới những cánh cửa ở Kilmore Cove và bức vẽ Chiếc chìa khoá đầu tiên.”

Cậu ngước lên tìm ánh mắt của cô chị song sinh, nhưng Julia đang quay lưng lại. Ánh sáng bao quanh cô bé như một tờ giấy bọc quà lấp lánh, cô đang ngắm nhìn vịnh Kilmore Cove sau lớp kính ngọn tháp.

“Chị Julia?”

Cô bé bừng tỉnh khỏi luồng suy nghĩ.

“Thư viện. Chị sẽ đi gọi Rick.”

Jason đọc những tấm biển đánh dấu bằng đồng trên các kệ sách trong thư viện của Biệt thự Argo. Từ bếp vọng lên tiếng ồn do mẹ cậu đang đánh vật với đống bát đĩa, những cành cây trong khu vườn đung đưa theo gió. Bước tới bên cây dương cầm cũ, rồi di chuyển sang chiếc đi-văng bọc da trâu, những chiếc ghế bành xoay, Jason ngửa mặt chăm chú nghiên cứu những gáy sách bọc da, gáy sách với hàng chữ mạ vàng đã sờn tróc theo thời gian, và cả gáy sách màu đen không tên. Những cuốn sách khổ hẹp có vẽ hình các loại nấm với tên gọi mỹ miều bằng tiếng La-tinh, sách chuyên đề giải phẫu học đầy hình vẽ đáng sợ, những cuốn trích lược với các chòm sao và bộ bách khoa toàn thư dày cộp. Jason lướt qua từng hàng sách, nhật ký hành trình, các tập bản đồ địa lý và những quyển nghị luận triết học. Và trong lúc cậu quan sát từng tập sách, những vị tổ tiên trong gia đình từ cây phả hệ vẽ trên trần nhà như thể đang tò mò nhìn cậu.

Cuối cùng Jason cũng tìm thấy thứ mình đang tìm kiếm. Cậu hài lòng khi nhìn thấy cuốn sách khổ hẹp và dài, được bọc bằng da thuộc màu đỏ đó. Tên sách được in bằng những chữ cái thanh lịch theo trường phái Tự do: Sổ tay của Những kẻ trốn chạy. Chìa khóa, ổ khóa, lối đi bí mật và cơ chế tẩu thoát.

Jason kéo chiếc ghế bành dưới kệ, trèo lên lấy cuốn sách và thấy trên bìa có gắn một chiếc gương tròn.

Julia vừa trở lại phòng với cuốn Từ điển những ngôn ngữ bị lãng quên.

“Một lát nữa Rick sẽ tới.” Cô bé vừa nói vừa ngồi xếp bằng trên tấm thảm gần cậu em. “Em tìm được cái gì thế?”

Jason không trả lời, cuốn sách đã hớp hồn cậu. Những trang giấy khổ hẹp, mỏng manh như giấy nến và có màu thạch cao tuyết hoa không trắng cũng chẳng xám, chữ được in thành hai cột, ngăn cách nhau bằng họa tiết hoa thanh lịch. Thi thoảng xen giữa các bài viết dày đặc là hình minh họa trắng đen. Phần lớn là hình những ổ khóa tinh vi, các bộ phận của ổ khóa và cơ chế mở những ngăn bí mật phía trong tủ, rương hay nhà ở. Đi kèm mỗi hình minh họa là một mạng lưới kín đặc những mũi tên và con số giải thích chi tiết cách vận hành, ví dụ như: kéo tay đòn số một được cố định bên trong chân nến sẽ tác động đến quả cân nối liền với ròng rọc số hai, làm kéo trục số ba và mở cánh cửa ở bức tường số bốn – tưởng như chỉ là một chiếc gương đơn thuần.

Jason chăm chú quan sát những cơ chế cho phép các ổ khóa kết hợp kiểu “Voronoff” mở ra một lần trước khi tự hủy. Cậu cũng khám phá ra cách tạo răng cưa đặc biệt của chiếc chìa khóa “Coquelbrune” được giới quý tộc Pháp sử dụng để giấu trang sức trong nhà.

“Thật thần kỳ…” Cậu thì thào sau mỗi trang sách, hăng say quan sát những sợi dây xích và ổ khóa, những két sắt và cửa hầm chốt sập, cửa xoay và cầu thang bí mật.

Rồi như chợt nhớ ra lý do tìm cuốn sách, cậu vội gập lại và lật phía sau ra tìm mục lục.

Cuốn sách là tuyển tập nhiều bài viết riêng lẻ của các tác giả khác nhau và được minh họa theo những cách khác nhau. Đặt cuốn sách ở giữa để chị gái cùng xem, Jason lần theo trang mục lục mỏng manh mà các tác giả được sắp xếp không theo một trật tự rõ ràng nào, cho đến khi tìm thấy: Raymond Moore. Tóm lược khám phá khoa học về tám cánh cửa của Cornovaglia. Sự tò mò về kỹ thuật và giấc mơ của tên trộm bẻ khóa. Trang 223.

“Tám cánh cửa!” Cậu reo lên, nôn nóng giở tới trang số 223.

“Raymond Moore…” Julia lẩm bẩm, ngước mắt nhìn cây phả hệ vẽ trên trần. Cô bé tìm kiếm giữa rất nhiều cái tên trên các nhánh, bắt đầu từ cái tên cuối cùng Ulysses, cho đến tổ tiên của cả dòng họ, cụ tổ Xavier. “Đây rồi!” Cô reo lên khi tìm ra cái tên Raymond. Ông đã kết hôn với một quý bà Fiona nào đó.

Julia đếm các thế hệ ngăn cách giữa ông Raymond và chủ nhân cũ của ngôi nhà rồi kết luận:

“Chúng ta đang nói về một người sống cách đây ít nhất bốn trăm năm.”

“Ông Leonard Minaxo cũng đã nói với em về ông ấy.” Jason nói.

“Về Raymond Moore ư? Lúc nào vậy?”

“Hôm qua,” cậu bé nhớ lại, “lúc qua cổng Công viên Rùa, ông ấy đã giải thích rằng công viên được một vị tổ tiên nhà Moore xây dựng: chính là ông Raymond.” Cậu chỉ vào cái tên bên dưới tiêu đề bài báo. “Thậm chí, chính xác hơn, ông Leonard đã buột miệng nói Raymond là một vị tổ tiên của ông ấy.”

“Vậy là người gác ngọn hải đăng…”

“Đúng vậy.” Jason đáp và bắt đầu đọc.

Bài viết có kiểu hành văn cổ điển và hoa mỹ điển hình của thời bấy giờ. Sau một đoạn lời chào bạn đọc dài thượt, ông tổ của ngài Ulysses mới bàn đến vấn đề chính. Raymond viết rằng ông đã biết đến sự tồn tại của một mảnh đất thanh bình ở phía nam Cornovoglia, nơi này có những ổ khóa rất kỳ lạ và chỉ có thể tới đó bằng đường biển. Raymond đã vẽ lại rất chi tiết. Ngôi làng chỉ có một vài công trình bằng đá và không có đặc điểm nổi bật nào, ngoại trừ phong cảnh nên thơ mà xét cho cùng cũng là điểm chung của các địa phương khác trong vùng.

Julia nhắc cậu em để ý đến chi tiết ông Raymond rất cẩn trọng không bao giờ nhắc đến tên gọi Kilmore Cove, luôn khăng khăng rằng không có tuyến đường nào nối nó với những ngôi làng khác và chỉ có thể tới đó bằng thuyền.

Tám ổ khóa được đặt trên tám cánh cửa, nằm rải rác trong những toà nhà khác nhau trong làng: một trụ sở bưu điện, một ngôi nhà cú mèo lãng mạn, nơi ở của một ngư dân, một chuồng gia súc, một đền thờ nhỏ cổ kính nằm trên đỉnh đồi, một nhà máy Beamish nào đó, tháp canh và ngọn hải đăng.

Thật kỳ lạ, theo tác giả bài báo, không có cánh cửa nào nằm ở những tòa nhà mang tính đại diện cho ngôi làng, chẳng hạn như nhà thờ, hay ở những nơi tương tự. Rồi một cánh cửa còn hoàn toàn không gắn với tường và đứng dựa vào mặt sau một chiếc xe kéo.

Chúng được làm từ gỗ cứng rất chắc chắn và sẫm màu. Trong số tám cánh cửa, có duy nhất một cánh cửa dường như cổ hơn những cánh còn lại và có ổ khóa phức tạp nhất. Đó là cánh cửa bên trong tháp canh cổ, một công trình kiến trúc La Mã ngự trên đỉnh núi đá.

Hai chị em chợt rùng mình nhận ra bức vẽ ổ khóa của Cánh cửa Thời gian ở Biệt thự Argo.

“Vậy là… ngôi nhà này nằm trên một ngọn tháp La Mã cổ đại sao?” Julia thì thầm.

“Một tháp canh cổ.” Jason đính chính và bắt đầu đọc to: “Các ổ khóa tuyệt vời của những cánh cửa này không cần bất cứ sự bảo dưỡng nào và cơ chế hoạt động của chúng cũng không phụ thuộc vào đòn gánh, tạ, hay ma sát, như thể bên trong chúng có chứa chất lỏng vậy. Đáng chú ý nhất chính là chất liệu đã tạo nên chúng: một loại hợp kim siêu mỏng tránh được cả phân tích giả kim tỉ mỉ nhất. Sau khi tôi sử dụng những chất thử phản ứng với số lượng nhỏ nhất để xác định bản chất của nó, có thể nói rằng, phần lớn hợp kim này được cấu tạo từ vàng, vì chẳng chất thử phản ứng nào ngoại trừ thuỷ ngân có thể ăn mòn nó. Tuy nhiên tính chất hoạt động lại không thể hiện tính dễ uốn cũng như tính dẫn nhiệt của vàng, vì vậy tôi để lại bảng kết quả (số 3) sau đây cho những học giả muốn tới địa danh này để nghiên cứu thêm.” Jason dừng một lát rồi đọc tiếp: “Các cơ chế trình bày phía trên được vận hành nhờ những chiếc chìa khóa với kiểu dáng đơn giản và thanh tao, có khắc hình những con vật kỳ quái. Trong nghiên cứu này, tôi đã có cơ hội tìm hiểu năm trong số những chiếc chìa khoá đó, các bạn có thể theo dõi hình vẽ (ở bảng 5): ngựa, mèo, sư tử, cá biển lớn và một chú khỉ cáu kỉnh. Tôi có lý khi tin rằng số lượng chìa khóa chính xác là mười một: bốn chiếc dùng cho ổ khóa phức tạp ở trên tháp, bảy chiếc khác mở những cánh cửa trong làng. Nhưng tôi lại không biết khuôn mẫu của những chiếc chìa khóa này. Khoan đã… khoan đã…” Jason ngưng đọc, lẩm bẩm. Cậu lấy một tờ giấy và ghi lại tên những chiếc chìa khóa Raymond Moore đã nhắc tới, cùng số chìa mà cậu biết. Sau cùng, cậu có được danh sách này:

Ngựa

Mèo

Sư tử

Cá biển lớn (cá voi?)

Mèo rừng

Ốc sên

Rắn

Ác là

“Tám chiếc cả thảy. Còn thiếu ba chiếc nữa.”

“Và bốn cánh cửa.” Julia thêm vào. “Ngoài cánh cửa ở Biệt thự Argo, nhà bà Biggles, ngôi nhà gương và tiệm bánh Chubber.”

“Nhưng ông Raymond nói có một cánh cửa trong ngọn hải đăng…”

“Đúng.”

“Những nơi khác hơi khó xác định… Nhà của ngư dân hay nhà máy Beamish thì tương ứng với chỗ nào đây?”

“Chúng ta có thể hỏi Rick.” Julia đưa ra ý kiến.

Jason trầm tư. Một lát sau, cậu lên tiếng: “Tất cả cánh cửa đã được đánh dấu trên tấm bản đồ mà Oblivia đánh cắp của chúng ta.”

“Ai đó đã giấu tấm bản đồ ở Ai Cập cổ đại để nó được an toàn.”

“Giống như ai đó đã giấu tất cả những chiếc chìa khóa ở đâu đó.”

“Núi Lửa Đen?”

“Phải rồi.” Jason nói, đoạn giở trang sách. “Bậc thầy về chìa khóa.”

Bài báo của Raymond Moore kết thúc với một số suy luận về những chiếc chìa khóa và lý do tại sao chúng lại khắc hình các con vật. Sau đó, ở cuối trang là hình minh họa khiến hai chị em phải nín thở.

Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên.

Trông nó giống hệt những chiếc chìa khóa mà bọn trẻ có, ngoại trừ con vật ở trên đầu: ba con rùa.

“Những con rùa, dĩ nhiên rồi! Tại sao trước đây chúng ta lại không nghĩ đến nhỉ?” Tới lúc đó, Jason mới thốt nên lời.

Dưới hình minh họa, Raymond Moore chú thích: Một nghiên cứu chuyên sâu về khuôn mẫu của những ổ khóa và cánh cửa đã đưa tôi đến suy luận rằng chúng là tác phẩm của một người thợ thủ công duy nhất. Hoặc của một nhóm thợ thủ công tài hoa đã chế tạo ra những kiệt tác cơ khí này, lấy cảm hứng từ một ý tưởng ban đầu rồi tạo hình khác nhau để mỗi chiếc chìa khóa trở nên độc nhất vô nhị theo cách riêng của nó. Không ai trong ngôi làng biết đến danh tính của những người đã tạo ra những cánh cửa, không ai hay biết đó là một người, một nhóm hay cả một bộ tộc những người thợ kim hoàn cổ đại với hiểu biết và tay nghề thủ công có một không hai. Nhưng tôi nghĩ rằng những chiếc chìa khóa được đúc ra tương ứng với bản vẽ mà tôi minh hoạ cho phần chú thích cuối cùng này: Chiếc chìa khóa đầu tiên, hay chiếc chìa khoá có thể mở và đóng tất cả tám cánh cửa mà từ đầu đến giờ tôi đề cập tới. Chiếc chìa khóa này có, hoặc có thể có (vì tôi không chắc chắn lắm vào sự tồn tại của nó), hình dáng và kích thước giống hệt những chiếc chìa khóa khác và trên đầu có khắc hình ba con rùa. Đây chính là chữ ký, dấu ấn và ký hiệu nhận biết những người đã tạo ra các cánh cửa: ba con rùa, những con vật hiền hòa, thông thái, có thể sống cả trên cạn lẫn dưới nước, những nhà khám phá với tuổi thọ cao. Độc giả thân mến, tôi để lại cho các bạn nhiệm vụ giải mã những bí ẩn còn lại.

“Ba con rùa là biểu tượng của những người đã tạo ra những cánh cửa.” Jason đồng tình.

“Chúng được khắc trên cái hang phía dưới vách đá.” Julia nói.

“Và chúng cũng được khắc ở Công viên Rùa, không phải vô tình mà nó mang cái tên ấy.”

“Và cũng không phải vô tình mà nó lại do Raymond Moore thiết kế.”

Hai đứa trẻ sinh đôi im lặng trong giây lát, suy nghĩ về khám phá vừa rồi.

“Em có tin những cánh cửa được người nào đó trong gia đình Moore dựng nên không?” Một lát sau, Julia hỏi.

Jason lắc đầu. “Em không tin. Hay chính xác hơn là em không biết.”

Ánh mắt của cậu bé vẫn bị bức vẽ Chiếc chìa khoá đầu tiên thu hút. Đúng lúc đó, Jason và Julia nghe thấy tiếng bước chân của mẹ.

Jason gấp cuốn sách lại và quả quyết: “Chúng ta phải hành động thôi.”

“Phải bắt đầu từ đâu đây?”

“Chúng ta phải tìm ra chiếc chìa khóa này. Nghĩa là chúng ta phải tìm ra Núi Lửa Đen.”

“Nhưng bằng cách nào?”

“Trước tiên chúng ta phải đi nói chuyện với ông Nestor trước đã.”