Chương 11 - Marco Polo Và Sự Trở Về.
Chiếc thuyền gondola bằng máy của Peter Dedalus lướt chầm chậm qua các con kênh, thoạt nhìn có vẻ nó chuyển động mà không cần sự hỗ trợ của mái chèo, con sào hay động cơ nào cả. Trên thực tế, người thợ đồng hồ của Kilmore Cove đã lắp vào thân thuyền một cơ chế bàn đạp đơn giản cho phép ông lái nó một cách thoải mái khi ngồi phía đuôi thuyền.
Chiếc thuyền lặng lẽ đi tới Kênh Lớn rồi rẽ về phía cầu Rialto, sương mù vẫn giăng mờ những con kênh chằng chịt.
“Venice tuyệt đẹp vào buổi sáng, phải không nào?”
Oblivia ừ hữ không lấy làm hào hứng. Cô ả căng thẳng ngồi trên mũi thuyền, vô cảm trước vẻ quyến rũ của thành phố ẩm ướt này.
“Anh nghĩ còn bao xa nữa?” Cô ả hỏi khi phải cúi đầu qua cây cầu thứ n.
Khi thuyền qua gầm cầu, Peter giảm tốc độ và chỉ cho người phụ nữ cáu kỉnh thấy một dòng chữ được khắc trên thân cầu, rất khó nhìn nếu không đi dưới nước.
“Có những thứ người ta chỉ khám phá ra khi quan sát từ góc độ thích hợp.” Ông cất giọng bình thản.
“Xin anh tiết kiệm hộ tôi cái triết lý kiểu lái thuyền,” cô ả đáp trả, “và vào thẳng chủ đề chính đi.”
“Chủ đề chính sao Oblivia? Chủ đề chính là nếu không có chiếc chìa khóa chuẩn, cô sẽ không mở được cánh cửa đúng.”
“Anh nói điều đó với tôi sao?” Người phụ nữ mỉa mai. “Tôi đã mất hàng năm trời để khám phá ra cách sử dụng chiếc chìa khóa đầu mèo. Và tôi đã làm được chỉ đơn thuần do may mắn.”
“Một may mắn không nhỏ chút nào vì như cô đã nói, may mắn đó đã giúp cô dễ dàng có được tấm bản đồ đánh dấu tất cả tám cánh cửa trong làng.”
“Không hẳn là dễ dàng…” Oblivia đính chính, ả đang cố kìm lại cơn rùng mình khi nghĩ đến ông chủ cửa hàng Những tấm bản đồ bị lãng quên cùng con cá sấu hung tợn của ông ta.
“Vậy là cô biết có một Cánh cửa Thời gian ở Biệt thự Argo.”
“Peter, nếu anh có ý định đùa giỡn thêm nữa, thì hãy cho tôi biết để tôi còn cuốn gói khỏi cái thuyền ọp ẹp này ngay lập tức!”
Đáp lại, người thợ đồng hồ đạp nhanh hơn để vượt qua một chiếc thuyền gondola gần đó.
“Đã nhiều năm nay tôi luôn tìm cách chinh phục ngôi nhà đó. Nhưng gã chủ nhân trước và tên làm vườn lố bịch đã cản đường tôi.” Oblivia tiếp tục.
“Nguyên nhân sẽ sớm được tiết lộ.” Peter khẽ nói rồi im lặng hồi lâu, cân nhắc cẩn thận điều gì nên nói và điều gì thì không. “Vì cánh cửa ở Biệt thự Argo không chỉ đơn giản là một… Cánh cửa Thời gian. Đó là Cánh cửa Thời gian cổ nhất.” Ông nói nhanh, như thể vừa trút được một gánh nặng. Rồi lại nói liền một mạch, trước khi đổi ý: “Đó là cánh cửa duy nhất phải mở bằng bốn chiếc chìa khóa và có thể thay đổi điểm đến.”
“Nghĩa là sao?”
“Nhờ một cơ chế rất tuyệt do Raymond Moore chế tác ra và sau này được cháu ông ta, William – người có biệt tài về sân khấu và phối cảnh – hoàn thiện với một con tàu.”
“Anh đang nói tới con tàu nào vậy?” Oblivia đột nhiên chú ý.
“Biệt thự Argo đầy ắp những điều bất ngờ. Nơi đó sinh trưởng biết bao thế hệ người lập dị say mê các lối đi bí mật.”
“Tôi yêu những lối đi bí mật!”
“Cô nói điều đó với ai kia chứ…” Peter dường như đang đắm chìm vào những ký ức sầu muộn, và chỉ trong giây lát đã thổ lộ một điều bất ngờ: “Ví dụ như trong thư viện, chỉ cần xoay những tấm biển bằng đồng trên giá sách lịch sử là có thể mở ra một lối đi.”
Nhưng ngay sau đó Peter chợt bừng tỉnh, kinh ngạc và hối hận về lời thú nhận lần thứ n, ông vội lấp liếm. “Nhưng nó chẳng dẫn đi đâu hết. Chỉ đơn giản là một trò chơi. Những lối đi bí mật thực sự là những cái khác…”
“Những cái khác ư, Peter?”
“Dĩ nhiên rồi, dưới ngôi nhà đó là cả một mạng lưới gần như vô tận những con đường hầm dẫn tới một cái hang lớn. Thậm chí…” Lần này, Peter dừng lại đúng lúc, rồi tiếp tục. “… Trong cái hang có một con tàu… và sau con tàu mở ra cánh cửa thứ hai dẫn đến bất cứ nơi nào cô có thể tới… với những Cánh cửa Thời gian khác nằm rải rác trong làng.”
Đôi mắt Oblivia sáng rực như hai ngọn đuốc trước những lời của Peter,.
“Giờ thì tôi đã hiểu! Hoá ra bọn lỏi con làm theo cách đó để tới Ai Cập… và tới cả đây, Venice. Cánh cửa ở Biệt thự Argo thống trị tất cả những cánh cửa khác!”
“Cô đang nói về bọn lỏi con nào cơ?” Peter hỏi.
“Không có gì.” Oblivia chặn họng Peter, rồi lại tiếp tục lẩm bẩm. “Vậy là bọn trẻ có bốn chiếc chìa khóa…”
“Cô đang nói về bọn trẻ nào vậy?” Người thợ đồng hồ gặng hỏi.
Với giọng khinh khỉnh, Oblivia kể lại vắn tắt những điều ít ỏi mà cô ả biết được về vụ bán ngôi biệt thự và hai đứa trẻ sinh đôi nhà Covenant.
“Nhưng…” Cô ả hỏi khi đến cuối câu chuyện. “Núi Lửa Đen đáng lẽ phải mang theo cả bốn chiếc chìa khóa của Biệt thự Argo chứ?”
“Đúng là ông ấy phải mang theo.” Peter đáp. “Nhưng tôi không biết thêm gì nữa vì tôi đã bỏ đi trước ông ta.”
Đầu óc Oblivia bắt đầu quay cuồng với hết suy nghĩ này đến suy nghĩ khác. Nếu cánh cửa của Biệt thự Argo có thể dẫn tới mọi địa điểm mà ta tới được qua những cánh cửa khác, thì…
“Tôi biết ngay là đáng lẽ tôi phải mua ngôi nhà đó mà!” Cô ả la lên.
“Vậy là cô muốn truy tìm Núi Lửa Đen…” Peter nhỏ giọng kết luận. “Cách duy nhất để cô làm được việc đó là sử dụng Cánh cửa Thời gian ở Biệt thự Argo.”
“Để đi tới đâu? Anh biết Núi Lửa Đen trốn ở đâu chứ?”
“Chiếc chìa khóa đầu ngựa dùng để mở cánh cửa có hình con ngựa.” Peter Dedalus trả lời. “Và cánh cửa có hình con ngựa sẽ dẫn đến một khu vườn thần bí…”
“Nghĩa là sao?”
“Xem này…” Người thợ đồng hồ nói.
Chiếc thuyền gondola máy đã rẽ vào một con kênh khá hẹp và ngang qua ngôi nhà không có gì đặc biệt, với khoảng sân trong khá rộng.
“Ở trong đó ư?” Oblivia hỏi.
“Ồ, không…” Peter cười lớn. “Đó là ngôi nhà nơi Marco Polo chào đời. Trên thực tế, người ta không chắc có phải chính ngôi nhà này nhưng những người Venice thích nghĩ như vậy.”
“Nhưng ông này thì liên quan gì đến khu vườn?”
“Có chứ, có liên quan… bởi chính Marco Polo đã kể về sự tồn tại của khu vườn huyền bí, giàu có này, nơi tuôn ra suối ngọc và mưa vàng…”
“Thú vị nhỉ.” Oblivia lẩm bẩm.
“Một khu vườn rộng như một vương quốc, nằm lãng quên đâu đó ở phương Đông, hoặc có thể ở Etiopia, ai mà biết được? Chưa ai từng nhìn thấy nó, kể cả Marco Polo, trong cuốn sách về ký ức mang tên Một triệu của mình, ông ta cũng chỉ đề cập tới những gì đã nghe được.”
“Chỉ có duy nhất một triệu mà tôi quan tâm. Đó là một triệu Bảng Anh.” Oblivia đáp trả. “Nhưng thôi anh cứ tiếp tục đi.”
“Tôi nói xong rồi. Tôi tin rằng Núi Lửa Đen đã tới đó để cất giấu những chiếc chìa khóa của Kilmore Cove. Nếu cô muốn tìm thấy chúng, cách duy nhất là vào Biệt thự Argo.”
Ngang qua một chồng sách, bà Calypso suýt chút nữa hét ầm lên. Bà không ngờ trong hiệu sách lại có người. Bà không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào, kể cả tiếng chuông trên cửa ra vào và vẫn nghĩ chỉ có một mình mình.
Bà lùi lại một bước và đưa tay ép chặt lên ngực trái như để ngăn trái tim không bật ra khỏi lồng ngực. Rồi bà tựa người vào tường và cố trấn an vì quá khiếp đảm, bà cất giọng:
“Anh phải xin phép trước khi vào chứ?”
Người đàn ông đứng trước mặt bà mỉm cười. Một nụ cười sắc như dao cạo. Ông ta gãi gãi dải băng trên mắt và vụng về tìm cách xin thứ lỗi.
“Mong bà bỏ quá cho. Vì sống một mình nên tôi quên mất cách cư xử lịch sự.”
Bà Calypso ném cho ông ta cái nhìn đầy trách móc thứ hai rồi tiến lại gần, cố nhớ xem phải làm gì.
“Anh muốn gì, Leonard?” Bà chẳng vòng vo. “Tôi thấy mấy ngày nay anh xuất hiện ở hiệu sách này còn nhiều hơn cả năm ngoái.”
“Chúng đã phát hiện ra chúng ta.” Ông nói.
“Ai đã phát hiện ra chúng ta cơ? Mà phát hiện ra cái gì?”
“Bọn trẻ. Những đứa trẻ từ London.”
“Tôi thích điều đó.”
“Tôi thì không.”
Bà Calypso đưa mắt nhìn ông ta từ đầu tới chân.
“Anh hẳn là không đến tận đây chỉ để nói với tôi điều này. Và nếu anh muốn biết điều gì, thì đó là anh đang dây bùn ra khắp sàn nhà rồi đấy.”
Khuôn mặt của Leonard Minaxo chợt bừng sáng. “Tôi lại lái chiếc xe ủi đấy. Như thuở trước vậy.”
Bà lắc đầu, cơn giận bốc lên khuôn mặt nhỏ nhắn. “Đừng nói với tôi là các anh lại bắt đầu đấy.”
“Trái lại, đúng là như thế.”
“Trên con đường nào?”
“Trên con đường dẫn tới London.”
“Chết tiệt, Leonard!” Người phụ nữ la lên. “Vậy là chúng ta lại bị cô lập với thế giới?”
“Ừ thì trong vài ngày.” Người gác ngọn hải đăng vừa thú nhận vừa ngó xuống đôi bàn tay rắn chắc. “Cô biết thế nào rồi đấy… vài cái cây bị đốn, vài cái hố được đào chuẩn xác…”
Bà Calypso chọn trong số những quyển truyện vừa được mang tới, một cuốn trinh thám lịch sử lấy bối cảnh Đại chiến thế giới lần thứ hai, và đặt nó vào vị trí trung tâm trong tủ kính.
“Vậy thì chúng ta nên gọi anh trai của Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ để sửa lại con đường.”
“Tôi làm rồi. Tôi đã thông báo cho Fred.”
“Leonard, tôi có thể biết tại sao các anh bắt đầu lại sự điên rồ này không? Hay có lẽ tôi nên nói rằng anh lại bắt đầu? Anh tự làm tất cả theo ý mình phải không?”
“Không. Calypso, hãy nghe tôi… Bọn trẻ giống như chúng ta hồi ở tầm tuổi chúng. Chúng không ngu ngốc chút nào cả.”
“Tôi sẽ cho anh biết điều đó khi chúng trả tôi những quyển sách tôi đã khuyên chúng đọc.”
“Không chỉ có những quyển sách.”
“Không ư? Vậy thì có cái gì? Tàu bị đắm, bình dưỡng khí hay những cuộc lặn biển?”
“Chúng làm tôi muốn… bắt đầu lại.” Leonard Minaxo thú thực. “Tôi đã thấy lại bộ tóc đỏ của chàng trai Banner, những chiếc chìa khóa và Venice…”
“Anh đã du hành ư?”
“Phải. Tôi lại du hành. Và tôi hiểu chưa bao giờ mình lại gần sự thật đến thế.”
“Anh đã nói với tôi điều đó nhiều năm nay rồi.”
“Những người khác đã từ bỏ. Nhưng tôi thì không, Calypso. Tôi nghĩ mình biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi sẽ tiếp tục.”
“Cho đến giờ, đó chỉ là nỗi ám ảnh của anh thôi.”
“Tôi tới gần sự thật lắm rồi.”
“Còn tôi sẽ nói với anh rằng anh chẳng gần chút nào. Tốt hơn hết anh nên đi về tắm rửa đi!”
Minaxo đứng bất động giữa hiệu sách, đằng nào bà chủ nhỏ bé của nó cũng đã kết thúc bằng việc chống tay lên hông với dáng vẻ giận dữ và hỏi: “Leonard, tại sao anh tới đây?”
Ông chuyển sức nặng cơ thể từ chân này sang chân kia nhiều lần trước khi quyết định trả lời: “Tôi muốn chào cô.”
“Leonard… không…” Giờ thì Calypso thầm thì, trong tiếng thầm thì gói gọn hàng ngàn điều âu lo.
“Tôi sẽ trở lại biển khơi. Tôi sẽ trở lại để tìm kiếm.” Người gác ngọn hải đăng nhấn mạnh và quay người nhanh như cắt.
Và lần này, khi ông bước ra, chuông trên cửa ra vào rung lên bần bật.